Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đô thị hóa

Sự phát triển đô thị và kinh tế đô thị đã có

sự quan tâm từ khá sớm. Từ giữa thế kỷ

XIX, những nhà mác xít đã nghiên cứu cả

hai mặt tích cực và tiêu cực của phát triển đô

thị. Họ đã có những phân tích sâu sắc về

nguồn gốc đô thị, tiền đề và tính quy luật

của sự phát triển đối lập giữa đô thị và nông

thôn. Trong khi khẳng định sự tiến bộ, ưu

việt và ảnh hưởng to lớn của đô thị đối với

sự phát triển xã hội thì họ cũng phê phán

gay gắt và sâu sắc các khuyết tật của đô thị

dưới chủ nghĩa tư bản. Những quan điểm

này được các nhà kinh điển Mác xít trình

bày trong nhiều tác phẩm, như: Hệ tư tưởng

Đức, T và Ph.Ăngghen; Tư bản, Phê phán

Khoa Chính trị - kinh tế học, Bản thảo Kinh

tế học của C.Mác; Tình cảnh giai cấp lao

động ở Anh; Nguồn gốc của gia đình, của

chế độ tư hữu và của Nhà nước, Chống

Đuy- rinh của Ph.Ăngghen.

1.1. Tác động của đô thị hoá đến quan

hệ xã hội của nông thôn

Trong Hệ tư tưởng Đức, các nhà sáng

lập ra chủ nghĩa Mác đã khẳng định việc

hình thành và phát triển đô thị có ý nghĩa

vô cùng to lớn “Sự phân công lớn nhất

giữa lao động vật chất và lao động tinh

thần là sự tách rời giữa thành thị với nông

thôn. Sự đối lập giữa thành thị và nông

thôn xuất hiện cùng với bước quá độ từ

* PGS.TS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.

thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ

chế độ bộ lạc lên nhà nước, từ tính địa

phương lên dân tộc và cứ tồn tại mãi

suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho đến

ngày nay”.

pdf 6 trang kimcuc 4260
Bạn đang xem tài liệu "Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đô thị hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đô thị hóa

Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đô thị hóa
 MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN 
VỀ ĐÔ THỊ HÓA 
HOÀNG BÁ THỊNH* 
1. Những luận điểm về đô thị hóa* 
Sự phát triển đô thị và kinh tế đô thị đã có 
sự quan tâm từ khá sớm. Từ giữa thế kỷ 
XIX, những nhà mác xít đã nghiên cứu cả 
hai mặt tích cực và tiêu cực của phát triển đô 
thị. Họ đã có những phân tích sâu sắc về 
nguồn gốc đô thị, tiền đề và tính quy luật 
của sự phát triển đối lập giữa đô thị và nông 
thôn. Trong khi khẳng định sự tiến bộ, ưu 
việt và ảnh hưởng to lớn của đô thị đối với 
sự phát triển xã hội thì họ cũng phê phán 
gay gắt và sâu sắc các khuyết tật của đô thị 
dưới chủ nghĩa tư bản. Những quan điểm 
này được các nhà kinh điển Mác xít trình 
bày trong nhiều tác phẩm, như: Hệ tư tưởng 
Đức, Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của 
C.Mác và Ph.Ăngghen; Tư bản, Phê phán 
Khoa Chính trị - kinh tế học, Bản thảo Kinh 
tế học của C.Mác; Tình cảnh giai cấp lao 
động ở Anh; Nguồn gốc của gia đình, của 
chế độ tư hữu và của Nhà nước, Chống 
Đuy- rinh của Ph.Ăngghen. 
 1.1. Tác động của đô thị hoá đến quan 
hệ xã hội của nông thôn 
Trong Hệ tư tưởng Đức, các nhà sáng 
lập ra chủ nghĩa Mác đã khẳng định việc 
hình thành và phát triển đô thị có ý nghĩa 
vô cùng to lớn “Sự phân công lớn nhất 
giữa lao động vật chất và lao động tinh 
thần là sự tách rời giữa thành thị với nông 
thôn. Sự đối lập giữa thành thị và nông 
thôn xuất hiện cùng với bước quá độ từ 
* PGS.TS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn, ĐHQG Hà Nội. 
thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ 
chế độ bộ lạc lên nhà nước, từ tính địa 
phương lên dân tộc và cứ tồn tại mãi 
suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho đến 
ngày nay”. 
Sự phát triển đô thị/đô thị hoá, nhìn từ 
chiều cạnh không gian địa lý là quá trình mở 
rộng của các vùng đô thị và sự thu hẹp các 
cộng đồng nông thôn. Không những thế, đô 
thị hoá còn tác động đến quan hệ xã hội của 
các vùng nông thôn. Năm 1858, C.Mác nêu 
lên: “Lịch sử cận đại là quá trình các quan 
hệ thành thị thâm nhập vào nông thôn, trong 
khi đó thế giới cổ đại lại có tình hình ngược 
lại, đó là những quan hệ nông thôn xâm 
nhập vào thành phố”1. Đây là đặc trưng 
tương phản về nông thôn và đô thị vào các 
thời kỳ lịch sử khác nhau giữa cổ đại và cận 
đại. Khi C.Mác nêu vấn đề đô thị cổ đại 
nông thôn hóa (quan hệ nông thôn thâm 
nhập vào đô thị) chủ yếu nói về tình hình tan 
rã của chế độ nô lệ, mâu thuẫn chế độ nô lệ 
ngày càng sâu sắc, tinh thần tích cực và 
năng suất của lao động nô lệ không ngừng 
giảm, đồng thời chiến tranh xảy ra liên miên 
giữa các thành, bang và tộc xâm nhập. 
Trong mấy thế kỷ đầu công nguyên, cả thế 
giới cổ đại ven bờ biển Địa Trung Hải bắt 
đầu sự chuyển biến lớn lần thứ nhất trong 
lịch sử loài người - sự tan rã của chế độ 
chiếm hữu nô lệ. Trên đống đổ nát của chế 
độ tư hữu, chủ nô lệ cổ đại xây dựng chế độ 
kinh tế và xã hội mới về cơ bản đã không còn 
dựa vào đô thị nữa mà dựa vào nông thôn, 
dựa vào kinh tế tiểu nông tự do. Đây là sự 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
18 
xác lập chế độ phong kiến. Sự phát triển đô 
thị xã hội phong kiến rất chậm, và “nông 
thôn có thể thống trị thành thị”2 (về kinh tế). 
Hơn thế nữa, những cung cách tiểu nông 
cũng ảnh hưởng đến lối sống công nghiệp, đô 
thị. Đó là “Công nghiệp đem áp dụng những 
nguyên tắc tổ chức nông nghiệp vào thành thị 
và vào các mối quan hệ của thành thị”3. 
1.2. Công nghiệp hóa kéo theo đô thị hóa 
Từ thế kỷ XIX, C.Mác đã nói “Lịch sử 
cận đại là quá trình các quan hệ thành thị 
thâm nhập nông thôn, chủ yếu chỉ là quá 
trình lịch sử chủ nghĩa tư bản nảy mầm và 
sau cuộc cách mạng công nghiệp, đô thị các 
nước tư bản thế giới phát triển rất nhanh”. 
Từ luận điểm này của C.Mác, cũng có thể 
nói đô thị hóa là người bạn đồng hành của 
công nghiệp hóa, đây là một kết luận khoa 
học về quá trình đô thị hóa và quá trình đô 
thị hóa trên thế giới nửa cuối thế kỷ XX đã 
chứng minh tính đúng đắn về luận điểm của 
C.Mác. Ph.Ăngghen trong tác phẩm Tình 
cảnh giai cấp lao động ở Anh đã chỉ ra mối 
quan hệ của sự phát triển công nghiệp và tập 
trung lao động với sự phát triển đô thị “Thế 
là xóm thợ trở thành một thành phố nhỏ, 
rồi thành phố nhỏ trở thành một thành 
phố lớn”. Theo Ăngghen, xu hướng ngày 
càng tập trung của công nghiệp vẫn rất 
mạnh mẽ và mỗi một công xưởng mới xây 
dựng ở nông thôn đều mang mầm mống 
của một thành phố công xưởng. Và ông 
dự báo “Nếu cuộc chạy đua điên cuồng 
của công nghiệp còn có thể tiếp tục như 
thế trong chừng một trăm năm nữa, thì 
mỗi một khu công nghiệp của Anh sẽ trở 
thành một thành phố công xưởng lớn”4. 
Ngày nay, các nghiên cứu về quá trình 
phát triển đô thị trên thế giới chỉ ra quy luật 
phát triển đô thị theo công thức: công nghiệp 
hóa phát triển kéo theo đô thị hóa. Quy luật 
này đúng với đa số các nước trên thế giới, 
riêng với Việt Nam thì dường như đang có 
xu hướng phát triển ngược với quy luật: đô 
thị hóa trước khi công nghiệp hóa. 
1.3. Quan niệm “Lịch sử hiện đại là nông 
thôn đô thị hóa” và chức năng kinh tế của 
đô thị 
Không ít người cho rằng “nông thôn đô 
thị hóa” là nông thôn đô thị hóa tại chỗ, có 
nghĩa là tại nơi ấy xây dựng các thị trấn nhỏ 
để thực hiện “nông thôn đô thị hóa” mà 
không cần phát triển đô thị quy mô lớn và 
vừa, cho rằng đô thị hóa tư bản chủ nghĩa do 
“nhiều người lao động thừa, mù quáng chạy 
vào đô thị” gây nên. Cách hiểu như vậy có 
lẽ không đúng với ý ban đầu của C.Mác. 
Như đã nói ở trên về mối quan hệ giữa công 
nghiệp hóa và đô thị hóa, điều mà C.Mác 
nói chính là đô thị hóa tư bản chủ nghĩa. Mà 
đô thị hóa tư bản chủ nghĩa không phải là 
nông thôn xây dựng đô thị tại chỗ, đó là do 
người lao động thừa tập trung với quy mô 
lớn hình thành đô thị hóa. 
Từ quan điểm kinh tế học, người sáng lập 
ra chủ nghĩa Mác đã nêu rõ tính chất kinh tế 
của đô thị, ông đặc biệt chú ý đến mối quan 
hệ của kinh tế và hàng hóa. Theo C.Mác, chỉ 
những đô thị nào có chức năng kinh tế thì 
mới là “đô thị thực sự”, “Các thành phố theo 
đúng nghĩa của danh từ chỉ được hình thành 
ở những địa điểm đặc biệt thuận lợi cho 
ngoại thương, hoặc là ở những nơi nào mà 
nhân vật đứng đầu quốc gia và các chư hầu, 
bằng cách đem đổi thu nhập của mình (sản 
phẩm thặng dư) lấy lao động, đã chi phí 
khoản thu nhập ấy với tư cách là quỹ lao 
động”5. Và “Cơ sở của mọi sự phân công lao 
động phát triển lấy sự trao đổi hàng hóa làm 
môi giới là sự tách rời giữa thành thị và 
nông thôn. Có thể nói rằng toàn bộ lịch sử 
kinh tế của xã hội được tóm tắt lại trong sự 
vận động của sự đối lập đó”6. 
Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen 
19 
Từ đây có thể thấy, sự phát triển của đô 
thị hay việc tách đô thị thành một loại hình 
tổ chức xã hội độc lập là một sự tất yếu của 
tiến trình phát triển xã hội loài người. Và 
dưới chủ nghĩa tư bản, sự phát triển này tạo 
nên sự đối lập giữa đô thị và nông thôn. 
Theo C.Mác, sự đối lập giữa đô thị và nông 
thôn là một biểu hiện mâu thuẫn của kiểu 
phát triển cổ điển, kiểu phát triển mang hình 
thái tư bản chủ nghĩa cổ điển, một phương 
thức sản xuất chứa đựng sự đối lập giữa tư 
bản và lao động, trong đó tư bản bóc lột lao 
động, đô thị bóc lột nông thôn, và sự phồn 
thịnh của đô thị là trên cơ sở làm kiệt quệ 
nông thôn. C.Mác viết rằng “Cùng với ưu 
thế ngày càng tăng của số dân cư đô thị 
được tập hợp lại trong các trung tâm lớn, 
nên sản xuất tư bản chủ nghĩa, một mặt, tích 
lũy động lực lịch sử của xã hội, nhưng mặt 
khác, nó lại ngáng trở sự trao đổi chất giữa 
con người và đất đai, tức là ngăn trở việc 
hoàn lại cho đất đai các yếu tố cấu thành ra 
nó mà con người đã sử dụng dưới hình thức 
tư liệu ăn mặc, tức là phá hoại điều kiện tự 
nhiên vĩnh cửu của sự phì nhiêu lâu dài của 
đất đai”7 
1.4. Đô thị hóa là sự tiến bộ đối với 
phương thức sản xuất lạc hậu 
Đô thị hóa trước hết đem lại sự phát triển 
nhanh chóng kinh tế hàng hóa, là sự xuất 
hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 
Khi đô thị hóa ra đời, thì từng giờ từng phút 
nó làm thay đổi bản chất và đi đến phá hủy 
chế độ phong kiến. C.Mác đã nói “Giai cấp 
tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách 
mạng trong lịch sử”. Bởi vì, bất cứ chỗ nào 
mà giai cấp tư sản chiếm được chính quyền 
thì nó đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia 
trưởng. Tất cả những mối quan hệ phức tạp 
và đa dạng đó ràng buộc con người phong 
kiến với đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá 
vỡ”8. Mọi tác dụng của cách mạng thông 
qua chức năng trung tâm của đô thị mới có 
thể thực hiện, đô thị là “đại bản doanh” của 
thương nghiệp, bất cứ đô thị nào cũng là 
trung tâm lưu thông, phân phối sản phẩm, 
hàng hóa. Khi nói về thành phố Luân Đôn, 
trong bài viết Những thành phố lớn, Ph. 
Ăngghen đã viết “Một thành phố như Luân 
Đôn, có thể đi hàng giờ mà vẫn chưa hết 
địa phận của nó, và không hề gặp một 
chút dấu hiệu nào chứng tỏ đã gần tới 
nông thôn, một thành phố như vậy quả là 
một điều rất đặc biệt. Sự tập trung khổng 
lồ đó, sự tụ tập cả hai triệu rưởi người 
vào một chỗ đã làm cho lực lượng của 
khối hai triệu rưởi người ấy mạnh thêm 
gấp trăm lần. Họ đã làm cho Luân Đôn 
trở thành thủ đô của thương nghiệp của 
thế giới, đã tạo nên những bến dỡ hàng 
khổng lồ và đã tập trung hàng mấy nghìn 
chiếc tàu luôn luôn trùm kín dòng sông 
Têm-dơ”9. 
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng 
cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận 
định: “Giai cấp tư sản bắt nông thôn 
phải phục tùng thành thị. Nó lập ra 
những đô thị đồ sộ; nó làm cho dân số 
thành thị tăng lên phi thường so với dân 
số nông thôn, và do đó, nó kéo một bộ 
phận lớn dân cư thoát khỏi vòng ngu 
muội của đời sống thôn dã. Cũng như 
nó đã bắt nông thôn phải phụ thuộc vào 
thành thị”10. 
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định tính tất 
yếu và tiến bộ của đô thị và đô thị hóa dưới 
chủ nghĩa tư bản. Với quan điểm chủ nghĩa 
duy vật lịch sử, các ông nhấn mạnh “tập 
trung ở thành thị là một điều kiện cơ bản của 
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”11. Sản xuất 
tư bản tập trung vào các đô thị lớn cũng là 
sự “tích lũy động lực của xã hội”12. Điều 
này không chỉ làm cho điều kiện khách quan 
của tài sản sản xuất xã hội diễn ra sự thay 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
20 
đổi có lợi cho tiến bộ xã hội, mà còn có thể 
làm cho “bản thân những người sản xuất 
cũng biến đổi tạo ra trong bản thân mình 
những phẩm chất mới, phát triển và cải tạo 
bản thân mình nhờ sản xuất tạo ra những lực 
lượng mới và những quan niệm mới, những 
phương pháp tiếp xúc mới, những nhu cầu 
mới và ngôn ngữ mới”13. 
2. Mặt trái của quá trình đô thị hóa 
Đô thị thường gắn liền với những mặt 
trái của cuộc sống như: môi trường ô 
nhiễm, rượu chè cờ bạc, mại dâm, tôi 
phạm, và sự thờ ơ của cư dân đô thị. 
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác 
và Ph.Ăngghen đã đề cập đến một số 
khía cạnh trái chiều của đời sống đô thị, 
điển hình là mối quan hệ của các cư dân; 
những khu ổ chuột của người lao động; 
bệnh tật, đau ốm. 
2.1. Quan hệ của các cư dân đô thị 
Các nhà xã hội học, khi đề cập đến 
mối quan hệ của những cư dân đô thị, 
thường đề cập đến một đặc trưng nổi bật 
là mối quan hệ ẩn danh. Người ta ít biết 
đến người sống xung quanh mình, điều 
này hoàn toàn trái ngược với quan hệ của 
người dân ở làng xã, nơi mọi người hầu 
như biết hết nhau, thậm chí biết rõ hoàn 
cảnh gia đình, dòng họ của người đó. Về 
điểm này, các nhà kinh điển Mác xít đề 
cập đến mối quan hệ ẩn danh ở các đô thị 
dưới chủ nghĩa tư bản, chỉ có điều mối 
quan hệ này thái quá đến mức không cần 
quan tâm đến người khác, như 
Ph.Ăngghen viết “họ đi ngang qua nhau 
vội vã như là không có chút gì chung với 
nhau, không hề có liên quan gì với nhau; 
và chỉ có mỗi một điều quy ước ngầm là 
mỗi người phải đi ở phía bên phải vỉa hè 
để cho dòng người đi ngược chiều khỏi bị 
trở ngại; và đồng thời cũng không một 
người nào thèm đoái nhìn đến người 
khác. Sự lãnh đạm tàn nhẫn ấy, sự cô 
độc lạnh lùng ấy của mỗi người chỉ theo 
đuổi lợi ích riêng của bản thân mình lại 
càng khiến người ta khinh tởm và sỉ 
nhục, khi cái đám đông người ấy càng 
chen chúc nhau trên một không gian nhỏ 
bé”14. 
Theo Ăngghen “sự lãnh đạm tàn nhẫn 
ấy, sự cô độc lạnh lùng ấy” phản ánh 
bản chất của xã hội tư bản “Chúng ta đã 
biết rằng sự cô độc ấy của mỗi người, sự 
ích kỷ hẹp hòi ấy cũng là nguyên tắc cơ 
bản và phổ biến của xã hội chúng ta ngày 
nay, nhưng không đâu lại thấy nó bộc lộ 
một cách trắng trợn, vô liêm sỉ, một cách 
có ý thức bằng chính ở đây, ở đám người 
hỗn độn của một thành phố lớn. Sự chia 
nhỏ nhân loại thành những đơn tử, mà 
mỗi đơn tử đều có nguyên tắc sinh hoạt 
riêng và mục đích riêng, cái thế giới của 
các nguyên tử ấy ở đây phát triển đến 
cực điểm”15. Ở các thành phố lớn công 
nghiệp và thương nghiệp mới phát triển 
mạnh nhất, cho nên cũng ở đấy những 
hậu quả của sự phát triển đó đối với giai 
cấp vô sản mới biểu hiện rõ ràng và cụ 
thể hơn cả. Đáng lưu ý là những giá trị xã 
hội truyền thống cũng bị mai một, 
Ph.Ăngghen cho rằng “Chính ở đấy, các 
phong tục và quan hệ của thời xưa tốt đẹp 
đã bị xoá bỏ sạch ráo”. 
Nhưng tất cả những cái đó đã phải trả 
giá bằng những hy sinh như thế nào thì 
mãi sau này người ta mới nhận ra. Chỉ 
khi đã len lỏi vài ngày trên các đường 
phố chính, khó nhọc lắm mới rẽ được 
một lối giữa đám người chen chúc hay 
giữa những dãy xe cộ dài dằng dặc, chỉ 
khi đã đi thăm các "khu nhà ổ chuột" của 
thành phố thế giới ấy thì người ta mới bắt 
đầu thấy rằng người dân Luân Đôn đã 
Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen 
21 
phải hy sinh những phẩm chất tốt đẹp 
nhất của bản tính con người của họ để 
sáng tạo ra tất cả những kỳ công của văn 
minh đầy dẫy trong thành phố họ. 
2.2. Đô thị hóa tác động đến đời sống 
gia đình, nghèo đói và tệ nạn xã hội 
Trong bộ Tư bản, C.Mác đã chỉ ra hệ quả 
của việc các chức năng của gia đình không 
được thực hiện đúng và đủ, đặc biệt là việc 
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 
Bởi lẽ, khi người phụ nữ làm mẹ, nhưng do 
làm việc tại các công xưởng, không có điều 
kiện chăm sóc con cái, dẫn đến “tỷ lệ trẻ 
chết rất lớn của con cái công nhân trong 
những năm đầu của cuộc đời chúng”, 
nguyên nhân của tỷ lệ trẻ em tử vong cao 
chủ yếu là do “những người mẹ bị bắt buộc 
phải làm việc ngoài gia đình và vì thế mà 
con cái không được chăm sóc và bị trông coi 
không tốt, như bị cho ăn uống không thích 
hợp, thiếu ăn, cho ăn những chất có thuốc 
phiện.v.v. thêm vào đó là việc làm cho 
người mẹ xa rời con cái một cách trái với tự 
nhiên, và tiếp đó là việc cố tình để cho 
chúng bị đói và đầu độc chúng”16. 
Đó là một hệ quả đáng lo ngại đối với sự 
phát triển thế hệ tương lai. Trong xã hội tư 
bản - qua tác phẩm của C.Mác - cho thấy 
một điều: chủ nghĩa tư bản không chỉ bóc lột 
tận cùng người phụ nữ mà còn đẩy họ vào 
lối sống buông thả, vào con đường tệ nạn xã 
hội. “Buổi sáng và buổi chiều, người ta 
thường gặp họ đi trên các đường làng, đàn 
bà thì mặc váy ngắn và áo cánh tương ứng, 
chân đi bốt và đôi khi mặc quần nữa, bề 
ngoài trông rất khoẻ mạnh nhưng đã hư thân 
mất nết vì quen tính sống phóng đãng và họ 
không chú ý gì về nhưng hậu quả tai hại mà 
sự thích thú muốn sống một lối sống hoạt 
động và tự do như thế sẽ gây ra cho con cái 
họ đang chết dần chết mòn ở nhà”17. 
Không chỉ nữ công nhân mà phụ nữ ở các 
vùng nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng xấu 
“Cũng giống như trong những khu công 
nghiệp ở Anh, trong các khu nông nghiệp số 
công nhân nam, nữ lớn tuổi dùng thuốc 
phiện ngày càng tăng”. Nạn nghiện hút này 
tác động xấu đến thế hệ hiện tại và còn ảnh 
hưởng không tốt đến sự phát triển thể chất 
và tâm lý - tinh thần của thế hệ tương lai, 
khiến cho những em bé còn bú sữa mà ăn 
phải chất thuốc phiện thì “trở thành cằn cỗi 
như những ông cụ non hay dăn dúm như 
những chú khỉ con vậy”18. Sống trong xã hội 
mà ở đó “Những người bán thuốc đã công 
nhận rằng thuốc phiện là thứ hàng hoá bán 
chạy nhất” thì tất yếu dẫn đến “Những 
người phụ nữ bất hạnh không có công ăn 
việc làm vì nạn khan hiếm bông đã trở thành 
cặn bã của xã hội và tiếp tục ở trong tình 
trạng ấy... Con số gái đĩ trẻ bây giờ nhiều 
hơn bất cứ lúc nào trong 25 năm qua”19. 
Nhưng đáng lo ngại hơn, là sự tha hoá nhân 
tính của một số phụ nữ, có những người mẹ 
bán con và “những người mẹ đã mất những 
tình cảm tự nhiên đối với con cái của họ đến 
một mức độ kinh khủng thường thường con 
chết họ cũng không buồn rầu gì lắm, và đôi 
khi còn trực tiếp tìm các biện pháp để gây ra 
cái chết ấy nữa”.20 
Những hệ luỵ này, được C.Mác và 
Ph.Ăngghen đề cập đến cách đây hơn một 
thế kỷ vẫn còn tính thời sự trong xã hội hiện 
nay và đang là vấn nạn đối với nhiều quốc 
gia, nhất là các nước đang phát triển. 
Báo cáo Triển vọng đô thị hoá thế giới 
cho thấy dân số thế giới đã đạt được bước 
ngoặt trong năm 2008: lần đầu tiên trong 
lịch sử, dân số thành thị bằng dân số nông 
thôn, sau đó dân số thành thị sẽ chiếm phần 
lớn dân số thế giới. Thế giới sẽ có 70% là 
dân số thành thị đến năm 2050. (UN, 2010). 
Các chuyên gia của Liên hợp quốc từng 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
22 
cảnh báo về những tác động trái chiều của 
đô thị hoá đến phát triển, như: ô nhiễm môi 
trường, nghèo đô thị, thất học, bệnh tật,... 
Năm 2009, mức độ đô thị hoá ở Việt 
Nam đạt 30%, và dự báo sẽ là 45% vào năm 
2030. Tính đến cuối năm 2010, nước ta có 
755 thành phố, thị xã, thị trấn, có thể nói 
rằng đô thị hoá của nước ta đang đạt tốc độ 
nhanh nhất từ trước đến nay. Bên cạnh 
những yếu tố tích cực, thì đô thị hoá cũng có 
những tác động tiêu cực đến một số khía 
cạnh trong văn hoá, xã hội, lối sống Vì 
thế, những nội dung trong các tác phẩm của 
C.Mác và Ph.Ăngghen bàn về đô thị hoá, 
theo chúng tôi vẫn có tính thời sự không chỉ 
với Việt Nam mà cả với các nước đang phát 
triển trong thế kỷ XXI này. 
__________________ 
Chú thích 
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 46, phần I, tr.763. 
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 21, tr.246. 
3. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 46, phần I, tr.74. 
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 2, tr.359, 360. 
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 46, phần I, tr. 753-754. 
6. C. Mác, Tư bản, phần thứ nhất, tập 1 (1988), Nxb. 
Tiến bộ, Matxcova - Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 448. 
7. C. Mác, Tư bản, phần thứ nhất, tập 1 (1988), Nxb. 
Tiến bộ, Matxcova - Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 632. 
8. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 4, tr. 559-600. 
9. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 2, tr. 362. 
10. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 602. 
11. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 20, tr. 408. 
12. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội , tập 23, tr. 713. 
13. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 46, phần I, tr. 786, 787. 
14. Sđd, tập 2, tr. 363. 
15. Sđd, tập 2, tr. 364. 
16. C.Mác, Tư bản, Phần thứ nhất (1988), Nxb. Tiến 
bộ, Mátxcơva - Nxb. Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 503. 
17. C. Mác, Tư bản, Phần thứ nhất (1988), Nxb. Tiến 
bộ, Mátxcơva - Nxb. Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 504. 
18. C. Mác, Tư bản, Phần thứ nhất, tập 1 (1988), Nxb. 
Tiến bộ, Mátxcơva - Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 505. 
19. C. Mác, Tư bản, Phần thứ nhất, (1988), Nxb. Tiến 
bộ, Mátxcơva - Nxb. Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 577. 
20. C. Mác, Tư bản, Phần thứ nhất, tập 1 (1988), Nxb. 
Tiến bộ, Mátxcơva - Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 503. 
Tài liệu tham khảo 
1. C. Mác: Tư bản, phần thứ nhất (1988), tập 1. Nxb. 
Tiến bộ, Matxcova - Nxb. Sự thật, Hà Nội. 
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 2. 
3. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 4. 
4. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 20. 
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tập 21. 
6. C.Mác và Ph. Ăngghen (2002), Toàn tập, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 23. 
7. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb. Chính trị 
quốc gia Hà Nội, phần I, t.46. 
8. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình Xã hội học 
về Giới, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_luan_diem_cua_c_mac_va_ph_angghen_ve_do_thi_hoa.pdf