Một số kiến nghị từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua cho thấy vẫn còn
những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự. Bài viết này phân tích làm rõ một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, qua đó đưa ra một số kiến nghị góp phần bảo đảm
áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Bạn đang xem tài liệu "Một số kiến nghị từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kiến nghị từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 51 (01/2019) 61-69 61 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lê Duy Tường**† Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 8/7/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 8/01/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/01/2019 Tóm tắt: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua cho thấy vẫn còn những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự. Bài viết này phân tích làm rõ một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, qua đó đưa ra một số kiến nghị góp phần bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ khóa: Áp dụng pháp luật hình sự; Thực tiễn; Tội phạm; Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Tòa án nhân dân; thành phố Hồ Chí Minh. 1. Khái quát về áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Theo quan điểm phổ biến hiện nay, áp dụng pháp luật là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật là: Tuân thủ pháp luật; Thi hành pháp luật; Sử dụng pháp luật và Áp dụng pháp luật.1****************************** Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật định nghĩa: * Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hưng Yên 1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, 2011, tr. 185. 2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Sđd, tr. 186. Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.2†††††††††††††††††††††††††††††† 62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Từ định nghĩa trên, có thể định nghĩa: Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Tòa án nhân danh Nhà nước căn cứ vào các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng tạo ra các quyết định hoặc bản án làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hình sự trong từng vụ án hình sự cụ thể. 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Giai đoạn 2014 -2018 tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử 11 vụ án phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong đó có 8 vụ bị kháng cáo, kháng nghị. Trong 8 vụ có kháng cáo, kháng nghị thì có 5 vụ giữ nguyên bản án sơ thẩm, chỉ có 3 vụ bị sửa hình phạt. Nghiên cứu các vụ án được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có sửa hình phạt cho thấy nổi lên một số hạn chế, vướng mắc sau đây: 2.1. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ Nghiên cứu nội dung vụ án Hoàng Văn T cho thấy: T là nhân viên của tiệm cầm đồ tại địa chỉ số 11 DDN, phường Q, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh đã lấy của chủ tiệm cầm đồ (ông Vũ Xuân T) 1 chiếc xe máy hiệu AirBlade, 1 điện thoại di động Iphone 5 đã qua sử dụng, 1 máy 3 Trích Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HSST ngày 05/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. tính bảng Ipad đã qua sử dụng và 25 triệu đồng tiền mặt. Bản kết luận giám định số 152/HĐĐG ngày 17/12/2014 định giá xe gắn máy Honda AirBlade trị giá 25.000.000 đồng; Điện thoại di động Iphone 5 trị giá 6.000.000 đồng; Máy tính bảng Ipad trị giá 6.500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của ông T là 62.500.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét chấp nhận các tình tiết giảm nhẹ là: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm p khoản 1 và điểm d khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 BLHS 1999 tuyên bố Hoàng Văn T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và xử phạt Hoàng Văn T 3 năm tù.3‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡ Hoàng Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định, ngoài các tình tiết mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã ghi nhận, bị cáo Hoàng Văn T còn có những tình tiết khác, như bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo sau khi phạm tội đã hiến thận để cứu người, được Bệnh viện Đa khoa PX xác nhận. Mặt khác, nghiên cứu hoàn cảnh gia đình bị cáo cho thấy, bị cáo sinh năm 1986 tại Nam Hà, đăng ký thường trú tại huyện X tỉnh Ninh Bình. Bị cáo mất mẹ từ nhỏ, cha bị cáo là thương binh. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chỉ học đến lớp 11 thì theo người quen vào thành phố Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 63 Hồ Chí Minh làm thuê, kiếm tiền. Rõ ràng hành vi chiếm đoạt 62.500.000 đồng một phần cũng do lỗi của ông T, chủ tiệm cầm đồ đã thiếu kiểm tra, giám sát, quy trình hoạt động có nhiều sơ hở nên phần nào kích thích ý định phạm tội của T. Việc không đánh giá chính xác những tình tiết giảm nhẹ, cũng như không làm rõ nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội làm cho việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội chưa đúng, dẫn đến hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho T là quá nặng, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nên chưa đáp ứng được mục đích của hình phạt. Từ nhận định này, Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho T từ 3 năm tù xuống thành 2 năm tù.4§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§ Trường hợp của Phan Thị Thanh T cũng là vụ án mà tòa án chưa đánh giá hết các tình tiết của vụ án. Nội dung vụ án: Phan Thanh T được chị Nguyễn Thị Tuyết M tin tưởng giao cho điều khiển xe mô tô gửi vào bãi gửi xe. T đã đem xe đi bán với giá 10.000.000 đồng và tiêu xài hết tiền rồi bỏ về quê ở Bình Thuận. Chị M không liên lạc được nên trình báo công an. Sợ bị bắt nên 10 ngày sau, T đã đem tiền chuộc lại xe mô tô và mang trả lại cho chị M. Kết luận định giá tài sản số 24 ngày 4 Bản án hình sự phúc thẩm số 238/2018/HSPT ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 5 Trích Bản án sơ thẩm số 220/2017/HSST ngày 13/7/2017 của TAND quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. 19/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản quận Thủ Đức kết luận: Chiếc xe trị giá 25.592.000 đồng. Bản án sơ thẩm số 220/2017/HSST ngày 13/7/2017 của TAND quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh tuyên bị cáo T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 140; điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Phan Thanh T 10 tháng tù.5* T làm đơn kháng cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá các tình tiết giảm nhẹ và T được hưởng, tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm vẫn chưa đánh giá hết các tình tiết giảm nhẹ mà T phải được hưởng, như bản thân T là quân nhân xuất ngũ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên nhất thời phạm tội. Sau khi phạm tội, T đã chuộc lại xe và trả lại cho người bị hại. Như vậy, hậu quả của hành vi phạm tội đã bị khắc phục hoàn toàn. Trường hợp này thể hiện T là người vừa thành khẩn khai báo, vừa ăn năn hối cải nên có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho T. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho T từ 10 tháng tù xuống 8 tháng tù.6† Vụ án của Phạm Thị Bảo Tr phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng là vụ án chưa đánh giá hết các tình tiết của vụ việc. Nội dung vụ việc như sau: Từ 6 Bản án hình sự phúc thẩm số 509/2017/HSPT ngày 22 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tháng 6 đến tháng 8 năm 2014, lợi dụng khâu quản lý của trường mầm non V.D.T.T thuộc Công ty TNHH cổ phần giáo dục QT còn nhiều kẽ hở, khi thu tiền của phụ huynh đóng học phí, Tr gửi email báo cho bà Hoàng A (Người đại diện theo pháp luật của công ty) một nửa số tiền của từng phụ huynh đóng học phí, nửa còn lại Tr chiếm đoạt. Ngoài ra, Tr cũng kê khống hóa đơn sửa chữa và mua sắm trang thiết bị. Tổng số tiền Tr chiếm đoạt là 184.236.000 đồng. Hội đồng xét xử đã vận dụng điểm a khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Phạm Thị Bảo Tr 2 năm 6 tháng tù.7‡Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Tòa án cấp phúc thẩm nhận xét: Bị cáo có nhân thân tốt, thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã tự nguyện khắc phục nộp lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt trước khi khởi tố vụ án, người bị hại có đơn bãi nại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có chồng tham gia cách mạng, được tặng thưởng nhiều huy chương. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có con nhỏ; Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong quá trình tại ngoại chấp hành tốt pháp luật nhà nước; Bị cáo có công việc ổn định và có con nhỏ nên xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt tù giam mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đạt được mục 7 Trích Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2018 đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng điểm d khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Thị Bảo Tr 2 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 5 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Như vậy, trong cả ba vụ án trên, có thể thấy, Hội đồng xét xử sơ thẩm mặc dù về cơ bản đã vận dụng đúng những tình tiết của vụ án để quyết định hình phạt, vì vậy về cơ bản, hình phạt được quyết định là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, một số tình tiết vẫn chưa được Hội đồng xét xử đánh giá một cách toàn diện, nhất là các tình tiết thuộc về hoàn cảnh gia đình, nhân thân người phạm tội. Bên cạnh đó, những vấn đề liên quan đến nguyên nhân và điều kiện của hành vi phạm tội cụ thể chưa được tòa án làm rõ để dựng lên một bức tranh đầy đủ, toàn diện và chân thật nhất về vụ việc phạm tội để từ đó có nhận thức một cách đầy đủ, chính xác nhất nhân thân người phạm tội và các tình tiết có liên quan nhằm đưa ra một hình phạt chính xác, phù hợp nhất với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Các bản án đã được Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và tuyên sửa án sơ thẩm cho thấy một xu hướng là các bản án sơ thẩm đều xử theo hướng áp dụng một hình phạt nghiêm khắc hơn so của Tòa án nhân dân quận 7 thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 65 với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do vậy, cả 3 bản án sơ thẩm bị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa thì đều sửa theo hướng nhẹ hơn, trong đó 1 bản án giảm từ 3 năm tù xuống thành 2 năm tù; 1 bản án giảm từ 10 tháng tù xuống còn 8 tháng tù và 1 bản án giữ nguyên mức hình phạt 2 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. 2.2. Tòa án cấp sơ thẩm chưa mạnh dạn áp dụng án treo Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.8§Án treo là một chế định vừa thể hiện tính nhân đạo của Pháp luật hình sự Việt Nam, vừa có tác dụng khuyến khích người phạm tội tự tu dưỡng, rèn luyện, giáo dục tại cộng đồng với sự hỗ trợ tích cực của gia đình, cơ quan, xã hội.9**Bên cạnh đó, án treo cũng có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế, giúp tiết kiệm rất nhiều kinh phí cải tạo, giáo dục người phạm tội thi hành án trong các trại giam.10†† Việc áp dụng án treo mang lại nhiều lợi ích cả cho nhà nước cũng như cho người phạm tội, vì vậy Tòa án nhân dân tối cao liên tục có các văn bản hướng dẫn áp 8 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo. dụng chế định án treo nhằm giúp tòa án nhân dân các cấp có thể áp dụng đúng nhất chế định này để vừa bảo đảm lợi ích của người phạm tội, vừa mang lại lợi ích cho Nhà nước. Mặc dù Tòa án nhân dân tối cao mới ban hành Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo, tuy nhiên, Nghị quyết này mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Vì vậy, các vụ án nêu trên đều áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo. Chiếu theo hướng dẫn của Nghị quyết này, nhiều vụ án trong số 8 vụ án bị kháng cáo, kháng nghị nói trên thỏa mãn các điều kiện được hưởng án treo và nhẽ ra người phạm tội phải được hưởng án treo. Ví dụ vụ án của Phạm Thị Bảo Tr nói trên, mặc dù Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm tuyên phạt 2 năm 6 tháng tù, tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã sửa lại bản án, tuyên phạt Tr 2 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Theo chúng tôi, việc tòa án quyết định cho Tr hưởng án treo là hoàn toàn có cơ sở, vì Tr thỏa mãn cả 5 điều kiện được nêu tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP là: Bị xử phạt tù không quá ba năm về tội 9 Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb. Công an nhân dân, trang 302. 10 Nguyễn Văn Bường, Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên, Luận án tiến sỹ luật, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017, trang 41. 66 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng; Có nhân thân tốt; Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng. 11‡‡Bị cáo Tr cũng không thuộc các trường hợp mà Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn là không cho hưởng án treo tại khoản 2 Điều Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo. Những tình tiết này về cơ bản là có thể dễ dàng nhận biết, tuy nhiên về điều kiện “Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm” là một điều kiện không dễ dàng nhận thức được. Chính điều này là một rào cản mà nhiều Hội đồng xét xử không quyết định cho bị cáo hưởng án treo. Nghiên cứu 8 vụ án bị kháng cáo, kháng nghị cho thấy, cả 8 bị cáo trong 8 vụ án đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, trong đó có 4 bị cáo xin được hưởng án treo. Tuy nhiên trong số 4 bị cáo xin được hưởng án treo thì chỉ có duy nhất 1 bị cáo được Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo (chiếm tỷ lệ 25%). Theo chúng tôi, 11 Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo. đây là một tỷ lệ quá ít bởi nhiều bị cáo trong số các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt có thể xem xét cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng xét xử đã không cho các bị cáo này được hưởng án treo. Ví dụ, nghiên cứu vụ án Phạm Thị Minh N lợi dụng việc được giao làm thu ngân cho siêu thị Lotte Mart Gò Vấp, biết được dữ liệu thanh toán của người đang thực tập thì không được lưu vào dữ liệu của siêu thị nên khi thanh toán tiền cho khách, N đã xuất hóa đơn thanh toán ở chế độ thực tập để chiếm đoạt số tiền bán hàng. Tính đến thời điểm bị phát hiện, từ tháng 6 đến tháng 8/2017, N đã chiếm đoạt tổng số tiền là 45.665.000 đồng. Bản án sơ thẩm tuyên N phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; căn cứ khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt N 6 tháng tù. N làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.12§§ Tòa án cấp phúc thẩm nhận định, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, ở đây xuất hiện quan điểm khác nhau giữa Viện kiểm sát và Tòa án. Viện kiểm sát cho rằng, hành vi của N không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc 12 Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HSST ngày 16-3-2018 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 67 thẩm nhận định, vì bị cáo N chỉ được phân công tính tiền cho khách hàng vào mỗi thứ 7 và chủ nhật hàng tuần, nên mỗi lần bị cáo chiếm đoạt tiền của siêu thị là không liên tục về thời gian nên hành vi của bị cáo thỏa mãn tình tiết “Phạm tội nhiều lần. Theo chúng tôi, lập luận này của Hội đồng xét xử là chưa thỏa đáng. Sự khác nhau cơ bản giữa tội liên tục và phạm tội nhiều lần là tội liên tục là tội phạm mà hành vi khách quan có tính liên tục, bao gồm nhiều hành vi cùng loại xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, cùng xâm hại một quan hệ xã hội và đều bị chi phối bởi ý định phạm tội. Phạm tội nhiều lần là trường hợp người phạm tội đã thực hiện một tội phạm nhiều lần mà các lần trước chưa bị xử lý. Xét hành vi của N là trường hợp N được phân công làm thu ngân vào các cuối tuần. Lợi dụng kẽ hở trong quan lý của siêu thị, mỗi lần thực hiện nhiệm vụ, N đều sử dụng hành vi gian dối “xuất hóa đơn thanh toán ở chế độ thực tập” để chiếm đoạt tiền. Ở đây, cần xét đến tính chất công việc của N. Do N chỉ được giao thực hiện nhiệm vụ thu ngân vào các cuối tuần nên mỗi khi được giao nhiệm vụ thì N đều thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Trường hợp này hoàn toàn khác trường hợp N được giao nhiệm vụ thu ngân liên tục tất cả các ngày từ tháng 6 đến tháng 8/2017, nhưng chỉ cuối tuần N mới thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp này mới được coi là thực hiện tội phạm một cách không liên tục. Còn trường hợp N chỉ được giao thực hiện nhiệm vụ vào các cuối tuần, mỗi khi có điều kiện thực hiện nhiệm vụ thì N đều thực hiện cùng một dạng hành vi phạm tội, các hành vi này đều bị chi phối bởi cùng một mục đích phạm tội. Vì vậy, cùng với nguyên tắc làm lợi cho bị can, bị cáo thì trong trường hợp này, cần xác định hành vi phạm tội của N thuộc trường hợp tội liên tục chứ không phải phạm tội nhiều lần. Mặt khác, xét các điều kiện của N có đủ các điều kiện theo hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo (Nay là Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo). Trong vụ án này, N chỉ bị xử phạt 6 tháng tù; Sau khi phạm tội, N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; N đã bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt; N chưa có tiền án, tiền sự; Hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ ly hôn; bị cáo phải nuôi mẹ già và anh trai bị bệnh nan y; bị cáo có nơi ở rõ ràng. Theo chúng tôi, trường hợp này, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nên chấp nhận kháng cáo theo hướng tuyên phạt bị cáo 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo bởi bị cáo N đã nhận thức rõ hành vi phạm tội và hoàn toàn có khả năng tự giáo dục, cải tạo. Việc cho bị cáo N được hưởng án treo sẽ vừa đáp ứng mục đích của hình phạt, thể hiện tốt chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự, giúp bị cáo có điều kiện chăm sóc mẹ già, anh trai bị bệnh nan y, đồng thời giúp tiết kiệm kinh phí thi hành án phạt tù. 3. Một số kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Áp dụng đúng pháp luật hình sự chính là bảo đảm tốt nhất hiệu quả điều 68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion chỉnh của các quy phạm pháp luật hình sự, từ đó góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích cơ bản của người phạm tội. Để bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo chúng tôi cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và tăng cường giải thích, hướng dẫn pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 đã có nhiều tiến bộ, khắc phục được nhiều hạn chế của Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên, một số quy định, chế định trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 vẫn chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Ví dụ, quy định “xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù” tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 về án treo là khá chung chung, trừu tượng và phụ thuộc rất lớn vào chủ quan của các thành viên Hội đồng xét xử. Điều này là một trở ngại rất lớn cho việc áp dụng chế định án treo trong thực tiễn xét xử. Vì vậy, cần nghiên cứu để thay thế bằng quy định cụ thể, rõ ràng hơn, tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật. Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 đã có một số sửa đổi, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục có những giải thích, hướng dẫn để có cách hiểu và vận dụng thống nhất. Điều 175 BLHS năm 2015 đã bổ sung “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”, tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này lại chưa có văn bản nào giải thích, hướng dẫn. Mặt khác, khái niệm “bỏ trốn”, “cố tình không trả”, “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong quy định của Điều 175 BLHS cũng chưa được làm rõ. Việc giải thích, hướng dẫn cụ thể những khái niệm này là yêu cầu cấp bách tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật cũng như bảo đảm áp dụng đúng pháp luật. Thứ hai, cần tăng cường năng lực chuyên môn, kỹ năng áp dụng pháp luật của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân nói riêng cũng như đội ngũ tiến hành tố tụng nói chung. Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị, chất lượng của đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp đã được nâng lên một bước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 4/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xâỵ dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đen năm 2020, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã đề ra Chương trình số 03/CTr/BCĐCCTPTW ngày 6/10/2016 về trọng tâm công tác cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2016-2021 trong đó có nội dung tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng công tác của đội ngũ chức danh tư pháp nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn áp dụng pháp luật. Thứ ba, cần tăng cường hơn nữa cơ chế phối công tác giữa Cơ quan điều Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 69 tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cần có các tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tăng cường các hội thảo khoa học giữa các cơ quan này nhằm thống nhất trong nhận thức khoa học làm nền tảng quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Tài liệu tham khảo: 1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, Chương trình số 03/CTr/BCĐCCTPTW ngày 6/10/2016 về trọng tâm công tác cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2016-2021. 2. Bộ chính trị, Kết luận số 01-KL/TW ngày 4/4/2016 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xâỵ dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. 3. Bộ chính trị, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xâỵ dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. 4. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm 2013 hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo. 5. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo. 6. Nguyễn Văn Bường, Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên, Luận án tiến sỹ luật, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017, trang 41. 7. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HSST ngày 16-3-2018 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự phúc thẩm số 238/2018/HSPT ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 9. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự phúc thẩm số 509/2017/HSPT ngày 22 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 10. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HSST ngày 05/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh 11. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự sơ thẩm số 220/2017/HSST ngày 13/7/2017 của TAND quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. 12. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận 7 thành phố Hồ Chí Minh. 13. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb. Công an nhân dân, trang 302. 14. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, 2011 Địa chỉ tác giả: Lê Duy Tường, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hưng Yên. Điện thoại: 0912249388
File đính kèm:
- mot_so_kien_nghi_tu_thuc_tien_ap_dung_phap_luat_hinh_su_doi.pdf