Một số nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ hiện nay
Nguyên nhân của tình hình tội phạm
là tổng hợp các hiện tượng kinh tế, xã hội,
chính trị, tư tưởng, tâm lí xã hội, tổ chức
mang tính chất tiêu cực trong tác động qua
lại và thâm nhập lẫn nhau, làm phát sinh tình
hình tội phạm†. Các hiện tượng xã hội trong
các mối quan hệ xã hội luôn luôn thay đổi.
Đó là những hiện tượng, quá trình xã hội có
khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm
trong thực tế. Nguyên nhân của tình hình tội
phạm là những hiện tượng có trước tội phạm
về thời gian. Trong mối quan hệ giữa nguyên
nhân, điều kiện với tình hình tội phạm thì
nguyên nhân là nhân tố trực tiếp làm phát
sinh tình hình tội phạm, luôn thể hiện những
mâu thuẫn về nhiều mặt trong đời sống xã
hội, và những mâu thuẫn này tồn tại một cách
ổn định về mặt thời gian.
Điều kiện của tình hình tội phạm là
những thiếu sót cụ thể trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa‡. Các
điều kiện này không tự mình làm phát sinh
ra tội phạm mà chỉ có tác dụng tạo cơ hội,
điều kiện cho quá trình phát sinh tình hình
tội phạm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ hiện nay
55Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY REASONS AND CONDITIONS OF SMUGGLING SITUATION IN THE SOUTHEAST OF VIETNAM - SOME THEORETICAL AND PRACTICAL ISSUES Nguyễn Đăng Phú* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/03/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/9/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/9/2019 Tóm tắt: Tác giả bài viết trình bày một số nội dung có liên quan đến lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu. Trên cơ sở đó, tác giả liên hệ với tính đặc thù của miền Đông Nam bộ biểu hiện trên các lĩnh vực: tự nhiên, kinh tế - xã hội, ..., nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong bối cảnh hiện nay. Từ khóa: Nguyên nhân, điều kiện, tội buôn lậu, Đông Nam bộ.† Abstract: The author presents a number of content related to the reasoning on the causes and conditions of smuggling situation. On that basis, the author relates to the specifi c of the Southeast of Vietnam manifested in the fi elds of physical geography, economic and social conditions, ..., to contribute to the fi ght against this crime in current background. Keywords: Reason, condition, smuggling, Southeast of Vietnam. * ThS.NCS. Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội. Giảng viên Trường Đại học Lao động - Xã hội (CSII. TP. Hồ Chí Minh) † Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Công an nhân dân, tr. 3 Tạp chí Khoa học - Viện Đại học Mở Hà Nội 59 (09/2019) 52-61 1. Một số vấn đề lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu Nguyên nhân của tình hình tội phạm là tổng hợp các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, tâm lí xã hội, tổ chức mang tính chất tiêu cực trong tác động qua lại và thâm nhập lẫn nhau, làm phát sinh tình hình tội phạm†. Các hiện tượng xã hội trong các mối quan hệ xã hội luôn luôn thay đổi. Đó là những hiện tượng, quá trình xã hội có khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm trong thực tế. Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những hiện tượng có trước tội phạm về thời gian. Trong mối quan hệ giữa nguyên nhân, điều kiện với tình hình tội phạm thì nguyên nhân là nhân tố trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm, luôn thể hiện những mâu thuẫn về nhiều mặt trong đời sống xã 56 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion hội, và những mâu thuẫn này tồn tại một cách ổn định về mặt thời gian. Điều kiện của tình hình tội phạm là những thiếu sót cụ thể trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa‡... Các điều kiện này không tự mình làm phát sinh ra tội phạm mà chỉ có tác dụng tạo cơ hội, điều kiện cho quá trình phát sinh tình hình tội phạm. Điều kiện thường biểu hiện sự sơ hở và thiếu sót trong các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đó là những nhân tố tồn tại kém ổn định, dễ bị phá vỡ và thay đổi. Kế thừa các quan điểm nói trên, có thể thấy rằng, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là “tổng hợp những hiện tượng, quá trình xã hội, xác định tình hình tội phạm là hậu quả của chúng, đó là toàn bộ những hiện tượng và quá trình xã hội có khả năng làm phát sinh tồn tại tình hình tội phạm” §. Có thể nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm với ba mức độ khác nhau, đó là: Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, của mọi tội phạm; của tình hình nhóm tội phạm; của loại tội phạm cụ thể. Đối với tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu được lý giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả của cặp phạm trù nguyên nhân và kết ‡ Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Tài liệu đã dẫn, tr. 5. § Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 181. ¶ Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 74. quả trong triết học Mác-Lênin, cụ thể đối với loại tội phạm buôn lậu. Vận dụng quan điểm này, việc nghiên cứu phải dựa trên nền tảng cơ sở lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và đặc thù tình hình tội buôn lậu nói riêng. Tình hình tội buôn lậu là một hiện tượng xã hội, sẽ bị đẩy lùi và tiến tới bị triệt tiêu khi mà các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh ra nó bị hạn chế hoặc không còn tồn tại. Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa tình hình tội phạm và các tội phạm cụ thể là mối quan hệ tuân theo quy luật giữa toàn thể và bộ phận, cái chung và cái đơn nhất, giữa hệ thống và bộ phận¶. Theo trình tự vận động của nhận thức bắt nguồn từ nhận thức sự vật cá biệt và riêng biệt rồi mới tiến gần đến nhận thức sự vật nói chung. Đầu tiên, người ta nhận thức bản chất riêng biệt của nhiều sự vật khác nhau, rồi sau mới có thể tiến tới việc khái quát và nhận thức bản chất chung của các loại sự vật. Sau khi đã nhận thức bản chất chung đó, dùng nhận thức chung đó để chỉ đạo, tiếp tục nghiên cứu những sự vật cụ thể chưa nghiên cứu hoặc nghiên cứu sâu và tìm ra bản chất riêng biệt của nó. Đó là hai quá trình của nhận thức: Một cái từ riêng đến chung, một cái từ chung đến riêng. Lý luận về tội phạm học Việt Nam nghiên cứu, lý giải nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và nguyên 57Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nhân của tội phạm cụ thể. Tội buôn lậu thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, được quy định tại Điều 188 của Bộ luật hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) (BLHS). Tội phạm này được áp dụng đối với cả chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là cá nhân và pháp nhân thương mại. Việc quy định pháp nhân phạm tội chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm buôn lậu là một trong những quy định mới của BLHS năm 2015. Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc thì mối quan hệ giữa tình hình tội phạm và các tội phạm cụ thể là mối quan hệ tuân theo quy luật giữa toàn thể và bộ phận, cái chung và cái đơn nhất, giữa hệ thống và bộ phận. Các quan niệm khác nhau về tội phạm và người phạm tội cũng như nguyên nhân của tội phạm, của việc hình thành con người phạm tội được hiểu một cách khác nhau và do đó ta có thể nói tới những mô hình nhận thức lịch sử khác nhau**. Nhưng qua nghiên cứu cho thấy, các mô hình nhận thức đó đều qua những bước như sau: Những quan niệm về chuẩn mực (mô hình) về con người; xác định những cái mà con người cụ thể không có được, tức là sự thiếu tính chất của nó; xác định nguyên nhân của cái thiếu đó; xác định phương pháp đưa con người trở lại mô hình cần có, tức là phản ứng với hiện trạng; xác định mục đích của việc phải sử dụng phương pháp đó. Còn GS.TS. Võ Khánh Vinh thì cho rằng, “Nguyên nhân và điều kiện của tình ** Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tài liệu đã dẫn, tr. 76. †† Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 68. ‡‡ Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, tr. 36 hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình” và “Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành n󔆆. Nghiên cứu về tội phạm học Mác xít, có quan điểm cho rằng “...tìm ra mối liên hệ nhân - quả giữa tình hình tội phạm và các hiện tượng, các quá trình kinh tế - xã hội khác vì mục đích phòng ngừa tội phạm, tức là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội‡‡. Tội phạm học với tính cách là đối tượng nghiên cứu khoa học, được các nhà nghiên cứu về tội phạm học nhìn nhận trong tổng thể xã hội nhằm lý giải khoa học và có cơ sở thực tiễn dựa trên những hiện tượng và quá trình xã hội. Còn nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm cụ thể được lý giải dựa trên cơ chế tâm lý xã hội của hành vi tội phạm. Từ những nghiên cứu trên, khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu được đưa ra như sau: “là tổng hợp những hiện tượng, quá trình xã hội, xác định tình hình tội buôn lậu là hậu quả của chúng; đó là toàn bộ những hiện tượng và quá trình xã hội có khả năng làm phát sinh tồn tại tội phạm buôn lậu.”. Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu là sự tác động qua lại 58 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion lẫn nhau giữa các hiện tượng xã hội làm phát sinh tội phạm buôn lậu. Đó là sự tác động lẫn nhau giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội buôn lậu với môi trường sống, đặc điểm của pháp nhân thương mại phạm tội với môi trường hoạt động của pháp nhân dẫn đến sự phát sinh tội phạm cụ thể trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Đó còn là sự tác động giữa các hiện tượng tiêu cực của xã hội với nhau dẫn đến sự phát sinh và tồn tại của tình hình tội buôn lậu. 2. Các nguyên nhân, điều kiện chung của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ 2.1. Nguyên nhân, điều kiện về đặc điểm địa lý, tự nhiên Đông Nam Bộ chiếm 7,5% diện tích cả nước (23,6 nghìn km2), 17,3% tổng dân số, gồm 5 tỉnh và 1 thành phố: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh. Phía Đông giáp Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ - nơi có nguồn nguyên liệu nông - lâm - nghiệp, khoáng sản, thủy sản phong phú, dồi dào, và cũng tiếp giáp với biển Đông có tiềm năng phát triển khai thác thủy hải sản, dầu khí, giao thông vận tải và du lịch . Tây giáp Đồng bằng sông Cửu Long - vùng đất sản xuất lương thực lớn trong cả nước. Bắc giáp Campuchia§§. Vùng Đông Nam Bộ ở vào vị trí đường xuyên Á, Quốc lộ 13, 14, 1A,...; có nhiều cảng biển, tuyến đường sắt, cảng hàng không đi ngang qua, là vùng thuận lợi cho §§ Bách khoa toàn thư mở (2017), Tổng hợp điều kiện tự nhiên và xã hội của Đông Nam Bộ, truy cập tại địa chỉ: https://dinhnghia.vn/dong-nam-bo.html,, ngày 20/5/2017. giao thông, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cả vùng; nhưng cũng tạo nhiều cơ hội cho tội phạm phát sinh và ngày càng gia tăng, với nhiều hình thức tinh vi, đa dạng, phức tạp. Trong đó, tình hình tội buôn lậu được đánh giá là diễn biến ngày càng phức tạp, đặc biệt là buôn lậu tại các tuyến biên giới giáp Campuchia và trên tuyến đường biển. 2.2. Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế - xã hội Đến nay, vùng Đông Nam bộ có nhiều khu công nghiệp, tập trung ở 4 tỉnh, thành là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là vùng kinh tế có hệ thống cảng tốt và có hậu phương công nghiệp tốt với Cảng biển trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải (đã định hình), Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và Cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long Thành (sẽ được xây dựng). Đông Nam bộ là vùng kinh tế năng động, có sức hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) với các dự án đi tiên phong trong hầu hết các ngành, lĩnh vực ưu thế của vùng.. Về nông nghiệp, Đông Nam Bộ là vùng trồng cây nông nghiệp quan trọng của cả nước, là thế mạnh của vùng; trong đó, Bình Phước là tỉnh xuất khẩu hạt điều lớn nhất Việt Nam, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu trung bình 3 tỷ USD mỗi năm. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại và kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế lớn 59Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nhất, nhì cả nước, nằm giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, Đông sang Tây, được xem là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, là cửa ngõ lớn của Việt Nam thông ra thế giới. Đồng Nai là trung tâm công nghiệp lớn trong vùng với thành phố Biên Hoà, Nhơn Trạch, Long Thành, Trảng Bom là những địa phương công nghiệp lớn của tỉnh, thu hút nhiều đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung lớn và quy mô. Bình Dương là tỉnh có 05 đô thị công nghiệp nổi bật như Thuận An, Dĩ An, Bến Cát, Tân Uyên và Thành phố Thủ Dầu Một. Sự phát triển của tỉnh đang góp phần to lớn cho sự phát triển bền vững của khu vực đối với cả nước. Tây Ninh là địa phương có cửa khẩu quốc tế với Campuchia. Bà Rịa - Vũng Tàu là trung tâm du lịch, khai thác - lọc - hóa dầu khí trọng điểm. Thế mạnh của tỉnh gắn liền với biển là công nghiệp khai thác dầu mỏ, vận tải hàng hải, dịch vụ du lịch và khai thác hải sản, công nghiệp sử dụng khí làm nguyên liệu, nhiên liệu, khí hóa lỏng, phân đạm, nhựa, hóa chất... Với lợi thế và thực tế phát triển kinh tế như vậy, nên vùng Đông Nam bộ có sức thu hút lao động, tăng nhanh về cơ học, là khu vực đông dân, có tỷ lệ đô thị hóa cao: 50%¶¶. Mật độ dân số cao, nhu cầu sử dụng hàng hóa của người dân ngày càng cao trong bối cảnh nền sản xuất còn mất cân đối, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng ¶¶ Bách khoa toàn thư mở (2017) Đông Nam Bộ (Việt Nam), truy cập tại địa chỉ: https://vi.wikipedia. org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Nam_B%E1%BB%99_(Vi%E1%BB%87t_Nam), ngày 15/10/2018. yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng buôn lậu xâm nhập vào. Tóm lại, Đông Nam Bộ là vùng có nền kinh tế phát triển mạnh, đặc điểm dân cư đa dạng, phong phú, có nhiều đóng góp trong sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, cùng với phát triển, lượng dân cư đông cũng kéo theo việc nảy sinh những tệ nạn, ảnh hưởng đến hoạt động quản lý kinh tế, trật tự an toàn của xã hội; trong đó có việc phát sinh và gia tăng tình hình tội buôn lậu. 2.3. Nguyên nhân, điều kiện về tâm lý xã hội Con người luôn sống trong một môi trường xã hội nhất định: Gia đình, trường học, môi trường làm việc. Trong quá trình đó, các cá nhân có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này đã điều chỉnh thái độ, hành vi của cá nhân và nhóm dẫn đến quá trình xã hội hoá cá nhân, hình thành nên những hiện tượng tâm lý đặc trưng của nhóm. Tâm lý xã hội bao gồm những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội nảy sinh từ tác động qua lại trong hoạt động và giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm, chi phối thái độ hành vi của các cá nhân khi hiện diện trong nhóm. Những hiện tượng tâm lý xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, chi phối lẫn nhau. Tâm lý xã hội thể hiện qua dư luận xã hội trở thành chuẩn mực điều chỉnh hành vi của cá nhân. Dư luận xã hội là một biểu hiện đặc trưng của tâm lý xã hội. Đó là thái độ của 60 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion cộng đồng, của xã hội đối với một vấn đề gì đó, đặc biệt là đối với những vấn đề có tính tiêu cực. Khi dư luận xã hội lên tiếng thì cá nhân không dám hoặc e ngại thực hiện một hành vi nào đó có tính lệch chuẩn. Trái lại thì cá nhân sẵn sàng thực hiện hành vi lệch chuẩn của mình***. Tâm lý xã hội là tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội trong một cộng đồng người, nó đan xen, tác động qua lại lẫn nhau. Trong tâm lý xã hội có sự hiện diện tâm lý của các cá nhân và trong tâm lý cá nhân có dấu ấn của tâm lý xã hội. Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn phức tạp, nhiều tiềm năng và cũng kéo the ... nước, người dân không tham gia. ngày càng tăng. Các khu công nghiệp thu hút nhiều lao động là thị trường rộng lớn cho việc tiêu thụ các mặt hàng. Xuất phát từ nhu cầu đó, hàng hóa do nước ngoài sản xuất có xu hướng cạnh tranh và tìm cách xâm nhập vào thị trường nước ta bằng con đường buôn lậu. Ngoài ra, cũng còn tồn tại tâm lý muốn sử dụng hàng hóa rẻ tiền của một bộ phận người dân, họ cho rằng không cần tốn nhiều chi phí chi trả cho hàng hóa cùng nhãn mác để mua hàng hóa nhập khẩu chính ngạch. Điều này dẫn tới sự tồn tại nhu cầu sử dụng hàng nhập lậu và v́ì thế tạo điều kiện cho tội buôn lậu phát triển. Thứ hai, thực tế cho thấy tình hình buôn lậu diễn biến phức tạp do chính lợi nhuận mà hàng lậu mang lại. Bên cạnh đó, đời sống người dân khu vực giáp ranh còn thấp, thiếu công ăn việc làm; thu nhập và buôn lậu là cách để có thêm thu nhập. Theo đánh giá của một số chuyên gia trong Hiệp hội thuốc lá thì buôn lậu thuốc lá tại Việt Nam đang thu siêu lợi nhuận chỉ sau buôn ma túy. Thứ ba, phổ biến trong cộng đồng dân cư vẫn còn tâm lý thờ ơ đối với hoạt động chống buôn lậu, cho rằng đó chỉ là nhiệm vụ của cơ quan chức năng†††. Do vậy, hoạt động giáo dục và tuyên truyền cần tập trung cho người dân nhận thức được tác hại của hoạt động buôn lậu không những ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người dân. Từ đó, họ sẽ tham gia tích cực 61Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion vào hoạt động đấu tranh phòng, chống hoạt động buôn lậu.‡‡‡ 2.4. Nguyên nhân, điều kiện về pháp luật Theo các cơ quan chức năng, việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn rất khó khăn bởi hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, còn chồng chéo, pháp luật vừa thiếu, nhiều điều luật lại chưa phù hợp dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, kém hiệu quả, việc phân định trách nhiệm chưa rõ ràng, phối hợp giữa các lực lượng chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu và chống buôn lậu còn chung chung, thiếu những chế tài cụ thể và nghiêm minh, không đồng bộ hoặc sơ hở để tội phạm lợi dụng buôn lậu, buôn bán hàng cấm, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Trên thực tế, trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trên biển thì việc xác định yếu tố biên giới là rất khó khăn vì hoạt động đi lại của các tàu hàng được điều chỉnh theo Luật biển và Công ước quốc tế về hàng hải§§§. Về pháp luật hình sự, BLHS năm 2015 đã mở rộng khái niệm tội phạm tại Điều 8, bao gồm chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại phạm tội. Đồng ‡‡‡ Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn (2017), Nguyên nhân của tội phạm buôn lậu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm buôn lậu của lực lượng Cảnh sát kinh tế, truy cập tại địa chỉ: mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-phong-ngua-toi-pham-buon-lau-cua-luc-luong-Canh-sat-kinh- te, ngày 30/12/2017.; §§§ Lê Hoài Nam - Ngô Trung Hòa (2015), Tác động của hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, truy cập tại địa chỉ: doi/592/Tac-dong-cua-hoat-dong-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien-kinh-te-Viet- Nam., ngày 20/02/2015. thời, Điều 76 BLHS năm 2015 quy định phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó có tội buôn lậu. Mặt khác, Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã có những quy định về những vấn đề cần phải chứng minh trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, vẫn chưa có vụ án nào do các pháp nhân thương mại thực hiện bị khởi tố. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này không phải là do trên thực tế không có hành vi phạm tội, mà do các quy định của BLHS năm 2015 chưa rõ ràng, dẫn đến các cơ quan chức năng có tâm lý chờ đợi văn bản giải thích. Cụ thể, Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những việc cần chứng minh khi truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại bao gồm: lỗi của pháp nhân và lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân. Ngoài ra, Điều 8 BLHS năm 2015 quy định rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý...”. Như vậy, để truy cứu pháp nhân thương mại về tội buôn lậu, cần phải chứng minh được lỗi cố ý của pháp nhân. 62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Tuy nhiên, BLHS năm 2015 chưa quy định các dấu hiệu về lỗi cố ý của pháp nhân. Đây chính là một khó khăn trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại liên quan và cũng chính là một trong những nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tình hình tội buôn lậu do pháp nhân thương mại thực hiện. Ngoài ra, cho đến nay, nước ta có nhiều đạo luật về phòng, chống tội phạm nhưng riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, như: Luật phòng, chống ma túy năm 2000; Luật phòng, chống mua bán người năm 2011; Luật phòng, chống rửa tiền năm 2012; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. Tổng thể, Việt Nam vẫn chưa có luật phòng, chống tội phạm để quy định bao quát nhiều vấn đề liên quan đến tội phạm, trong đó có Tội buôn lậu. Thiết nghĩ rằng, Việt Nam cần ban hành Luật Phòng, chống tội phạm là cần thiết. 2.5. Nguyên nhân, điều kiện về quản lý xã hội Quản lý xã hội là quá trình tác động, gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhằm đạt được mục tiêu chung, góp phần tăng trưởng, phát triển xã hội. Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn tương đối rộng và phức tạp. Điều này dẫn đến nhiều sơ hở trong việc điều hành, quản lý nền kinh tế; tình hình tội buôn lậu trên địa bàn khu vực diễn ra cả trên đường ¶¶¶ Lê Thu (2017), Buôn lậu tại các tỉnh trọng điểm Đông Nam bộ giảm, nhưng vẫn phức tạp, truy cập tại địa chỉ: https://www.baohaiquan.vn/Pages/Buon-lau-tai-cac-tinh-trong-diem-Dong-Nam-bo-giam-nhung-van- phuc-tap.aspx, ngày 26/3/2019. bộ, đường thủy và đường hàng không qua các cửa khẩu quốc tế và từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại ngày càng tấp nập, sôi động nhưng cơ chế quản lý và xử lý chưa bao quát và tiếp cận hết.¶¶¶ Hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ; xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu; điều chuyển, đề xuất điều chuyển, thay thế người đứng đầu các cơ quan, đơn vị không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có biểu hiện bao che, dung túng cho buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; xử lý nghiêm các vi phạm chưa mạnh. Hạn chế trong quản lý, hậu kiểm về sự thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh tế: Các đối tượng đã lợi dụng những thông thoáng từ khâu thành lập, thuê mượn giấy tờ tùy thân để lập doanh nghiệp. Khi cơ quan điều tra xác minh thì đó chỉ là những doanh nghiệp “ma”, không hoạt động trong thực tế. Hoạt động chống buôn lậu thông qua hỗ trợ từ phía các hiệp hội, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước chưa được chú trọng và khai thác triệt để; hợp tác quốc tế, phối hợp với các tổ chức toàn cầu chống hàng trốn thuế còn lỏng lẻo, còn mang tính hình thức, chưa đi và o khuôn khổ. Cơ quan trực tiếp được Chính phủ giao nhiệm vụ kiểm tra, xử lý hành vi buôn lậu tại địa bàn Đông Nam Bộ hoạt động chưa thực sự hiệu quả, việc triển khai chưa quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để thực hiện nhiệm vụ được giao; gắn trách nhiệm của người đứng 63Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion đầu cơ quan, đơn vị với kết quả thực hiện nhiệm vụ. Sự phối hợp với các lực lượng chức năng liên quan để xây dựng các phương án cụ thể kiểm tra, xử lý các đường dây, đối tượng chủ mưu, cầm đầu; kịp thời ngăn chặn việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu trên thị trường nội địa còn chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ... Từ thực trạng trên cho thấy, vấn đề quản lý xã hội đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm buôn lậu nói riêng. Hoạt động quản lý xã hội nếu được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả sẽ góp phần ngăn ngừa tội phạm, trừng trị và xử lý người phạm tội. Nhưng nếu hoạt động quản lý xã hội không được đảm bảo thì nó sẽ là một trong những nguyên nhân, điều kiện góp phần làm phát sinh và gia tăng tình hình tội phạm, trong đó có tội phạm buôn lậu. Để có thể khắc phục được điều này, đòi hỏi việc thực hiện quản lý xã hội phải có một cơ chế, chính sách đường lối đúng đắn, xây dựng được những biện pháp phù hợp. Đồng thời phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội. nhằm nhận diện được những mặt còn yếu kém trong vấn đề quản lý xã hội, tiến tới khắc phục và xóa bỏ những hạn chế yếu kém này, nhằm xây dựng một cơ chế quản lý xã hội phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của Việt Nam nói chung và miền Đông Nam Bộ nói riêng. 2.6. Nguyên nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng ngừa Những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm buôn lậu bao gồm: Hạn chế trong xử lý tội buôn lậu: Việc thực thi các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu còn nhiều bất cập, kém hiệu quả như: Kết quả khởi tố, điều tra các vụ án buôn lậu còn thấp; đối tượng chủ mưu bị phát hiện, bắt giữ còn chiếm tỷ lệ ít; số vụ việc được phát hiện chủ yếu xử lý hành chính nên họ có điều kiện vi phạm trở lại. Theo Điều 188 BLHS năm 2015, hành vi khách quan của tội buôn lậu là buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới theo định lượng. Mục đích của hành vi buôn lậu là kiếm lợi nhuận. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Trong thực tế, việc chứng minh mục đích buôn bán kiếm lời của người phạm tội rất khó khăn vì người phạm tội thường không thừa nhận mục đích này để được xử lý về tội nhẹ hơn. Đây cũng là hạn chế trong thực tiễn xử lý tội buôn lậu. Ngoài ra, BLHS năm 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, nhưng trong thời gian qua, rất ít vụ án liên quan đến pháp nhân bị khởi tố. Đây là hạn chế trong thực tiễn phòng ngừa tội buôn lậu do pháp nhân thượng mại thực hiện. Hạn chế trong phòng ngừa riêng: Việc kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng chưa được thống nhất, thường xuyên, tích cực, tạo kẽ hở cho các đối tượng buôn lậu hoạt động. Mỗi cơ quan có những quy định đặc thù nên việc phối hợp cùng nhau để triển khai các hoạt động phòng ngừa khó khăn. Xử lý các đối tượng buôn lậu còn thiên về xử lý hành chính, chưa đủ sức giáo dục, răn đe đối tượng; chế tài chưa tương xứng với lợi nhuận mà hành vi mang lại cho đối tượng. 64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Hạn chế về lực lượng phòng ngừa: Lực lượng trực tiếp làm hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trên địa bàn; trong đó có lực lượng Cảnh sát kinh tế còn “mỏng”; chưa có phương án phòng, chống thường xuyên để chủ động kiềm chế hành vi buôn lậu; một bộ phận cán bộ quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa và người có liên quan còn tiếp tay cho hoạt động buôn lậu, còn thiếu trách nhiệm, có biểu hiện tha hóa, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo kê, tiếp tay cho các đối tượng. Mối quan hệ phối hợp với các lực lượng có liên quan trong việc phối hợp lập hồ sơ và xử lý các vụ việc vi phạm.thiếu chặt chẽ; hệ thống thông tin quản lý và kết nối mạng giữa các đơn vị này còn hạn chế làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý, chống buôn lậu. Hạn chế về trang thiết bị, kinh phí: Trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt động này còn hạn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trong tình hình mới, tương xứng với thủ đoạn tinh vi của các đối tượng vi phạm ****. Hạn chế trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp: Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền một số nơi, cơ quan còn chưa quan tâm, thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động kiểm tra, thanh tra, điều tra, phát hiện xử lý vi phạm pháp luật. Vai trò của các lực lượng chức năng ở cơ sở còn hạn chế. Trách nhiệm của một bộ phận cán bộ chuyên trách, người đứng đầu chưa cao, còn biểu hiện bao che, thậm chí “bảo kê” cho các hành vi vi phạm pháp luật; Chưa kết hợp chặt **** Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn (2017), Tài liệu đã dẫn. chẽ giữa tích cực phòng ngừa và chủ động phát hiện tội buôn lậu. Qua trình bày, có thể thấy, việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm phải căn cứ trên những nội dụng của các biện pháp phòng ngừa mang tính chất chung và đặc điểm riêng của nguyên nhân và điều kiện tội buôn lậu địa bàn miền Đông Nam Bộ. Nếu hoạt động phòng ngừa tội phạm không phù hợp, không thực hiện đồng bộ chặt chẽ thì nó sẽ trở thành một trong những nguyên nhân, điều kiện thuận lợi cho tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu nói riêng phát sinh, diễn biến ngày càng phức tạp./. Tài liệu tham khảo: 1. Bách khoa toàn thư mở (2017), Tổng hợp điều kiện tự nhiên và xã hội của Đông Nam Bộ, truy cập tại địa chỉ: https://dinhnghia.vn/dong-nam- bo.html, 2. Bách khoa toàn thư mở (2017) Đông Nam Bộ (Việt Nam), truy cập tại địa chỉ: https:// vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_ Nam_B%E1%BB%99_(Vi%E1%BB%87t_Nam). 3. Vũ Dũng (2015), Sự khác biệt giữa tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội, truy cập tại địa chỉ: https:// www.suckhoetamthan.net/tam-ly-thuc-hanh/ Su-khac-biet-giua-tam-ly-ca-nhan-va-tam-ly-xa- hoi-1515.html. 4. Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn (2017), Nguyên nhân của tội phạm buôn lậu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm buôn lậu của lực lượng Cảnh sát kinh tế, truy cập tại địa chỉ: Nghien-cuu-Trao-doi/2612/Nguyen-nhan-cua- 65Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion toi-pham-buon-lau-va-mot-so-giai-phap-nang- cao-hieu-qua-phong-ngua-toi-pham-buon-lau- cua-luc-luong-Canh-sat-kinh-te. 5. Lê Hoài Nam - Ngô Trung Hòa (2015), Tác động của hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, truy cập tại địa chỉ: Trao-doi/592/Tac-dong-cua-hoat-dong-buon- lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien- kinh-te-Viet-Nam.. 6. Lê Thu (2017), Buôn lậu tại các tỉnh trọng điểm Đông Nam bộ giảm, nhưng vẫn phức tạp, truy cập tại địa chỉ: https://www.baohaiquan.vn/ Pages/Buon-lau-tai-cac-tinh-trong-diem-Dong- Nam-bo-giam-nhung-van-phuc-tap.aspx. 7. Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. 8. Bảo Trâm (2017), Vùng Đông Nam bộ: Tăng trưởng kinh tế cần ‘sếu đầu đàn; truy cập tại địa chỉ: https://baomoi.com/vung-dong-nam-bo-tang- truong-kinh-te-can-seu-dau-dan/c/23409285.epi. 9. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Lao động – Xã hội TP. Hồ Chí Minh Email: phund@ldxh.edu.vn
File đính kèm:
- mot_so_nguyen_nhan_dieu_kien_cua_tinh_hinh_toi_buon_lau_tren.pdf