Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự
Hưởng ứng cuộc vận động toàn dân tham gia góp ý kiến bảo đảm tính ổn định bền vững lâu dài trong
đời sống xã hội của Dự thảo Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Dân sự sau khi đã được Quốc hội thông qua. Bài
viết tập trung phân tích các nội dung chế định “Hợp đồng” trong Dự thảo, trên cơ sở so sánh tính hợp lý
của các quy định này trong thực tiễn thi hành Bộ Luật Dân sự hiện hành năm 2005 và yêu cầu hội nhập
giai đoạn hiện nay của đất nước. Qua đó, Tác giả đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định liên
quan đến chế định “Hợp đồng” liên quan đến vấn đề: Hợp đồng theo mẫu; Một số hợp đồng thông
dụng; Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi; Địa điểm giao hàng; Trách nhiệm do giao hàng
không đúng số lượng; Thời điểm chuyển rủi ro đối với trường hợp tài sản đó phải đăng ký quyền sở
hữu; Chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu; chế tài hợp đồng và Hợp đồng mượn tài sản.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015 12 Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự Proposals on admendments and supplements to contracts in The Draft Civil Code TS. Hồ Xuân Thắng Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Ho Xuan Thang Sai Gon University Tóm Tắt Hưởng ứng cuộc vận động toàn dân tham gia góp ý kiến bảo đảm tính ổn định bền vững lâu dài trong đời sống xã hội của Dự thảo Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Dân sự sau khi đã được Quốc hội thông qua. Bài viết tập trung phân tích các nội dung chế định “Hợp đồng” trong Dự thảo, trên cơ sở so sánh tính hợp lý của các quy định này trong thực tiễn thi hành Bộ Luật Dân sự hiện hành năm 2005 và yêu cầu hội nhập giai đoạn hiện nay của đất nước. Qua đó, Tác giả đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định liên quan đến chế định “Hợp đồng” liên quan đến vấn đề: Hợp đồng theo mẫu; Một số hợp đồng thông dụng; Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi; Địa điểm giao hàng; Trách nhiệm do giao hàng không đúng số lượng; Thời điểm chuyển rủi ro đối với trường hợp tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu; Chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu; chế tài hợp đồng và Hợp đồng mượn tài sản. Từ khóa: Bộ Luật Dân sự, kiến nghị, hợp đồng... Abstract Responding to a mass movement to provide comments to ensure stable long-term sustainability of the social life of the Draft Amendments and supplements to the Civil Code, after which the National Assembly. The article focuses on analyzing the contents of regulatory "contract" in the draft, on the basis of comparative validity of these provisions in practice of the implementation of the Civil Code of 2005 and the current integration requirements in the current stage of the country. Thereby, the authors propose recommendations to finalize regulations relating to regulatory "contract" related issues: Contract Form; Some common contract; Adjust the contract when circumstances change; Place of delivery; Responsibility for delivery due to incorrect number; Time to transfer the risk to the assets which case ownership must be registered; Costs related to the transfer of ownership; contract sanctions and asset loan contract. Keywords: The Civil Code, proposition, contract Bộ Luật dân sự là một trong những đạo luật lớn nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với việc duy trì sự ổn định các giao dịch dân sự, thương mại trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Tuy nhiên, Trong thời kì đổi mới đất nước và hội nhập nền kinh tế thế giới ở nước ta, Bộ 13 Luật dân sự năm 2005 đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi bổ sung để điều chỉnh các quan hệ dân sự bình đẳng công khai minh bạch hơn, đồng thời làm cơ sở cho việc ban hành các văn bản luật chuyên ngành một cách có hiệu quả. Vì thế cho nên, nội dung Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự hiện hành (2005) đã được công bố để lấy ý kiến đóng góp của đông đảo tầng lớp nhân dân. Để tham gia đóng góp ý kiến bổ sung vào các nội dung của dự thảo, chúng tôi sẽ phân tích và đưa ra một số kiến nghị sửa đổi bổ sung liên quan đến chế định hợp đồng để cùng nhau trao đổi. Một là: Về Hợp đồng theo mẫu Tại Điều 424 của Dự thảo đã thực sự kế thừa những quy định từ Bộ Luật dân sự (2005) về Hợp đồng theo mẫu. Tuy nhiên, cách hiểu “hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu” chưa đáp ứng được sự phát triển của quan hệ hợp đồng. Trong thực tiễn, xuất hiện những trường hợp xung đột hợp đồng theo mẫu, khi cả hai bên tham gia hợp đồng để đưa ra hợp đồng mẫu trong thời gian thực hiện đàm phán, thương thảo để kí kết hợp đồng, thế nhưng trong nội dung Dự thảo chưa bàn đến cơ chế để giải quyết vấn đề này. Mặt khác, nguyên tắc giải thích điều khoản trong dự thảo về hợp đồng mẫu không rõ ràng, thiếu tính phù hợp với các chuẩn mực chung trên thế giới theo thuyết “contra conferentem”. Chúng tôi nhận thấy rằng, thực tế áp dụng vấn đề này tại Việt Nam trong thời gian qua đều có vướng mắc liên quan đến việc quy định cơ quan giải thích điều khoản hợp đồng. Tức là khi có những điều khoản không rõ ràng trong hợp đồng theo mẫu, doanh nghiệp Việt Nam gửi đơn đề nghị giải thích điều khoản này tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau đó, các cơ quan này gửi công văn trả lời cho doanh nghiệp về nội dung điều khoản chủ yếu có lợi cho doanh nghiệp. Do vậy, theo ý kiến của chúng tôi kiến nghị sửa đổi cần bổ sung quy định xử lý các xung đột về hợp đồng theo mẫu của các bên, theo đó những điều khoản mẫu trong hợp đồng là những điều khoản có sự thống nhất của cả hai bên đưa ra hợp đồng mẫu. Ngoài ra, cần quy định việc trao thẩm quyền giải thích điều khoản không rõ ràng cho Tòa án có thẩm quyền theo thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự. Hai là: Về nội dung “một số hợp đồng thông dụng” Từ quy định trong Bộ Luật dân sự hiện hành đến Dự thảo Bộ Luật dân sự sửa đổi không có sự thay đổi đáng kể về danh sách những hợp đồng thông dụng. Điểm bất cập trong nội dung này là những quy định của Dự thảo rất chồng chéo với các văn bản pháp luật chuyên ngành trong hệ thống pháp luật của nước ta, với lý do các nhà soạn thảo chưa có cách nhìn đa chiều trong mối liên hệ mật thiết giữa nội dung luật này với các Luật khác. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi pháp luật trong thực tiễn bởi thiếu tính ổn định, sự trường thọ của Bộ luật này trong tương lai. Theo quan điểm của mình, chúng tôi kiến nghị sửa đổi: Thứ nhất, nên loại bỏ Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng gia công ra khỏi danh sách được liệt kế trong dự thảo Thứ hai, cần bổ sung loại hợp đồng phổ biến trên thực tế như hợp đồng đại lý, hợp đồng ủy thác, hợp đồng môi giới, hợp đồng thành lập công ty, v.v... vào nội dung điều luật này của dự thảo, để việc áp dụng trong thực tiễn linh hoạt hơn. Ba là: Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi Tại Điều 443 của Dự thảo lần này đã bổ sung quy định về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, đây là một điểm 14 mới rất quan trọng trong Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi. Nội dung của Điều này không trái với các quy định tại mục 6.2 PICC 2010 sự kiện xẩy ra làm ảnh hưởng đến một bên không thể kí kết được mục đích của giao kết hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại Quốc tế. Nhìn nhận dưới góc độ kinh doanh thương mại, điều này hướng tới việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bởi nhu cầu điều chỉnh hợp đồng chủ yếu sẽ xuất phát từ nhà sản xuất. Thực tế trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đã lợi dụng lý do biến động thị trường, giá nguyên vật liệu tăng cao làm ảnh hưởng lớn đến việc hoàn thành các dự án và tất nhiên căn hộ được bán đến người có nhu cầu bất hợp lý. Rõ ràng, lúc này các tranh chấp xảy ra thường gây nên những bất lợi cho người mua, nhất là với những người có thu nhập thấp ở nước ta. Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trì hoãn tiến độ khi chưa giải quyết xong “chiến lược” tăng giá của mình, dự án bị đình trệ, vấn đề tệ hại nhất đó là vốn của người tiêu dùng bị doanh nghiệp chiếm dụng bất hợp pháp. Do vậy, quy định tại Dự thảo cho phép Tòa án được xử lý hợp đồng khi các bên không đạt được thỏa thuận là hàn toàn hợp lý nhưng những nguyên tắc khi tiến hành chấm dứt hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng lại không được bàn đến. Đây là một khiếm khuyết rất lớn, cần được xem xét bổ sung vào dự thảo lần này, chúng tôi Kiến nghị sửa đổi: Quy định tại Khoản 3 Điều 443 dự thảo cần bổ sung nội dung như sau: Tòa án thực hiện việc chấm dứt hoặc điều chỉnh hợp đồng theo hướng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bốn là: Về vấn đề địa điểm giao hàng trong hợp đồng mua bán tài sản Khi bàn đến vấn đề địa điểm giao hàng, xét về nguyên tắc xác định địa điểm giao hàng trong trường không có thỏa thuận theo quy định trong Dự thảo lại có sự mâu thuẫn tương quan với Luật Thương mại hiện hành năm 2005. Theo Điều 458 của Dự thảo thì: “Địa điểm giao tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 307 của Bộ luật này”, nội dung này cũng được quy định tại Khoản 2 Điều 307 Dự thảo, như sau: “Trường hợp không có thoả thuận thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ được xác định như sau: - Nơi có bất động sản, nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản; - Nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản”. Nếu đem đối chiếu với quy định tại Khoản 2 Điều 35 Luật Thương mại (2005) thì quy định như vậy là thiếu chính xác và không rõ ràng, dẫn tới việc không thống nhất trong cách hiểu nội dung của điều luật: “Trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: - Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hóa đó; - Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên; - Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hóa thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó; - Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao 15 kết hợp đồng mua bán”. Bởi thế cho nên, chúng tôi xin kiến nghị sửa điểm b khoản 2 Điều 307 như sau: “Nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có nghĩa vụ giao hàng, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản”. Năm là: Đối với quy định về Trách nhiệm do giao hàng không đúng số lượng trong hợp đồng mua bán tài sản Theo quy định về quyền của bên mua trong trường hợp bên bán giao thiếu hàng: “Bên mua có quyền: Hủy bỏ hợp đồng nếu việc vi phạm làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.” tại Điểm c Khoản 2 Điều 460 Dự thảo là không phù hợp. Thứ nhất, việc giao thiếu hàng không phải là một lỗi nghiêm trọng, trong thực tế bên bán hoàn toàn có khả năng khắc phục hợp đồng sau khi bên mua gia hạn thêm một khoảng thời gian phù hợp. Thứ hai, khái niệm “không đạt được mục đích giao kết hợp đồng” rất khó xác định trên thực tế. Khái niệm này được quy định tại Điều 25 của Công ước Viên 1980 (CISG) về mua bán hàng hóa quốc tế, tuy nhiên, các Thẩm phán, Trọng tài quốc tế vẫn dựa vào án lệ để xác định tính chất vi phạm cơ bản này. Để đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn thi hành của điều luật này, chúng tôi kiến nghị, cần phải bỏ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 460 và sửa lại thuật ngữ “Vi phạm nghiêm trọng” tại Khoản 3 Điều 446 Dự thảo thành cụm từ thuật ngữ “Vi phạm cơ bản” cho phù hợp với thuật ngữ “Fundamental” sử dụng trong Công ước Viên 1980. Sáu là: Liên quan đến vấn đề Thời điểm chuyển rủi ro đối với trường hợp tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán tài sản. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 465 của dự thảo: “Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có thoả thuận khác”. Quy định này theo quan điểm của chúng tôi là bất hợp lý, trái với quy định trong Luật Thương mại hiện hành (2005). Bởi vì, sau khi người bán chuyển giao tài sản cho người mua nhưng người bán vẫn phải tiếp tục gánh chịu rủi ro cho đến khi người mua làm xong thủ tục chuyển quyền sở hữu là không công bằng cho bên bán. Tức là quy định này vô hình trung tạo cơ hội cho bên mua làm khó cho bên bán và tranh chấp trong giao dịch mua bán giữa hai bên có thể xẩy ra mãnh liệt trong tương lai. Ví dụ như trong trường hợp người mua biết được việc bên bán đang làm thủ tục đăng ký để chuyển giấy tờ sử hữu phải chịu rủi ro cho nên họ có thể thay đổi ý định mua hoặc cố ý gây ra một lỗi nào đó từ khối tài sản đã giao thì bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm về hàng hóa đó như vậy việc hoàn tất thủ tục mua và bán khó khả thi và tất nhiên, người bán gặp phải gánh chịu rủi ro quá lớn hay người mua?. Kiến nghị sửa đổi: Sửa lại nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 465 Dự thảo theo hướng bảo vệ người bán và ngăn chặn cơ hội thay đổi ý định mua hoặc tạo cớ rủi ro đối với tài sản của bên mua nhằm giảm thiểu tranh chấp thực hiện hợp đồng mua và bán trong thực tiễn thi hành. Bảy là: Vấn đề Chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán tài sản. Tại Khoản 4 Điều 446 của dự thảo có quy định về chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu, đây là một trong những điểm có sự đổi mới để phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của quốc gia. Tuy 16 nhiên, nghiên cứu sâu ở quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng thì thật sự đây là một quy định rất bất hợp lý. Nghĩa là nó không thuận khi xác định nghĩa vụ của bên bán phải thanh toán các chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu. Nhất là mâu thuẫn khá nhiều trong quy định pháp luật ở các lĩnh vực chuyên ngành, như luật thương mại, luật kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán... khi mà bên bán chịu trách nhiệm nộp các khoản lệ phí trước bạ. Do đó, chúng tôi kiến nghị nên sửa khoản 4 Điều 446 của dự thảo theo hướng “bên mua phải chịu chi phí liên quan đến chuyển quyền sở hữu” để không trái với thực tiễn diễn ra các giao dịch dân sự trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tám là: Vấn đề chế tài hợp đồng Phải thừa nhận rằng, trong các hình thức chế tài hợp đồng, bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là những hình thức được diễn ra khá phổ biến. Mặc dù vậy, quan niệm về tính độc lập của hai hình thức chế tài này trong Luật Thương mại (2005) và dự thảo Bộ luật dân sự không thống nhất. Luật Thương mại hiện hành (2005) xác định đây là hai chế tài hoàn toàn độc lập, nó không phụ thuộc lẫn nhau, tức là khi có đủ căn cứ phát sinh vi phạm thì khi đó sẽ áp dụng chế tài. Trong khi đó Điều 411 của dự thảo quy định hai chế tài có liên quan mật thiết với nhau, như sau: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Như vậy, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất ở nội dung của quy định này là: Nếu trong trường hợp có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng trong hợp đồng chỉ thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ được áp dụng chế tài phạt vi phạm mà không được áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Bên bị vi phạm muốn áp dụng cả hai chế tài thì phải quy định cả hai chế tài này vào trong hợp đồng. Theo quan điểm của chúng tôi, quy định này của dự thảo thiếu tính khoa học và nó xa rời với thực tiễn áp dụng, đồng thời nó không phù hợp với bản chất của quan hệ hợp đồng nhất là trong nền kinh tế thị trường của các nước có nền kinh tế thị trường việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cần thiết phải linh hoạt. Có thể là căn cứ các nội dung đã cam kết trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Ban soạn thảo nên bỏ quy định: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Chín là: Hợp đồng mượn tài sản Nội dung về hợp đồng mượn tài sản tại Điều 517 của dự thảo được quy định như sau: “Hợp đồng mượn tài sản là hợp đồng, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền”. Đây là một khái niệm rất bất hợp lý, phiến diện không khoa học, chưa thực sự là một quy tắc xử sự chung cho quan hệ này trong xã hội hiện đại của chúng ta, chắc chắn nó là một rào cản và không khả thi trong thực tiễn thi hành. Quy định này chỉ nêu nghĩa vụ của bên cho mượn tài sản phải giao tài sản cho bên mượn và bên mượn không có nghĩa vụ trả tiền. Theo cách giải thích như trên, chúng ta có thể hiểu trong giao dịch dân sự này người có tài sản cho người khác mượn không được phép nhận tiền và người mượn tài sản không được trả bằng tiền mà thôi. Hay nói cách khác, các bên trong giao dịch 17 mượn tài sản có thể trả và nhận bằng các loại tài sản khác ngoài tiền vẫn không bị coi là vi phạm quy định về Hợp đồng giao dịch này. Về đối tượng của hợp đồng mượn tài sản, quy định tại Điều 518 của dự thảo: “Tất cả những tài sản không tiêu hao đều có thể là đối tượng của hợp đồng mượn tài sản”. Tuy nhiên, trong nội dung dự thảo không có khái niệm giải thích cụ thể như thế nào là “những tài sản không tiêu hao” trong chương mục này cũng như trong phần giải thích từ ngữ của Bộ luật dân sự. Nếu lập luận rằng “Vật không tiêu hao” đã có khái niệm quy định tài Khoản 2 Điều 129 của dự thảo để có thể thay thế cho khái niệm tài sản không tiêu hao thì đây là một quan niệm thiếu chính xác, không khoa học, bởi lẽ “tài sản tại Điều 122 của dự thảo có thể là vật nhưng vật chưa hẳn sẽ là tài sản”. Rõ ràng, sự bất cập trong cách dùng câu từ lúc thì “tài sản không tiêu hao” lúc thì “Vật không tiêu hao” trong quy định này dẫn đến việc thiếu tính thống nhất chung trong cách hiểu, chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống xã hội khi mà Bộ Luật này được Quốc hội thông qua. Chúng tôi kiến nghị, cần bổ sung quy định rõ cho bên mượn tài sản không có nghĩa vụ phải trả bất cứ một khoản tiền hoặc tài sản nào khác. Đồng thời phải giải thích rõ khái niệm “tài sản không tiêu hao” để quy định này hoàn thiện hơn, thống nhất chung từ trung ương đến địa phương trong quá trình thực thi. Tóm lại: Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi lần này đã có những quy định mang tính chất cơ bản, học thuyết phù hợp với sự vận động của các văn bản pháp luật hiện hành khác trong đó có các luật chuyên ngành có liên quan đến “Hợp đồng”. Những điểm mới này có thể khẳng định, Bộ Luật dân sự đã đi đúng hướng nhằm xác lập lại vị trí trong hệ thống pháp luật tư, nội dung của Dự thảo quy định hoàn toàn mang tính kế thừa trong khi thực tế đã có những đổi mới một cách tự nhiên quan trọng trong đời sống dân sự. Ban soạn thảo đã có những đột phá về tư duy nhằm đảm bảo tính logic trong Bộ luật nói riêng và hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, để đổi mới các nội dung trong dự thảo, các nhà làm luật cần phải triệt để, phải vượt qua những rào cản về thói quen, tập quán hay tâm lý ngại thay đổi của mọi giai tầng trong xã hội. Với nhiệm vụ lớn lao của người công dân đối với việc góp ý kiến sửa đổi bổ sung Bộ luật dân sự lần này, chúng ta cần phải tập trung cao độ để nghiên cứu, phân tích và cất nhắc việc kiến nghị các quy định liên quan đến chế định “Hợp đồng” nhằm bảo đảm yếu tố ổn định bền vững trong tương lai của Dự thảo sau khi được Quốc hội thông qua và triển khai thực hiện các quy định của chế định này trong đời sống xã hội nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật Dân sự năm (2005). 2. Dự thảo sửa đổi bổ sung Bộ Luật Dân sự (Tháng 3/2015 do Bộ Tư pháp cung cấp). 3. Luật Thương mại (2005). 4. Công ước Viên (1980). 5. Luật trọng tài thương mại (2010). 6. Bộ luật dân sự (2005). 7. Trần Văn Nam (Chủ biên) (2013), Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. 8. Luật Kinh doanh nhà (2014). Ngày nhận bài: 05/5/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015
File đính kèm:
- mot_so_kien_nghi_sua_doi_bo_sung_che_dinh_hop_dong_trong_du.pdf