Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự

Hưởng ứng cuộc vận động toàn dân tham gia góp ý kiến bảo đảm tính ổn định bền vững lâu dài trong

đời sống xã hội của Dự thảo Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Dân sự sau khi đã được Quốc hội thông qua. Bài

viết tập trung phân tích các nội dung chế định “Hợp đồng” trong Dự thảo, trên cơ sở so sánh tính hợp lý

của các quy định này trong thực tiễn thi hành Bộ Luật Dân sự hiện hành năm 2005 và yêu cầu hội nhập

giai đoạn hiện nay của đất nước. Qua đó, Tác giả đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định liên

quan đến chế định “Hợp đồng” liên quan đến vấn đề: Hợp đồng theo mẫu; Một số hợp đồng thông

dụng; Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi; Địa điểm giao hàng; Trách nhiệm do giao hàng

không đúng số lượng; Thời điểm chuyển rủi ro đối với trường hợp tài sản đó phải đăng ký quyền sở

hữu; Chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu; chế tài hợp đồng và Hợp đồng mượn tài sản.

pdf 6 trang kimcuc 5060
Bạn đang xem tài liệu "Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự

Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng trong dự thảo của Bộ luật Dân sự
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015 
12 
Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung chế định hợp đồng 
trong dự thảo của Bộ luật Dân sự 
Proposals on admendments and supplements to contracts in The Draft Civil Code 
TS. Hồ Xuân Thắng 
Trường Đại học Sài Gòn 
Ph.D. Ho Xuan Thang 
Sai Gon University 
Tóm Tắt 
Hưởng ứng cuộc vận động toàn dân tham gia góp ý kiến bảo đảm tính ổn định bền vững lâu dài trong 
đời sống xã hội của Dự thảo Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Dân sự sau khi đã được Quốc hội thông qua. Bài 
viết tập trung phân tích các nội dung chế định “Hợp đồng” trong Dự thảo, trên cơ sở so sánh tính hợp lý 
của các quy định này trong thực tiễn thi hành Bộ Luật Dân sự hiện hành năm 2005 và yêu cầu hội nhập 
giai đoạn hiện nay của đất nước. Qua đó, Tác giả đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định liên 
quan đến chế định “Hợp đồng” liên quan đến vấn đề: Hợp đồng theo mẫu; Một số hợp đồng thông 
dụng; Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi; Địa điểm giao hàng; Trách nhiệm do giao hàng 
không đúng số lượng; Thời điểm chuyển rủi ro đối với trường hợp tài sản đó phải đăng ký quyền sở 
hữu; Chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu; chế tài hợp đồng và Hợp đồng mượn tài sản. 
Từ khóa: Bộ Luật Dân sự, kiến nghị, hợp đồng... 
Abstract 
Responding to a mass movement to provide comments to ensure stable long-term sustainability of the 
social life of the Draft Amendments and supplements to the Civil Code, after which the National 
Assembly. The article focuses on analyzing the contents of regulatory "contract" in the draft, on the 
basis of comparative validity of these provisions in practice of the implementation of the Civil Code of 
2005 and the current integration requirements in the current stage of the country. Thereby, the authors 
propose recommendations to finalize regulations relating to regulatory "contract" related issues: 
Contract Form; Some common contract; Adjust the contract when circumstances change; Place of 
delivery; Responsibility for delivery due to incorrect number; Time to transfer the risk to the assets 
which case ownership must be registered; Costs related to the transfer of ownership; contract sanctions 
and asset loan contract. 
Keywords: The Civil Code, proposition, contract 
Bộ Luật dân sự là một trong những 
đạo luật lớn nhất trong hệ thống pháp luật 
Việt Nam và đóng một vai trò hết sức quan 
trọng đối với việc duy trì sự ổn định các 
giao dịch dân sự, thương mại trong nền 
kinh tế cũng như đời sống xã hội. Tuy 
nhiên, Trong thời kì đổi mới đất nước và 
hội nhập nền kinh tế thế giới ở nước ta, Bộ 
13 
Luật dân sự năm 2005 đã bộc lộ nhiều bất 
cập cần phải sửa đổi bổ sung để điều chỉnh 
các quan hệ dân sự bình đẳng công khai 
minh bạch hơn, đồng thời làm cơ sở cho 
việc ban hành các văn bản luật chuyên 
ngành một cách có hiệu quả. Vì thế cho 
nên, nội dung Dự thảo Bộ luật dân sự sửa 
đổi, bổ sung Bộ luật dân sự hiện hành 
(2005) đã được công bố để lấy ý kiến đóng 
góp của đông đảo tầng lớp nhân dân. Để 
tham gia đóng góp ý kiến bổ sung vào các 
nội dung của dự thảo, chúng tôi sẽ phân 
tích và đưa ra một số kiến nghị sửa đổi bổ 
sung liên quan đến chế định hợp đồng để 
cùng nhau trao đổi. 
Một là: Về Hợp đồng theo mẫu 
Tại Điều 424 của Dự thảo đã thực sự 
kế thừa những quy định từ Bộ Luật dân sự 
(2005) về Hợp đồng theo mẫu. Tuy nhiên, 
cách hiểu “hợp đồng theo mẫu là hợp đồng 
gồm những điều khoản do một bên đưa ra 
theo mẫu” chưa đáp ứng được sự phát triển 
của quan hệ hợp đồng. Trong thực tiễn, 
xuất hiện những trường hợp xung đột hợp 
đồng theo mẫu, khi cả hai bên tham gia 
hợp đồng để đưa ra hợp đồng mẫu trong 
thời gian thực hiện đàm phán, thương thảo 
để kí kết hợp đồng, thế nhưng trong nội 
dung Dự thảo chưa bàn đến cơ chế để giải 
quyết vấn đề này. 
Mặt khác, nguyên tắc giải thích điều 
khoản trong dự thảo về hợp đồng mẫu 
không rõ ràng, thiếu tính phù hợp với các 
chuẩn mực chung trên thế giới theo thuyết 
“contra conferentem”. Chúng tôi nhận thấy 
rằng, thực tế áp dụng vấn đề này tại Việt 
Nam trong thời gian qua đều có vướng mắc 
liên quan đến việc quy định cơ quan giải 
thích điều khoản hợp đồng. Tức là khi có 
những điều khoản không rõ ràng trong hợp 
đồng theo mẫu, doanh nghiệp Việt Nam gửi 
đơn đề nghị giải thích điều khoản này tới cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền. Sau đó, các 
cơ quan này gửi công văn trả lời cho doanh 
nghiệp về nội dung điều khoản chủ yếu có 
lợi cho doanh nghiệp. 
Do vậy, theo ý kiến của chúng tôi kiến 
nghị sửa đổi cần bổ sung quy định xử lý các 
xung đột về hợp đồng theo mẫu của các 
bên, theo đó những điều khoản mẫu trong 
hợp đồng là những điều khoản có sự thống 
nhất của cả hai bên đưa ra hợp đồng mẫu. 
Ngoài ra, cần quy định việc trao thẩm 
quyền giải thích điều khoản không rõ ràng 
cho Tòa án có thẩm quyền theo thủ tục rút 
gọn trong tố tụng dân sự. 
Hai là: Về nội dung “một số hợp đồng 
thông dụng” 
Từ quy định trong Bộ Luật dân sự hiện 
hành đến Dự thảo Bộ Luật dân sự sửa đổi 
không có sự thay đổi đáng kể về danh sách 
những hợp đồng thông dụng. Điểm bất cập 
trong nội dung này là những quy định của 
Dự thảo rất chồng chéo với các văn bản 
pháp luật chuyên ngành trong hệ thống 
pháp luật của nước ta, với lý do các nhà 
soạn thảo chưa có cách nhìn đa chiều trong 
mối liên hệ mật thiết giữa nội dung luật này 
với các Luật khác. Điều này làm ảnh hưởng 
rất lớn đến việc thực thi pháp luật trong 
thực tiễn bởi thiếu tính ổn định, sự trường 
thọ của Bộ luật này trong tương lai. 
Theo quan điểm của mình, chúng tôi 
kiến nghị sửa đổi: Thứ nhất, nên loại bỏ 
Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp 
đồng gia công ra khỏi danh sách được liệt 
kế trong dự thảo 
Thứ hai, cần bổ sung loại hợp đồng 
phổ biến trên thực tế như hợp đồng đại lý, 
hợp đồng ủy thác, hợp đồng môi giới, hợp 
đồng thành lập công ty, v.v... vào nội dung 
điều luật này của dự thảo, để việc áp dụng 
trong thực tiễn linh hoạt hơn. 
Ba là: Điều chỉnh hợp đồng khi 
hoàn cảnh thay đổi 
Tại Điều 443 của Dự thảo lần này đã 
bổ sung quy định về điều chỉnh hợp đồng 
khi hoàn cảnh thay đổi, đây là một điểm 
14 
mới rất quan trọng trong Dự thảo Bộ luật 
dân sự sửa đổi. Nội dung của Điều này 
không trái với các quy định tại mục 6.2 
PICC 2010 sự kiện xẩy ra làm ảnh hưởng 
đến một bên không thể kí kết được mục 
đích của giao kết hợp đồng trong lĩnh vực 
kinh doanh, thương mại Quốc tế. Nhìn 
nhận dưới góc độ kinh doanh thương mại, 
điều này hướng tới việc bảo vệ quyền lợi 
người tiêu dùng, bởi nhu cầu điều chỉnh 
hợp đồng chủ yếu sẽ xuất phát từ nhà sản 
xuất. Thực tế trong những năm gần đây, 
nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động 
sản đã lợi dụng lý do biến động thị trường, 
giá nguyên vật liệu tăng cao làm ảnh 
hưởng lớn đến việc hoàn thành các dự án 
và tất nhiên căn hộ được bán đến người có 
nhu cầu bất hợp lý. Rõ ràng, lúc này các 
tranh chấp xảy ra thường gây nên những 
bất lợi cho người mua, nhất là với những 
người có thu nhập thấp ở nước ta. Doanh 
nghiệp kinh doanh bất động sản trì hoãn 
tiến độ khi chưa giải quyết xong “chiến 
lược” tăng giá của mình, dự án bị đình trệ, 
vấn đề tệ hại nhất đó là vốn của người tiêu 
dùng bị doanh nghiệp chiếm dụng bất hợp 
pháp. Do vậy, quy định tại Dự thảo cho 
phép Tòa án được xử lý hợp đồng khi các 
bên không đạt được thỏa thuận là hàn toàn 
hợp lý nhưng những nguyên tắc khi tiến 
hành chấm dứt hợp đồng hay hủy bỏ hợp 
đồng lại không được bàn đến. Đây là một 
khiếm khuyết rất lớn, cần được xem xét bổ 
sung vào dự thảo lần này, chúng tôi Kiến 
nghị sửa đổi: Quy định tại Khoản 3 Điều 
443 dự thảo cần bổ sung nội dung như sau: 
Tòa án thực hiện việc chấm dứt hoặc điều 
chỉnh hợp đồng theo hướng bảo vệ quyền 
lợi người tiêu dùng. 
Bốn là: Về vấn đề địa điểm giao hàng 
trong hợp đồng mua bán tài sản 
Khi bàn đến vấn đề địa điểm giao 
hàng, xét về nguyên tắc xác định địa điểm 
giao hàng trong trường không có thỏa 
thuận theo quy định trong Dự thảo lại có sự 
mâu thuẫn tương quan với Luật Thương 
mại hiện hành năm 2005. Theo Điều 458 
của Dự thảo thì: “Địa điểm giao tài sản do 
các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa 
thuận thì áp dụng quy định tại khoản 2 
Điều 307 của Bộ luật này”, nội dung này 
cũng được quy định tại Khoản 2 Điều 307 
Dự thảo, như sau: “Trường hợp không có 
thoả thuận thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ 
được xác định như sau: 
- Nơi có bất động sản, nếu đối tượng 
của nghĩa vụ là bất động sản; 
- Nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có 
quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không 
phải là bất động sản”. 
Nếu đem đối chiếu với quy định tại 
Khoản 2 Điều 35 Luật Thương mại (2005) 
thì quy định như vậy là thiếu chính xác và 
không rõ ràng, dẫn tới việc không thống 
nhất trong cách hiểu nội dung của điều 
luật: 
“Trường hợp không có thỏa thuận về 
địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng 
được xác định như sau: 
- Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền 
với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại 
nơi có hàng hóa đó; 
- Trường hợp trong hợp đồng có quy 
định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán 
có nghĩa vụ giao hàng cho người vận 
chuyển đầu tiên; 
- Trường hợp trong hợp đồng không 
có quy định về vận chuyển hàng hóa, nếu 
vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên 
biết được địa điểm kho chứa hàng, địa 
điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo 
hàng hóa thì bên bán phải giao hàng tại 
địa điểm đó; 
- Trong các trường hợp khác, bên bán 
phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh 
của bên bán, nếu không có địa điểm kinh 
doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của 
bên bán được xác định tại thời điểm giao 
15 
kết hợp đồng mua bán”. 
Bởi thế cho nên, chúng tôi xin kiến 
nghị sửa điểm b khoản 2 Điều 307 như sau: 
“Nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có 
nghĩa vụ giao hàng, nếu đối tượng của 
nghĩa vụ không phải là bất động sản”. 
Năm là: Đối với quy định về Trách nhiệm 
do giao hàng không đúng số lượng trong 
hợp đồng mua bán tài sản 
Theo quy định về quyền của bên mua 
trong trường hợp bên bán giao thiếu hàng: 
“Bên mua có quyền: Hủy bỏ hợp đồng nếu 
việc vi phạm làm cho bên mua không đạt 
được mục đích giao kết hợp đồng và yêu 
cầu bồi thường thiệt hại.” tại Điểm c Khoản 
2 Điều 460 Dự thảo là không phù hợp. 
Thứ nhất, việc giao thiếu hàng không 
phải là một lỗi nghiêm trọng, trong thực tế 
bên bán hoàn toàn có khả năng khắc phục 
hợp đồng sau khi bên mua gia hạn thêm 
một khoảng thời gian phù hợp. 
Thứ hai, khái niệm “không đạt được 
mục đích giao kết hợp đồng” rất khó xác 
định trên thực tế. Khái niệm này được quy 
định tại Điều 25 của Công ước Viên 1980 
(CISG) về mua bán hàng hóa quốc tế, tuy 
nhiên, các Thẩm phán, Trọng tài quốc tế 
vẫn dựa vào án lệ để xác định tính chất vi 
phạm cơ bản này. 
Để đảm bảo tính khả thi trong thực 
tiễn thi hành của điều luật này, chúng tôi 
kiến nghị, cần phải bỏ quy định tại điểm c 
khoản 2 Điều 460 và sửa lại thuật ngữ “Vi 
phạm nghiêm trọng” tại Khoản 3 Điều 446 
Dự thảo thành cụm từ thuật ngữ “Vi phạm 
cơ bản” cho phù hợp với thuật ngữ 
“Fundamental” sử dụng trong Công ước 
Viên 1980. 
Sáu là: Liên quan đến vấn đề Thời điểm 
chuyển rủi ro đối với trường hợp tài sản 
đó phải đăng ký quyền sở hữu trong 
hợp đồng mua bán tài sản. 
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 465 
của dự thảo: “Đối với hợp đồng mua bán 
tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó 
phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán 
chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục 
đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời 
điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi 
bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có 
thoả thuận khác”. 
Quy định này theo quan điểm của 
chúng tôi là bất hợp lý, trái với quy định 
trong Luật Thương mại hiện hành (2005). 
Bởi vì, sau khi người bán chuyển giao tài 
sản cho người mua nhưng người bán vẫn 
phải tiếp tục gánh chịu rủi ro cho đến khi 
người mua làm xong thủ tục chuyển quyền 
sở hữu là không công bằng cho bên bán. 
Tức là quy định này vô hình trung tạo cơ 
hội cho bên mua làm khó cho bên bán và 
tranh chấp trong giao dịch mua bán giữa 
hai bên có thể xẩy ra mãnh liệt trong tương 
lai. Ví dụ như trong trường hợp người mua 
biết được việc bên bán đang làm thủ tục 
đăng ký để chuyển giấy tờ sử hữu phải chịu 
rủi ro cho nên họ có thể thay đổi ý định 
mua hoặc cố ý gây ra một lỗi nào đó từ 
khối tài sản đã giao thì bên bán vẫn phải 
chịu trách nhiệm về hàng hóa đó như vậy 
việc hoàn tất thủ tục mua và bán khó khả 
thi và tất nhiên, người bán gặp phải gánh 
chịu rủi ro quá lớn hay người mua?. 
Kiến nghị sửa đổi: Sửa lại nội dung 
quy định tại Khoản 2 Điều 465 Dự thảo 
theo hướng bảo vệ người bán và ngăn chặn 
cơ hội thay đổi ý định mua hoặc tạo cớ rủi 
ro đối với tài sản của bên mua nhằm giảm 
thiểu tranh chấp thực hiện hợp đồng mua 
và bán trong thực tiễn thi hành. 
Bảy là: Vấn đề Chi phí liên quan đến 
việc chuyển quyền sở hữu trong hợp đồng 
mua bán tài sản. 
Tại Khoản 4 Điều 446 của dự thảo có 
quy định về chi phí liên quan đến việc 
chuyển quyền sở hữu, đây là một trong 
những điểm có sự đổi mới để phù hợp với 
điều kiện kinh tế-xã hội của quốc gia. Tuy 
16 
nhiên, nghiên cứu sâu ở quyền và nghĩa vụ 
các bên trong hợp đồng thì thật sự đây là 
một quy định rất bất hợp lý. Nghĩa là nó 
không thuận khi xác định nghĩa vụ của bên 
bán phải thanh toán các chi phí liên quan 
đến việc chuyển quyền sở hữu. Nhất là 
mâu thuẫn khá nhiều trong quy định pháp 
luật ở các lĩnh vực chuyên ngành, như luật 
thương mại, luật kinh doanh bất động sản, 
kinh doanh chứng khoán... khi mà bên bán 
chịu trách nhiệm nộp các khoản lệ phí 
trước bạ. 
Do đó, chúng tôi kiến nghị nên sửa 
khoản 4 Điều 446 của dự thảo theo hướng 
“bên mua phải chịu chi phí liên quan đến 
chuyển quyền sở hữu” để không trái với 
thực tiễn diễn ra các giao dịch dân sự trong 
nền kinh tế thị trường hiện nay. 
 Tám là: Vấn đề chế tài hợp đồng 
Phải thừa nhận rằng, trong các hình 
thức chế tài hợp đồng, bồi thường thiệt hại 
và phạt vi phạm là những hình thức được 
diễn ra khá phổ biến. Mặc dù vậy, quan 
niệm về tính độc lập của hai hình thức chế 
tài này trong Luật Thương mại (2005) và 
dự thảo Bộ luật dân sự không thống nhất. 
Luật Thương mại hiện hành (2005) xác 
định đây là hai chế tài hoàn toàn độc lập, 
nó không phụ thuộc lẫn nhau, tức là khi có 
đủ căn cứ phát sinh vi phạm thì khi đó sẽ 
áp dụng chế tài. Trong khi đó Điều 411 của 
dự thảo quy định hai chế tài có liên quan 
mật thiết với nhau, như sau: 
“Các bên có thể thỏa thuận về việc 
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp phạt vi 
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại 
hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa 
phải bồi thường thiệt hại; nếu không có 
thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt 
hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. 
Trường hợp các bên không có thỏa 
thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi 
phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. 
Như vậy, chúng ta có thể hiểu một 
cách chung nhất ở nội dung của quy định 
này là: Nếu trong trường hợp có thiệt hại 
thực tế xảy ra nhưng trong hợp đồng chỉ 
thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm 
chỉ được áp dụng chế tài phạt vi phạm mà 
không được áp dụng chế tài bồi thường 
thiệt hại. Bên bị vi phạm muốn áp dụng cả 
hai chế tài thì phải quy định cả hai chế tài 
này vào trong hợp đồng. 
Theo quan điểm của chúng tôi, quy 
định này của dự thảo thiếu tính khoa học 
và nó xa rời với thực tiễn áp dụng, đồng 
thời nó không phù hợp với bản chất của 
quan hệ hợp đồng nhất là trong nền kinh tế 
thị trường của các nước có nền kinh tế thị 
trường việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng 
cần thiết phải linh hoạt. Có thể là căn cứ 
các nội dung đã cam kết trong hợp đồng 
hoặc theo quy định của pháp luật. Ban soạn 
thảo nên bỏ quy định: “Trường hợp các 
bên không có thỏa thuận về bồi thường 
thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải 
chịu phạt vi phạm”. 
Chín là: Hợp đồng mượn tài sản 
Nội dung về hợp đồng mượn tài sản 
tại Điều 517 của dự thảo được quy định 
như sau: “Hợp đồng mượn tài sản là hợp 
đồng, theo đó bên cho mượn giao tài sản 
cho bên mượn để sử dụng trong một thời 
hạn mà không phải trả tiền”. Đây là một 
khái niệm rất bất hợp lý, phiến diện không 
khoa học, chưa thực sự là một quy tắc xử 
sự chung cho quan hệ này trong xã hội hiện 
đại của chúng ta, chắc chắn nó là một rào 
cản và không khả thi trong thực tiễn thi 
hành. Quy định này chỉ nêu nghĩa vụ của 
bên cho mượn tài sản phải giao tài sản cho 
bên mượn và bên mượn không có nghĩa vụ 
trả tiền. Theo cách giải thích như trên, 
chúng ta có thể hiểu trong giao dịch dân sự 
này người có tài sản cho người khác mượn 
không được phép nhận tiền và người mượn 
tài sản không được trả bằng tiền mà thôi. 
Hay nói cách khác, các bên trong giao dịch 
17 
mượn tài sản có thể trả và nhận bằng các 
loại tài sản khác ngoài tiền vẫn không bị 
coi là vi phạm quy định về Hợp đồng giao 
dịch này. 
Về đối tượng của hợp đồng mượn tài 
sản, quy định tại Điều 518 của dự thảo: 
“Tất cả những tài sản không tiêu hao đều 
có thể là đối tượng của hợp đồng mượn tài 
sản”. Tuy nhiên, trong nội dung dự thảo 
không có khái niệm giải thích cụ thể như 
thế nào là “những tài sản không tiêu hao” 
trong chương mục này cũng như trong 
phần giải thích từ ngữ của Bộ luật dân sự. 
Nếu lập luận rằng “Vật không tiêu hao” đã 
có khái niệm quy định tài Khoản 2 Điều 
129 của dự thảo để có thể thay thế cho khái 
niệm tài sản không tiêu hao thì đây là một 
quan niệm thiếu chính xác, không khoa 
học, bởi lẽ “tài sản tại Điều 122 của dự 
thảo có thể là vật nhưng vật chưa hẳn sẽ là 
tài sản”. Rõ ràng, sự bất cập trong cách 
dùng câu từ lúc thì “tài sản không tiêu hao” 
lúc thì “Vật không tiêu hao” trong quy định 
này dẫn đến việc thiếu tính thống nhất 
chung trong cách hiểu, chắc chắn sẽ ảnh 
hưởng không nhỏ trong đời sống xã hội khi 
mà Bộ Luật này được Quốc hội thông qua. 
Chúng tôi kiến nghị, cần bổ sung quy 
định rõ cho bên mượn tài sản không có 
nghĩa vụ phải trả bất cứ một khoản tiền 
hoặc tài sản nào khác. Đồng thời phải giải 
thích rõ khái niệm “tài sản không tiêu hao” 
để quy định này hoàn thiện hơn, thống nhất 
chung từ trung ương đến địa phương trong 
quá trình thực thi. 
Tóm lại: Dự thảo Bộ luật dân sự sửa 
đổi lần này đã có những quy định mang tính 
chất cơ bản, học thuyết phù hợp với sự vận 
động của các văn bản pháp luật hiện hành 
khác trong đó có các luật chuyên ngành có 
liên quan đến “Hợp đồng”. Những điểm 
mới này có thể khẳng định, Bộ Luật dân sự 
đã đi đúng hướng nhằm xác lập lại vị trí 
trong hệ thống pháp luật tư, nội dung của 
Dự thảo quy định hoàn toàn mang tính kế 
thừa trong khi thực tế đã có những đổi mới 
một cách tự nhiên quan trọng trong đời sống 
dân sự. Ban soạn thảo đã có những đột phá 
về tư duy nhằm đảm bảo tính logic trong Bộ 
luật nói riêng và hệ thống pháp luật của Việt 
Nam nói chung. Tuy nhiên, để đổi mới các 
nội dung trong dự thảo, các nhà làm luật cần 
phải triệt để, phải vượt qua những rào cản 
về thói quen, tập quán hay tâm lý ngại thay 
đổi của mọi giai tầng trong xã hội. Với 
nhiệm vụ lớn lao của người công dân đối 
với việc góp ý kiến sửa đổi bổ sung Bộ luật 
dân sự lần này, chúng ta cần phải tập trung 
cao độ để nghiên cứu, phân tích và cất nhắc 
việc kiến nghị các quy định liên quan đến 
chế định “Hợp đồng” nhằm bảo đảm yếu tố 
ổn định bền vững trong tương lai của Dự 
thảo sau khi được Quốc hội thông qua và 
triển khai thực hiện các quy định của chế 
định này trong đời sống xã hội nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ luật Dân sự năm (2005). 
2. Dự thảo sửa đổi bổ sung Bộ Luật Dân sự 
(Tháng 3/2015 do Bộ Tư pháp cung cấp). 
3. Luật Thương mại (2005). 
4. Công ước Viên (1980). 
5. Luật trọng tài thương mại (2010). 
6. Bộ luật dân sự (2005). 
7. Trần Văn Nam (Chủ biên) (2013), Giáo trình 
Luật Thương mại Quốc tế, Nxb Đại học Kinh 
tế Quốc dân. 
8. Luật Kinh doanh nhà (2014). 
Ngày nhận bài: 05/5/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_kien_nghi_sua_doi_bo_sung_che_dinh_hop_dong_trong_du.pdf