Một số quy định của pháp luật quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác thải

Ô nhiễm môi trường biển do rác thải đang

là vấn đề hết sức quan trọng, đã trở thành vấn

đề toàn cầu, đe dọa an toàn, an ninh cá nhân

mỗi con người, sinh vật biển, vấn đề này ngày

càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển

kinh tế-xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển

của các thế hệ hiện tại và tương lai, đặc biệt là

với các quốc gia đang phát triển, trong đó có

các quốc gia châu Á.

Roland Geyer, Jenna R. Jambeck và Kara

Lavender Law (2017) cho rằng [1]:

Đến thời điểm hiện nay có khoảng 8.300

triệu tấn nhựa nguyên chất đã được sản xuất.

Trong năm 2015, có khoảng 6.300 triệu tấn rác

thải nhựa, khoảng 9% trong số này đã được tái

chế, 12% được đốt và 79% được chôn lấp hoặc

thải ra môi trường tự nhiên. Nếu theo xu hướng

quản lý chất thải và sản xuất như hiện nay, đến

năm 2050 chúng ta có khoảng12.000 triệu tấn

rác thải nhựa được chôn lấp hoặc thải ra môi

trường tự nhiên.

pdf 10 trang kimcuc 7120
Bạn đang xem tài liệu "Một số quy định của pháp luật quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác thải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số quy định của pháp luật quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác thải

Một số quy định của pháp luật quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác thải
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 
49 
Review Article 
Some regulations of International Law on 
Prevention of Marine litter 
Mai Hai Dang* 
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 20 November 2019 
Revised 12 December 2019; Accepted 20 December 2019 
Abstract: This paper aims to provide an overview of the regulation and management instruments 
developed at international, regional and national levels to address marine litter problems, put 
forward the potential gaps in the existing management body and suggest solutions. The article also 
review the role of international law in managing the problem of marine litte. In addition, 
regulations of Vietnamese law for Prevention and Management of Marine litter is discussed. The 
paper concludes with a few policy conclusions in Viet Nam. 
Keywords: Marine litter, Management, Regulation, International Law, Environmental 
Protection, VietNam. 
. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: dangmh@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4248 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 
50 
Một số quy định của pháp luật quốc tế về 
ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác thải 
Mai Hải Đăng* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 20 tháng 11 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 12 năm 2019 
Tóm tắt: Bài viết nêu và phân tích một số quy định của pháp luật Quốc tế về ngăn ngừa và bảo vệ 
môi trường biển do rác thải; bài báo cũng chỉ ra vai trò của pháp luật quốc tế trong việc điều chỉnh 
những vấn đề về ô nhiễm biển; qui định của pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và bảo vệ môi 
trường biển do rác thải; đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam 
Từ khoá: Rác thải; pháp luật quốc tế; ngăn ngừa ô nhiễm biển, bảo vệ môi trường; Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề * 
Ô nhiễm môi trường biển do rác thải đang 
là vấn đề hết sức quan trọng, đã trở thành vấn 
đề toàn cầu, đe dọa an toàn, an ninh cá nhân 
mỗi con người, sinh vật biển, vấn đề này ngày 
càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển 
kinh tế-xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển 
của các thế hệ hiện tại và tương lai, đặc biệt là 
với các quốc gia đang phát triển, trong đó có 
các quốc gia châu Á. 
Roland Geyer, Jenna R. Jambeck và Kara 
Lavender Law (2017) cho rằng [1]: 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: dangmh@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4248 
Đến thời điểm hiện nay có khoảng 8.300 
triệu tấn nhựa nguyên chất đã được sản xuất. 
Trong năm 2015, có khoảng 6.300 triệu tấn rác 
thải nhựa, khoảng 9% trong số này đã được tái 
chế, 12% được đốt và 79% được chôn lấp hoặc 
thải ra môi trường tự nhiên. Nếu theo xu hướng 
quản lý chất thải và sản xuất như hiện nay, đến 
năm 2050 chúng ta có khoảng12.000 triệu tấn 
rác thải nhựa được chôn lấp hoặc thải ra môi 
trường tự nhiên. 
Một nghiên cứu khác cho thấy nhựa được 
ước tính chiếm tới 95% lượng rác thải biển 
được tìm thấy ở bờ biển, mặt biển và đáy đại 
dương (Galgani, Hanke, and Maes, 2015). Theo 
nghiên cứu của Jambeck và các cộng sự (2015) 
ước tính có khoảng 4,8 triệu đến 12,7 triệu tấn 
rác thải nhựa được thải vào đại dương từ các 
nguồn trên đất liền vào năm 2010 [2]. Mỗi năm 
Việt Nam xả ra đại dương 0,28 đến 0,73 triệu 
tấn rác thải nhựa, đứng thứ tư thế giới, sau 
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 51 
Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Về tuổi 
thọ của nhựa, Xanthos and Walker (2017) chỉ ra 
độ bền của nhựa được ước tính là hàng trăm 
đến hàng ngàn năm [3]. Do vậy tác động của 
rác thải nhựa đối với môi trường và hệ sinh thái 
biển là rất quan ngại, ảnh hưởng lớn đến phát 
triển kinh tế, con người và môi trường. Ô nhiễm 
môi trường biển do rác thải tại Việt Nam còn 
làm ảnh hưởng đến mỹ quan của bờ biển, làm 
giảm sức hấp dẫn khách du lịch và gây nguy 
hiểm cho các hoạt động hàng hải bao gồm đánh 
bắt cá và du lịch; tác động trực tiếp đến việc 
hưởng thụ các quyền con người, trước hết là 
quyền được sống trong môi trường trong lành 
của tất cả mọi người. 
Trong báo cáo của Chương trình Môi 
trường của Liên hợp quốc (UNEP) đưa ra khái 
niệm về rác biển [4]. 
“Rác biển”, được định nghĩa là bất kỳ các 
vật liệu rắn nào được sản xuất hoặc xử lý, hoặc 
loại bỏ vào môi trường biển và ven biển 
(UNEP, 2016). 
Công ước quốc tế về Ngăn ngừa ô nhiễm do 
tàu gây ra năm 1973 đã được Hội nghị quốc tế 
về ô nhiễm biển do IMO thông qua năm 1973. 
Công ước này sau đó được sửa đổi bổ sung 
bằng Nghị định thư 1978 viết tắt là 
MARPOL 73/78 đưa ra khái niệm về rác [5]: 
 “Rác” là tất cả các thức ăn thừa, chất thải 
sinh hoạt và khai thác, trừ cá tươi và các sản 
phẩm từ chúng, được sinh ra trong quá trình 
khai thác bình thường của tàu và được thải ra 
ngoài liên tục hoặc định kỳ. 
Rác còn bao gồm tất cả các dạng chất 
dẻo, kể cả nhưng không hạn chế dây bằng vật 
liệu tổng hợp, lưới đánh cá bằng vật liệu tổng 
hợp, bao gói chứa rác bằng chất dẻo và tro 
của lò đốt là sản phẩm từ nhựa mà có thể 
chứa các chất độc hại hoặc kim loại nặng và 
tất cả những rác khác, kể cả các sản phẩm 
làm bằng giấy, giẻ, thủy tinh, kim loại, chai 
lọ, đồ sành sứ và các loại vật liệu dùng làm 
bao gói và bọc lót. 
(Công ước MARPOL 73/78) 
Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển 
năm 1982 đưa ra khái nhiệm về ô nhiễm môi 
trường biển [6]: 
Ô nhiễm môi trường biển là việc con người 
trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc 
năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả 
các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể 
gây ra những tác hại như gây tổn hại đến 
nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ 
thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con 
người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, 
kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng 
biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất 
lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và 
làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển. 
(Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển 
năm 1982). 
Như vậy, ô nhiễm môi trường biển do rác 
thải có thể hiểu là việc con người trực tiếp hoặc 
gián tiếp đưa bất kỳ các vật liệu rắn nào được 
sản xuất hoặc xử lý, đưa vào môi trường biển, 
có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến 
nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ 
thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con 
người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, 
làm biến đổi chất lượng nước biển và làm giảm 
sút các giá trị mỹ cảm của biển. 
Ô nhiễm môi trường biển do rác thải có thể 
đến từ nhiều nguồn khác nhau như từ đất liền, 
từ hoạt động của tàu thuyền, từ hoạt động khai 
thác dầu, từ rò rỉ tự nhiên, từ phóng xạ vv 
2. Quy định của pháp luật quốc tế 
2.1. Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 
1982 
Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 
năm 1982 (UNCLOS) là văn kiện quốc tế tổng 
hợp, toàn diện, bao quát tất cả những vấn đề 
quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và 
đại dương, qui định về quyền và nghĩa vụ của 
các quốc gia (quốc gia có biển và quốc gia 
không có biển) đối với các vùng biển thuộc 
quyền tài phán quốc gia, cũng như các vùng 
biển quốc tế với mong muốn làm dễ dàng cho 
việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài 
nguyên, việc bảo tồn những nguồn lợi sinh vật 
của các biển và các đại dương, việc nghiên cứu, 
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Công ước có 
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 
52 
phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm tất cả các 
khía cạnh của không gian biển, như vấn đề phân 
định biển, phòng ngừa ô nhiễm môi trường 
biển, nghiên cứu khoa học biển, quản lý, khai 
thác và sử dụng tài nguyên của Vùng, các hoạt 
động kinh tế và thương mại, chuyển giao công 
nghệ và giải quyết tranh chấp liên quan đến 
biển. Tính đến thời điểm hiện nay, có 168 quốc 
gia tham gia Công ước [7]. Việt Nam đã phê 
chuẩn Công ước này từ 25/7/1994. 
UNCLOS là công cụ toàn cầu duy nhất áp 
đặt nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý đối với 
các quốc gia trong việc ngăn chặn, giảm thiểu 
và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường 
biển. UNCLOS qui định trách nhiệm của các 
quốc gia trong việc áp dụng các biện pháp 
nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm 
môi trường biển: Các quốc gia, tùy theo tình 
hình, thi hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, 
tất cả các biện pháp phù hợp với Công ước, cần 
thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm 
môi trường biển, sử dụng các phương tiện thích 
hợp nhất mà mình có (Khoản 1 Điều 194) 
và các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế 
ngự ô nhiễm môi trường biển phải nhằm vào tất 
cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường biển: 
qua khí quyển do nhận chìm các chất độc có hại 
và độc hại; các chất không bị phân hủy từ các 
nguồn ở đất liền; do các tàu thuyền gây ra; từ 
các thiết bị hay phương tiện được sử dụng để 
thăm dò hay khai thác các tài nguyên thiên 
nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. 
UNCLOS cũng đưa ra các quy định về thực 
thi đối với các nguồn ô nhiễm khác nhau và quy 
định về sự hợp tác và phối hợp toàn cầu và khu 
vực để bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Các 
quốc gia thông qua các luật và quy định để 
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi 
trường có nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm 
xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống 
dẫn và các thiết bị thải đổ, có lưu ý đến các quy 
tắc và quy phạm cũng như các tập quán và thủ 
tục được kiến nghị và chấp nhận trên phạm vi 
quốc tế. (Khoản 1 Điều 207) 
Về trách nhiệm pháp lý và bồi thường thiệt 
hại, UNCLOS qui định các quốc gia có trách 
nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nghĩa 
vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn 
giữ môi trường biển. Quốc gia quan tâm làm 
sao cho luật trong nước của mình có được 
những hình thức tố tụng cho phép thu được sự 
đền bù nhanh chóng và thích đáng. Để bảo đảm 
một sự đền bù nhanh chóng và thích đáng mọi 
thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển, 
các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm áp dụng và 
phát triển luật quốc tế về trách nhiệm có liên 
quan đến việc đánh giá và bồi thường các thiệt 
hại và việc giải quyết các tranh chấp về mặt 
này, cũng như, nếu có thể, đến việc soạn thảo 
các tranh chấp và thủ tục để thanh toán tiền bồi 
thường thích đáng, chẳng hạn trù định một 
khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường. 
(Điều 235) 
2.2. Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do 
tàu gây ra năm 1973/1978 
Công ước quốc tế về Ngăn ngừa ô nhiễm do 
tàu gây ra năm 1973 đã được Hội nghị quốc tế 
về ô nhiễm biển do IMO thông qua năm 1973. 
Công ước này sau đó được sửa đổi bổ sung 
bằng Nghị định thư 1978 viết tắt là 
MARPOL 73/78. Công ước MARPOL 73/78 
thiết lập một cơ chế quốc tế nhằm ngăn ngừa ô 
nhiễm từ tàu do hoạt động xả thải trong quá 
trình vận hành thông thường và các sự cố ô 
nhiễm bất ngờ, được nêu trong năm Phụ lục của 
Công ước. Công ước cũng đã được bổ sung sửa 
đổi bởi Nghị định thư 1997 và bổ sung thêm 
Phụ lục thứ sáu. Tính đến thời điểm hiện nay, 
có 174 quốc gia tham gia Công ước [8]. Việt 
Nam đã gia nhập Công ước này từ 26/01/1994. 
Mục tiêu của Công ước là chấm dứt hoàn 
toàn việc chủ ý làm ô nhiễm môi trường biển do 
dầu và các chất độc hại khác, và giảm thiểu việc 
thải ngẫu nhiên các chất đó ra biển. Các Quốc 
gia thành viên phải tuân thủ các cam kết trong 
chính Công ước và các Phụ lục của Công ước 
mà họ tham gia, đồng thời, các Quốc gia thành 
viên cũng phải đưa ra các hướng dẫn thực thi 6 
Phụ lục của Công ước. Công ước cũng khuyến 
khích hợp tác giữa các Quốc gia thành viên. 
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 53 
Phụ lục V của Công ước qui định về ngăn 
ngừa ô nhiễm do rác thải từ tàu (có hiệu lực từ 
ngày 31/12/1988) 
Qui định về phương tiện tiếp nhận: Chính 
phủ của mỗi Thành viên Công ước cam kết đảm 
bảo tại các cảng và bến có các phương tiện để 
nhận rác thỏa mãn nhu cầu thải rác từ các tàu 
nhằm thực hiện các quy định của Phụ lục Công 
ước, mà không làm ngưng trệ tàu bất hợp lý. 
Chính phủ của mỗi Thành viên Công ước 
phải thông báo cho Tổ chức biết để phổ biến 
cho các Thành viên liên quan tất cả những nơi 
không trang bị hoặc không đủ phương tiện tiếp 
nhận theo quy định này. Một tàu khi ở trong 
cảng của một thành viên khác, phải chịu sự 
kiểm soát do các nhà chức trách được Thành 
viên đó ủy quyền liên quan tới các yêu cầu về 
khai thác. 
Đối với Tàu có có chiều dài từ 12m trở lên 
phải có các bảng ghi chỉ dẫn thông báo cho 
thuyền viên và hành khách biết những yêu cầu 
về thải rác; các bảng chỉ dẫn phải được viết 
bằng ngôn ngữ làm việc của mọi người trên tàu, 
đối với tàu dự định thực hiện các chuyến đi tới 
các cảng hoặc bến xa bờ thuộc chủ quyền của 
các Thành viên khác của Công ước, thì các 
bảng chỉ dẫn đó phải được viết bằng tiếng Anh, 
tiếng Pháp hoặc tiếng Tây Ba Nha. 
Các tàu có tổng dung tích từ 400GT trở lên 
và các tàu được chứng nhận chở từ 15 người trở 
lên phải có kế hoạch quản lý rác để thuyền viên 
tuân theo. Kế hoạch này phải có các qui trình 
dưới dạng văn bản về việc thu gom, chứa, xử lý 
và thải rác, kể cả việc sử dụng các thiết bị trên 
tàu. Kế hoạch này cũng phải nêu rõ người chịu 
trách nhiệm thực hiện kế hoạch. 
Các tàu có tổng dung tích từ 400GT trở lên 
và các tàu được chứng nhận chở từ 15 người trở 
lên dự định thực hiện các chuyến đi tới các 
cảng hoặc bến xa bờ thuộc chủ quyền của các 
Thành viên khác của Công ước và các công 
trình biển cố định hoặc di động dự định thăm dò 
khai thác tài nguyên đáy biển phải có Nhật ký 
rác (Sĩ quan phụ trách phải ghi, đề ngày và ký 
vào Nhật ký rác mọi hoạt động thải hoặc đốt 
rác. Hết mỗi trang phải được thuyền trưởng ký 
xác nhận. Nhật ký rác phải được viết bằng tiếng 
Anh, tiếng Pháp hoặc tiếng Tây Ba Nha. Thông 
tin về mỗi hoạt động đốt hoặc thải rác bao gồm 
ngày, thời gian, vị trí và mô tả loại rác và lượng 
rác ước tính được đốt hoặc thải. 
Công ước cũng qui định: Chính quyền hàng 
hải có thể miễn các yêu cầu về Nhật ký rác cho: 
tàu được chứng nhận chở từ 15 người trở lên 
thực hiện những hành trình không quá 1 giờ 
hoặc các công trình biển cố định hoặc di động 
trong quá trình thăm dò và khai thác tài nguyên 
đáy biển. 
Công ước MARPOL 73/78 được sửa đổi 
vào năm 2012, tại quy định 10.2. Phụ lục V qui 
định: các tàu có tổng dung tích từ 100GT trở 
lên và các tàu được chứng nhận chở từ 15 người 
trở lên phải có kế hoạch quản lý rác để thuyền 
viên tuân theo. Kế hoạch này phải có các qui 
trình dưới dạng văn bản về việc thu gom, chứa, 
xử lý và thải rác, kể cả việc sử dụng các thiết bị 
trên tàu. Kế hoạch này cũng phải nêu rõ người 
chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch. 
Công ước MARPOL 73/78 được sửa đổi 
vào năm 2016 qui định các thuyền đánh cá phải 
có kế hoạch thu gom, chứa, xử lý và thải rác, kể 
cả việc sử dụng các thiết bị trên tàu. 
2.3. Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ 
việc nhận chìm chất thải và các chất khác năm 
1972 và Nghị định thư bổ sung 1996. 
Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ 
việc nhận chìm chất thải và các chất khác năm 
1972 (Công ước Luôn đôn) và Nghị định thư bổ 
sung 1996 [9]. C ... ủ toàn cầu tư vấn cho chính 
quyền quốc gia và khu vực về cách ngăn chặn 
và giảm thiểu suy thoái và ô nhiễm biển từ đất 
liền. GPA kêu gọi các nước đưa ra các chương 
trình hành động quốc gia để ứng phó, giải quyết 
các nguồn gây ô nhiễm biển từ đất liền. 
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát 
triển bền vững năm 2002 tại Johannesburg, kêu 
gọi các quốc gia hành động để giảm thiểu ô 
nhiễm và chất thải, trong đó có rác thải trên 
biển và kêu gọi các quốc gia tận tâm thực hiện 
các nguyên tắc của Luật môi trường quốc tế: 
nguyên tắc phòng ngừa; nguyên tắc người gây 
ô nhiễm phải trả tiền; các quốc gia có nghĩa vụ 
hợp tác; nguyên tắc phát triển bền vững. 
Hội nghị Liên hợp quốc về phát triển bền 
vững năm 2012 (Rio+20) đưa ra Tuyên bố 
chung "Tương lai chúng ta mong muốn", xác 
định một loạt các biện pháp để phát triển bền 
vững. Trong đó có chú ý đến tác hại của rác thải 
trên biển từ các nguồn trên biển và trên đất liền, 
yêu cầu các quốc gia cam kết thực hiện nghiêm 
các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường và 
các chương trình hành động có liên quan đến 
bảo vệ môi trường biển, với mục tiêu giảm 
thiểu đáng kể lượng rác thải trên biển vào năm 
2025 [12]. 
Chúng tôi cam kết hành động để giảm thiểu 
các tai nạn và tác động của ô nhiễm đối với 
biển và hệ sinh thái biển, bao gồm thông qua và 
thực thi hiệu quả các công ước có liên quan 
trong khuôn khổ của Tổ chức Hàng hải Quốc tế 
và cam kết thực hiện Chương trình Hành động 
Toàn cầu bảo vệ môi trường biển bởi các nguồn 
gây ô nhiễm từ đất liền. Chúng tôi cũng cam kết 
hành động đến năm 2025, dựa trên dữ liệu khoa 
học thu thập được, đạt được sự giảm đáng kể 
lượng rác thải trên biển để ngăn chặn tác hại 
đối với môi trường ven biển và biển. 
(The National Assembly, 2012, item 163) 
Năm 2015, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã 
thông qua nghị quyết 70/1 và đề ra Chương 
trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững và 
các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), trong 
đó Mục tiêu 14 là Bảo tồn và sử dụng bền vững 
các đại dương, biển và tài nguyên biển để phát 
triển bền vững và giải quyết vấn đề ô nhiễm 
biển do rác rác thải [13]. Cũng trong năm 2015, 
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua 
Nghị quyết 235 về Đại dương và Luật Biển, 
trong đó yêu cầu các quốc gia cần đưa ra các 
biện pháp và xây dựng chiến lược quốc gia và 
khu vực để giải quyết vấn đề ô nhiễm biển do 
rác thải [14]. 
3. Quy định của pháp luật Việt Nam về ngăn 
ngừa ô nhiễm biển do rác thải 
Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc 
tế về bảo vệ môi trường: Công ước Đa dạng 
sinh học năm 1992; Nghị định thư Cartegena 
năm 2000; Công ước về các vùng đất ngập 
nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt là nơi 
cư trú của các loài chim nước năm 1971; Công 
ước Liên hợp quốc về sử dụng các nguồn nước 
quốc tế vào mục đích phi giao thông thuỷ năm 
1997; Công ước của Liên Hợp Quốc về luật 
biển năm 1982; Công ước quốc tế về trách 
nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu 
năm 1992; Công ước quốc tế về Ngăn ngừa ô 
nhiễm do tàu gây ra năm 1973/1978 (Công ước 
MARPOL 73/78); Công ước Basel về kiểm soát 
việc vận chuyển qua biên giới các chất thải 
nguy hại và việc tiêu hủy chúng năm 1989; 
Công ước Rotterdam về thủ tục chấp thuận 
thông báo trước đối với một số hóa chất và 
thuốc trừ sâu độc hại trong thương mại quốc tế 
năm 1998; Công ước Stockholm về các chất ô 
nhiễm hữu cơ khó phân hủy năm 2001; Hiệp 
định ASEAN về bảo tồn thiên nhiên và các 
nguồn tài nguyên thiên nhiên, 1985; Hiệp định 
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 
56 
ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới 
năm 2002 vv 
Bên cạnh việc ký kết các điều ước quốc tế 
về môi trường, Việt Nam đã ban hành và triển 
khai nhiều chính sách, pháp luật nhằm ngăn 
ngừa ô nhiễm môi trường, trong đó có những 
quy định về ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác 
thải. 
Hiến pháp Việt Nam 2013 qui định: Mọi 
người có quyền được sống trong môi trường 
trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. 
(Điều 43). Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi 
trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và 
suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm 
và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt 
hại. (Khoản 3 Điều 63). 
Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành lần 
đầu năm 1994, được sửa đổi năm 2005, sửa đổi 
lần 2 năm 2014 qui định: Việc phòng ngừa, ứng 
phó sự cố môi trường trên biển và hải đảo phải 
có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản 
lý nhà nước, tổ chức cứu hộ, cứu nạn và tổ 
chức, cá nhân có liên quan khác; các tổ chức, cá 
nhân hoạt động trên biển và hải đảo phải chủ 
động ứng phó sự cố môi trường và có trách 
nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước 
và tổ chức, cá nhân có liên quan khác trong ứng 
phó sự cố môi trường trên biển và hải đảo. Chất 
thải từ đất liền ra biển, phát sinh trên biển và 
hải đảo phải được thống kê, phân loại, đánh giá 
và có giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, xử lý đạt 
quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Việc nhận 
chìm, đổ thải ở biển và hải đảo phải căn cứ vào 
đặc điểm, tính chất của loại chất thải và phải 
được phép của cơ quan quản lý nhà nước có 
thẩm quyền. (Điều 50) 
Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định: 
tàu, thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, 
nhận chìm hay chôn lấp các loại chất thải công 
nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất 
thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam. 
(Khoản 3 Điều 35). 
Luật Tài nguyên và Môi trường biển và Hải 
đảo năm 2015, qui định về kiểm soát ô nhiễm, 
ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc và nhận 
chìm ở biển từ (Điều 42 đến Điều 63) Chất thải 
nguy hại từ các hoạt động trên biển phải được 
thu gom, phân loại, lưu giữ, vận chuyển và xử 
lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi 
trường; chủ phương tiện vận chuyển, lưu giữ 
xăng, dầu, hoá chất, chất phóng xạ, chất độc và 
các chất khác có nguy cơ gây ra sự cố môi 
trường biển phải có kế hoạch phòng ngừa và 
ứng phó sự cố môi trường; bảo đảm không làm 
rò rỉ, thất thoát, tràn thấm ra biển xăng, dầu, hoá 
chất, chất phóng xạ, các chất độc và các chất 
khác có nguy cơ gây ra sự cố môi trường; chất 
thải rắn phát sinh từ tàu thuyền, giàn khoan, 
giàn khai thác dầu khí, công trình và thiết bị 
khác trên biển phải được quản lý chặt chẽ theo 
quy định của pháp luật; bùn nạo vét luồng hàng 
hải, cảng biển phải được vận chuyển về đất liền 
hoặc nhận chìm theo quy định của Luật này và 
pháp luật có liên quan; Cảng biển phải có hệ 
thống tiếp nhận và xử lý chất thải sinh hoạt, dầu 
cặn từ các phương tiện trên biển; Chất thải trôi 
nổi trên biển và ven bờ biển phải được thu gom, 
phân loại, xử lý theo quy định của pháp luật về 
bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan. 
Bộ luật hình sự năm 2015, có hiệu lực vào 
01/01/2018 đã quy định về tội gây ô nhiễm môi 
trường, không chỉ qui định trách trách nhiệm 
hình sự đối với cá nhân, mà còn qui định trách 
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại 
gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); qui định 
trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi 
phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố 
môi trường (Điều 237); các hành vi đưa chất 
thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239). 
4. Nhận xét, đánh giá và một số gợi ý chính 
sách đối với Việt Nam 
Một là, Công ước của Liên Hợp Quốc về 
luật biển năm 1982 (UNCLOS) là văn bản có 
tính ràng buộc toàn cầu duy nhất giải quyết tất 
cả các nguồn gây ô nhiễm liên quan đến rác thải 
trên biển. UNCLOS áp đặt nghĩa vụ ràng buộc 
về mặt pháp lý đối với các quốc gia trong việc 
ngăn chặn, giảm thiểu và kiểm soát các nguồn 
gây ô nhiễm biển do rác thải. Tuy nhiên Công 
ước chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm 
pháp lý và bồi thường thiệt hại do rác thải trên 
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 57 
biển. Do vậy khi xảy ra sự cố, ô nhiễm môi 
trường biển do rác thải rất khó xác định được 
trách nhiệm pháp lý của chủ thể gây ô nhiễm để 
có thể đòi bồi thường thiệt hại, đặc biệt là việc 
quy trách nhiệm cụ thể cho chủ thể gây ô nhiễm 
để áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải 
bồi thường. 
Các quốc gia cần nghiên cứu xây dựng công 
ước quốc tế về trách nhiệm pháp lý và bồi 
thường thiệt hại môi trường biển do rác thải. 
Hiện nay đã có Công ước quốc tế về trách 
nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu 
năm 1992 (CLC 1992) quy định trách nhiệm 
pháp lí của chủ tàu đối với thiệt hại do ô nhiễm 
dầu; chủ tàu phải mua bảo hiểm bắt buộc hoặc 
có các đảm bảo tài chính để đảm bảo trách 
nhiệm đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu từ tàu 
gây ra. Nhưng để đảm bảo việc bồi thường 
được thỏa đáng, kịp thời cho các đối tượng bị 
thiệt hại, chúng ta cần phải nghiên cứu xây 
dựng công ước quốc tế về trách nhiệm pháp lý 
và bồi thường thiệt hại môi trường biển do rác 
thải. 
Hai là, Việt Nam đã tham gia nhiều điều 
ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển, nhưng 
chủ yếu là các điều ước quốc tế liên quan đến 
phòng chống ô nhiễm biển do dầu, còn đối với 
điều ước quốc tế về nhận chìm ở biển, Việt 
Nam chưa là thành viên [15]. Việt Nam cần 
sớm nghiên cứu gia nhập Công ước về ngăn 
ngừa ô nhiễm biển từ việc nhận chìm chất thải 
và các chất khác. 
Ba là, hiện nay những quy định pháp luật 
Việt Nam về bảo vệ môi trường biển do rác thải 
chỉ mang tính quy định khung, chưa có qui định 
kiểm soát tận gốc nguồn phát thải nên thường 
gặp vướng mắc trong khi giải quyết, đặc biệt là 
việc quy trách nhiệm về nguồn gây ra ô nhiễm, 
người chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại. Chưa 
có hướng dẫn cụ thể về quy trình lượng giá thiệt 
hại và bồi thường thiệt hại. Vì vậy, để hoàn 
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng, 
chống ô nhiễm môi trường biển do rác thải, 
song song với việc xây dựng lộ trình gia nhập 
các công ước quốc tế quan trọng như: Công ước 
về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ việc nhận chìm 
chất thải và các chất khác; Công ước sẵn sàng 
ứng phó và hợp tác chống ô nhiễm dầu năm 
1990 (OPRC); Công ước quỹ năm 1992; Nghị 
định thư bổ sung quỹ năm 2003; Công ước về 
trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn liền với 
việc vận chuyển bằng đường biển các chất nguy 
hiểm và độc hại (HNS) v.v.. Việt Nam cần đưa 
ra những qui định nghiêm khắc hơn quy định về 
cấm xả, thải rác ra môi trường biển; qui định về 
lượng giá thiệt hại và bồi thường thiệt hại do ô 
nhiễm môi trường biển do rác thải. 
 Bốn là, thực tế hiện nay chúng ta chưa 
kiểm soát được vấn đề ô nhiễm biển do rác thải, 
mặc dù Việt Nam đã có Chiến lược quốc gia về 
quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, 
tầm nhìn 2050 và Chiến lược bảo vệ môi trường 
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2030, nhưng hiệu quả triển khai chính sách này 
chưa cao; Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 
36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững 
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 
đến năm 2045 [16]. Trong đó đặt ra mục 
tiêu đến năm 2030 sẽ ngăn ngừa, kiểm soát và 
giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển, trở 
thành tiên phong trong khu vực về giảm thiểu 
rác thải nhựa đại dương, nhưng cho đến nay vẫn 
chưa xây dựng được Kế hoạch hành động quốc 
gia về Quản lý rác thải nhựa đại dương. 
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường biển 
thường lớn và đòi hỏi tốn kém thời gian, của cải 
và công sức cho công tác ngăn chặn, khắc phục. 
Trước mắt chúng ta cần xây dựng Kế hoạch 
hành động quốc gia về Quản lý rác thải nhựa 
đại dương; tăng cường công tác đào tạo nguồn 
nhân lực cho những người được giao nhiệm vụ 
quản lý và trực tiếp tham gia ngăn ngừa ô 
nhiễm biển, họ cần phải được trang bị các kiến 
thức và kỹ năng quản lý, phát hiện và xử lý khi 
có sự cố xảy ra, đặc biệt là việc tính toán thiệt 
hại để có cơ sở đòi bồi thường theo đúng quy 
định của pháp luật quốc tế. 
5. Kết luận 
Ô nhiễm rác thải nhựa trên biển đã trở 
thành vấn đề môi trường nghiêm trọng mang 
tính toàn cầu, đã được cộng đồng quốc tế quan 
tâm từ những năm 1970. Một số điều ước quốc 
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 49-58 
58 
tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác thải đã 
được ký kết, nhưng đến nay tình trạng ô nhiễm 
biển do rác thải vẫn có xu hướng tăng và xu thế 
còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Những 
ảnh hưởng, hậu quả của ô nhiễm biển do rác 
thải rất khó giải quyết, đây là vấn đề toàn cầu, 
cần có sự quan tâm, hợp tác giải quyết bởi 
chính phủ các quốc gia, các nhà khoa học, các 
tổ chức phi chính phủ và tất cả mọi người dân 
trên toàn thế giới. Cần thành lập một Quỹ quốc 
tế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm rác thải 
trên biển (Marine litter Fund). Quỹ này hoạt 
động giống như Quỹ Fund 1992 (Quỹ quốc tế 
bồi thường thiệt hại ô nhiễm dầu năm 1992). 
Toàn bộ tiền thuế bảo vệ môi trường đánh vào 
nhựa chuyển vào Quỹ và chỉ chi cho việc giải 
quyết rác thải trên biển; Nghiên cứu ban hành 
Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với 
việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm rác thải 
trên biển; Ưu tiên nghiên cứu sản phẩm thay thế 
nhựa, thúc đẩy hình thành ngành công nghiệp 
tái chế và hỗ trợ các sản phẩm tái chế, thân 
thiện môi trường. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Roland Geyer, Jenna R. Jambeck và Kara 
Lavender Law "Production, use, and fate of all 
plastics ever made" (2017) 3 (7) Science 
Advances/. 
https://advances.sciencemag.org/content/3/7/e1700782. 
[2] Jenna R. Jambeck,1 * Roland Geyer, 2 Chris 
Wilcox,3 Theodore R. Siegler,4 Miriam 
Perryman,1 Anthony Andrady,5 Ramani 
Narayan,6 Kara Lavender Law7 ‘Plastic waste 
inputs from land into the ocean’ (2015), Science, 
https://www.iswa.org/fileadmin/user_upload/Cale
ndar_2011_03_AMERICANA/Science-2015-
Jambeck-768-71__2_.pdf. 
[3] Xanthos and Walker, (2017), International 
policies to reduce plastic marine pollution from 
single-use plastics (plastic bags and microbeads): 
A review, Marine Pollution Bulletin). 
[4] United Nations Environment Programme (UNEP), 
Marine Litter Legislation: A Toolkit for Policymakers, 
https://www.eli.org/sites/default/files/eli-
pubs/marine-litter-legislation-toolkit-
policymakers.pdf. 
[5] VietNam Register, Marpol 73/78 Consolidated 
Edition, 2010 (in Vietnamese). 
[6] The United Nations Convention on the Law of the 
Sea 1982, National Political Publishing House, Ha 
Noi, 2013 (in Vietnamese). 
[7] https://www.un.org/Depts/los/reference_files/statu
s2019.pdf. 
[8] 
cesAndArchives/IMO_Conferences_and_Meeting
s/MARPOL/Pages/default.aspx. 
[9] https://www.epa.gov/sites/production/files/2015-
10/documents/lpamended2006.pdf. 
[10] 
CLP/Documents/Parties%20to%20the%20LCLP
%20February%202019.pdf. 
[11] https://www.un.org/Depts/los/consultative_proces
s/documents/A21-Ch17.htm; 
[12] The National Assembly, 2012, The Future We Wa 
A/RES/66/288, 
https://www.un.org/en/development/desa/populati
on/migration/generalassembly/docs/globalcompac
t/A_RES_66_288.pdf. 
[13] https://sustainabledevelopment.un.org/sdg14. 
[14] https://www.un.org/en/development/desa/populati
on/migration/generalassembly/docs/globalcompac
t/A_RES_70_235.pdf. 
[15] 
CLP/Documents/Parties%20to%20the%20LCLP
%20February%202019.pdf. 
[16] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/thuong-
mai/Nghi-quyet-36-NQ-TW-2018-chien-luoc-
phat-trien-ben-vung-kinh-te-bien-Viet-Nam-den-
nam-2030-397978.aspx. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_quy_dinh_cua_phap_luat_quoc_te_ve_ngan_ngua_o_nhiem_b.pdf