Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành

Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Chuyển giao công

nghệ, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Qua 10 năm triển khai thực hiện, Luật đã góp phần thúc

đẩy hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ trong nước. Tuy nhiên, trước thay đổi nhanh chóng

của thực tiễn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, Luật Chuyển giao công nghệ sau một thập kỷ đi

vào cuộc sống đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập.

Dự án Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì soạn thảo đã được

trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai và dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV

(Tháng 6/2017). Đây là cơ hội tốt để khắc phục những điểm còn tồn tại của Luật, đặc biệt đối với vấn đề

phát triển thị trường khoa học và công nghệ, quản lý hợp đồng chuyển giao công nghệ, quản lý công

nghệ trong các dự án đầu tư và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

pdf 8 trang kimcuc 5640
Bạn đang xem tài liệu "Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 
70 
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện 
Luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành 
Some petitions for completing The Law on Technology Transfer through practical 
implemenation 
ThS. Nguyễn Ngọc Vinh 
Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ 
Nguyen Ngoc Vinh, M.A. 
Department of Legislation, Ministry of Science and Technology 
Tóm tắt 
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Chuyển giao công 
nghệ, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Qua 10 năm triển khai thực hiện, Luật đã góp phần thúc 
đẩy hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ trong nước. Tuy nhiên, trước thay đổi nhanh chóng 
của thực tiễn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, Luật Chuyển giao công nghệ sau một thập kỷ đi 
vào cuộc sống đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập. 
Dự án Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì soạn thảo đã được 
trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai và dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV 
(Tháng 6/2017). Đây là cơ hội tốt để khắc phục những điểm còn tồn tại của Luật, đặc biệt đối với vấn đề 
phát triển thị trường khoa học và công nghệ, quản lý hợp đồng chuyển giao công nghệ, quản lý công 
nghệ trong các dự án đầu tư và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. 
Từ khóa: chuyển giao công nghệ, thị trường khoa học và công nghệ, thương mại hóa, khởi nghiệp công 
nghệ, tổ chức trung gian. 
Abstract 
On November 29
th
, 2006, at the 10
th
 session, the 11
th
 National Assembly passed the Law on Technology 
Transfer, effective from July 1
st
 2007. After 10 years of implementation, the Law has contributed to 
promoting the renewal and technology transfer in the country. However, before the rapid change of the 
country's development and international integration, the Law has exposed some shortcomings. 
The Draft Law on Technology Transfer (amended), drafted by the Ministry of Science and Technology, 
was submitted to the 2
nd
 session of National Assembly for getting feedbacks and is expected to be 
adopted at the 3
rd
 session of the 14
th
 National Assembly (June 2017). This is a good opportunity to 
overcome the shortcomings of the Law, especially on science and technology market development, 
management of technology transfer contracts, technology management in investment projects and 
commercialization of research results./. 
Keywords: technology transfer, science and technology market, commercialization, technology start-up, 
intermediary organization. 
NGUYỄN NGỌC VINH 
71 
Dự án Luật Chuyển giao công nghệ 
(sửa đổi) do Bộ Khoa học và Công nghệ 
chủ trì soạn thảo đã được trình Quốc hội 
cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai và dự kiến 
thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 
XIV (Tháng 6/2017). 
Qua 10 năm triển khai thực hiện, Luật 
đã góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới và 
chuyển giao công nghệ trong nước, ứng 
dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ 
(KH&CN) trong sản xuất và đời sống, từng 
bước giúp cải thiện năng lực công nghệ của 
doanh nghiệp. 
Tuy nhiên, trước thay đổi nhanh chóng 
của thực tiễn phát triển đất nước và hội 
nhập quốc tế, Luật Chuyển giao công nghệ 
sau một thập kỷ đi vào cuộc sống đã bộc lộ 
một số vướng mắc, bất cập, một số nội 
dung không còn cập nhật mà trở nên lạc 
hậu so với xu thế cải cách, đổi mới trong 
phát triển kinh tế, không đáp ứng được nhu 
cầu hình thành và phát triển thị trường 
KH&CN. 
Bên cạnh đó, thực tiễn phát triển kinh 
tế - xã hội trong nước cũng đặt ra yêu cầu 
mới trong công tác quản lý công nghệ, 
thẩm định công nghệ các dự án đầu tư, 
thách thức đối với cơ quan quản lý nhà 
nước trong việc bảo đảm môi trường kinh 
doanh thuận lợi, thông thoáng, thu hút đầu 
tư nước ngoài để gia tăng nguồn lực phát 
triển đất nước, đồng thời phải kiểm soát 
được thực trạng công nghệ, đặc biệt là 
công nghệ trong các dự án đầu tư để gìn 
giữ môi trường và phát triển bền vững. 
1. Phát triển thị trường KH&CN 
Tại Việt Nam, thị trường KH&CN 
chưa có cơ chế đủ mạnh để thúc đẩy gắn 
kết hữu cơ hoạt động nghiên cứu và phát 
triển của các viện, các trường đại học với 
hoạt động đổi mới công nghệ tạo ra những 
sản phẩm mới, công nghệ cao, có tính ứng 
dụng trong thực tiễn phục vụ nhu cầu sản 
xuất, kinh doanh. 
Luật Chuyển giao công nghệ được ban 
hành năm 2006 vào đúng thời điểm đánh 
dấu bước tiến quan trọng trong hội nhập 
khi Việt Nam chính thức trở thành thành 
viên của WTO. Tuy nhiên sau 10 năm triển 
khai thực hiện, Luật này đã bộc lộ nhiều 
hạn chế. Một số vấn đề mới phát sinh trong 
quá trình triển khai thực hiện Luật Chuyển 
giao công nghệ liên quan đến thị trường 
KH&CN chưa được giải quyết, chẳng hạn 
như việc thành lập các sàn giao dịch công 
nghệ quốc gia, sàn giao ịch công nghệ 
trực tuyến liên thông toàn quốc, cổng thông 
tin quốc gia khởi nghiệp công nghệ, khu 
làm việc chung cho khởi nghiệp công nghệ, 
hỗ trợ hoạt động cho tổ chức, cá nhân khởi 
nghiệp công nghệ,... 
Nhằm tạo lập môi trường pháp lý cho 
hoạt động của thị trường KH&CN, Bộ 
KH&CN đã trình Thủ tướng Chính phủ 
phê uyệt Đề án Phát triển thị trường công 
nghệ tại Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg 
ngày 30/8/2005. Có thể nói, Quyết định số 
214/2005/QĐ-TTg đã tạo ra một cơ chế 
khá thông thoáng cho sự phát triển các yếu 
tố và hạ tầng của thị trường công nghệ ở 
Việt Nam trong nhiều năm qua và thời gian 
sắp tới trong các khâu như ươm tạo công 
nghệ, nhập khẩu giải mã, làm chủ công 
nghệ và chuyển giao công nghệ. Các tổ 
chức trung gian hoạt động trong lĩnh vực 
 ịch vụ KH&CN gồm tư vấn, môi giới và 
xúc tiến công nghệ, hỗ trợ thiết kế và chế 
tạo thử nghiệm, chuyển giao, đánh giá, 
thẩm định và giám định công nghệ, tư vấn, 
giám định sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn kỹ 
thuật và đảm bảo chất lượng đã được quan 
tâm xây ựng và phát triển,... 
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, 
hoạt động các tổ chức trung gian còn chưa 
M T SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT CHUYỂN GIAO CÔNG NGH QUA THỰC TIỄN 
72 
hiệu quả o thiếu hạ tầng kỹ thuật, nhân 
lực, thông tin, cơ sở ữ liệu công nghệ, ữ 
liệu về chuyên gia công nghệ, nhà đầu tư 
tiềm năng,... Trong cơ cấu của các tổ chức 
trung gian, các sàn giao ịch công nghệ 
quốc gia được xem là trụ cột và cũng là 
một tổ chức trung gian rất quan trọng của 
thị trường, vì đó là nơi cung cấp nguồn 
cung, kết nối nguồn cầu và các tổ chức 
trung gian khác để hình thành mạng lưới 
các tổ chức trung gian, cung cấp các ịch 
vụ trung gian chuyên nghiệp với quy mô 
quốc gia và quốc tế. Mặc ù việc đầu tư 
xây ựng các sàn giao ịch công nghệ quốc 
gia đã được nêu trong Quyết định số 
2075/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ 
tướng Chính phủ phê uyệt Chương trình 
phát triển thị trường KH&CN đến năm 
2020, nhưng hạn chế về phạm vi hỗ trợ của 
Chương trình là một trong những nguyên 
nhân đã làm chậm lại việc thiết lập các sàn 
giao ịch quốc gia và sự hình thành các 
động lực phát triển của thị trường. 
Cùng với sàn giao dịch công nghệ 
quốc gia, sàn giao ịch công nghệ trực 
tuyến liên thông toàn quốc, cổng thông tin 
quốc gia hệ sinh thái khởi nghiệp công 
nghệ, khu làm việc chung cho khởi nghiệp 
công nghệ cũng có ý nghĩa quan trọng 
trong việc thúc đẩy phát triển thị trường 
KH&CN, đó là việc tạo ra các đầu mối và 
không gian thông tin, nguồn lực để có thể 
hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân 
khởi nghiệp công nghệ một cách hiệu quả 
nhất, đồng thời tạo ra môi trường trực 
tuyến và thực tế để thúc đẩy giao dịch công 
nghệ trực tuyến quy mô toàn quốc, để các 
thành phần trong hệ thống khởi nghiệp 
công nghệ có thể liên kết, hỗ trợ lẫn nhau 
và qua đó thúc đẩy phát triển thị trường 
KH&CN. Tuy nhiên, giống như các sàn 
giao dịch công nghệ quốc gia, việc thiết lập 
và phát triển các sàn giao dịch công nghệ 
trực tuyến cũng cần có sự hỗ trợ của Nhà 
nước ngay từ giai đoạn đầu. Điều đó cho 
thấy sự cần thiết phải sửa đổi Luật Chuyển 
giao công nghệ về cơ chế hỗ trợ các tổ 
chức trung gian của thị trường KH&CN, để 
từ đây tăng cường hỗ trợ đầu tư từ nguồn 
ngân sách nhà nước dành cho KH&CN và 
huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để 
xây dựng, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và 
thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực, 
hiệu quả hoạt động cho các tổ chức này. 
Cùng với đó, Luật Chuyển giao công nghệ 
cũng cần có những quy định cụ thể về 
những loại hình tổ chức trung gian của thị 
trường KH&CN nhằm xác định đúng đối 
tượng được hưởng ưu đãi từ chính sách của 
Nhà nước. 
Trong thị trường KH&CN, doanh 
nghiệp khởi nghiệp công nghệ là những 
doanh nghiệp mới thành lập dựa trên việc 
áp dụng các kết quả nghiên cứu, các công 
nghệ để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ 
mới, có giá trị gia tăng cao trên thị trường. 
Nếu thành công, các doanh nghiệp này sẽ 
trở thành các doanh nghiệp KH&CN mạnh, 
mang lại giá trị kinh tế cao với nguồn lực 
lớn trong việc tạo ra nhiều công ăn việc 
làm chất lượng cao cho xã hội. Ở các nước 
trên thế giới, các doanh nghiệp khởi nghiệp 
thành công có thể kể đến Facebook, 
Google, Apple với giá trị doanh nghiệp lên 
đến hàng chục tỷ USD. So với các giao 
 ịch công nghệ truyền thống với giá trị mỗi 
giao ịch khoảng một vài tỷ đến một vài 
chục tỷ đồng (khoảng một vài trăm nghìn 
USD) thì giao ịch cổ phần tại oanh 
nghiệp khởi nghiệp công nghệ có thể lên 
đến hàng chục, hàng trăm triệu và là 
hình thức giao ịch công nghệ mới, hiệu 
NGUYỄN NGỌC VINH 
73 
quả trên thị trường công nghệ thế giới. 
Tuy nhiên, trước khi đến với những 
thành công, oanh nghiệp khởi nghiệp 
công nghệ cũng gặp khá nhiều rủi ro, từ rủi 
ro về công nghệ, thị trường đến rủi ro về 
vốn, o sản phẩm mà các oanh nghiệp này 
đưa đến thị trường là các sản phẩm hay 
 ịch vụ mới, nhu cầu nguồn vốn lớn vì 
phát triển nhanh, chiếm lĩnh thị trường 
mới, nếu đang phát triển giữa chừng mà 
thiếu vốn, oanh nghiệp đó sẽ không thể 
tồn tại được. Vậy, để phát triển được loại 
hình oanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ, 
rất cần có những hỗ trợ ban đầu cho các 
 oanh nghiệp này, nói cách khác, cần một 
môi trường, một hệ thống các thành phần 
của oanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ 
ổn định. 
Ở Việt Nam cũng có những doanh 
nghiệp khởi nghiệp công nghệ thành công 
như VinaGames, Vatgia với giá trị doanh 
nghiệp lên đến hàng triệu USD. Tuy nhiên, 
số doanh nghiệp này không nhiều và hơn 
nữa họ còn gặp không ít khó khăn về môi 
trường pháp lý, về hệ thống thông tin cùng 
với sự thiếu vắng các định chế trung gian 
hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp công 
nghệ phát triển, như các cơ sở ươm tạo 
doanh nghiệp KH&CN, khu không gian 
làm việc chung, tổ chức thúc đẩy kinh 
doanh, các chuyên gia, huấn luyện viên 
khởi nghiệp. Đặc biệt, trong hệ thống pháp 
lý chưa có các định nghĩa và các ưu đãi 
dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp công 
nghệ. Vốn đầu tư mạo hiểm, một trong 
những yếu tố quan trọng nhất để tạo nên 
thành công của các doanh nghiệp khởi 
nghiệp lại đang khan hiếm. Hiện tại mới 
chỉ có 3-4 quỹ đầu tư tư nhân của nước 
ngoài có hoạt động đầu tư cho khởi nghiệp 
công nghệ ở Việt Nam nhưng hầu hết ưới 
dạng văn phòng đại diện, chưa thực sự có 
quỹ đầu tư khởi nghiệp được thành lập ở 
Việt Nam. Các nhà đầu tư cũng mới chỉ 
tham gia vào các lĩnh vực quay vòng vốn 
nhanh như thương mại điện tử, games và 
chưa thực sự quan tâm đến các lĩnh vực 
công nghệ quan trọng khác như công nghệ 
sinh học, vật liệu mới. Trong các văn bản 
pháp luật, chính sách, các hình thức đầu tư 
mạo hiểm từ xã hội như quỹ đầu tư mạo 
hiểm, nhà đầu tư cá nhân (đầu tư thiên 
thần), hình thức gọi vốn cộng đồng, tập 
đoàn, công ty đầu tư khởi nghiệp vẫn chưa 
được công nhận và khuyến khích phát triển. 
Hoạt động khuyến khích, hỗ trợ của 
Nhà nước như quy định tại Điều 34 của 
Luật Chuyển giao công nghệ chưa giải 
quyết được những khó khăn, vướng mắc 
của tổ chức trung gian, cũng như chưa bao 
hàm được loại hình trung gian mới là các 
tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ, chưa 
hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp 
công nghệ. Để tạo môi trường pháp lý 
thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp 
công nghệ, cần nghiên cứu sửa đổi Luật 
Chuyển giao công nghệ theo hướng: 
Thứ nhất, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn 
thiện, thử nghiệm, thương mại hóa công 
nghệ; ành ưu đãi cho tổ chức, cá nhân 
khởi nghiệp công nghệ tương tự như ành 
cho doanh nghiệp KH&CN; cho phép các 
quỹ phát triển KH&CN, quỹ đổi mới công 
nghệ, tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng 
quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền tài 
sản phát sinh từ kết quả nghiên cứu khoa 
học và phát triển công nghệ, đối tượng sở 
hữu trí tuệ làm tài sản bảo đảm trong giao 
dịch vay vốn đầu tư cho các ự án 
KH&CN, khởi nghiệp công nghệ, phát 
triển sản xuất kinh doanh. 
Thứ hai, Nhà nước khuyến khích tổ 
chức, cá nhân đầu tư cho khởi nghiệp công 
nghệ thông qua chính sách ưu đãi về thuế 
M T SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT CHUYỂN GIAO CÔNG NGH QUA THỰC TIỄN 
74 
thu nhập, hỗ trợ vốn ban đầu của quỹ đầu 
tư khởi nghiệp công nghệ quốc gia và huy 
động vốn đầu tư tiếp theo từ doanh nghiệp, 
tổ chức tài chính, tín dụng và xã hội cho 
khởi nghiệp công nghệ. 
2. Quản lý hợp đồng chuyển giao 
công nghệ 
Hoạt động chuyển giao công nghệ 
được điều chỉnh lần đầu tiên tại Pháp lệnh 
về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào 
Việt Nam năm 1988. Việc quản lý hợp 
đồng chuyển giao công nghệ được Pháp 
lệnh quy định khá chặt chẽ tại Điều 13: 
“Hợp đồng chuyển giao công nghệ chỉ có 
hiệu lực sau khi được chuẩn y.” 
Năm 2006, Luật Chuyển giao công 
nghệ được ban hành thay thế Pháp lệnh về 
chuyển giao công nghệ nước ngoài vào 
Việt Nam với tư tưởng mở cửa để phù hợp 
với xu thế hội nhập quốc tế của đất nước. 
Việc quản lý hợp đồng chuyển giao công 
nghệ được điều chỉnh thông thoáng hơn 
theo hướng tự nguyện của các bên giao kết, 
như Khoản 1 Điều 25 Luật Chuyển giao 
công nghệ năm 2006 có ghi: “Các bên 
tham gia giao kết hợp đồng chuyển giao 
công nghệ có quyền đăng ký hợp đồng 
chuyển giao công nghệ tại cơ quan quản lý 
nhà nước về khoa học và công nghệ có 
thẩm quyền làm cơ sở để được hưởng các 
ưu đãi theo quy định”. 
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai, thi 
hành thời gian qua cũng làm bộc lộ một số 
hạn chế của Luật Chuyển giao công nghệ 
năm 2006. Với cách thức quản lý như hiện 
nay, cơ quan quản lý nhà nước vẫn không 
nắm được thực trạng, đối tượng công nghệ 
được chuyển giao, giá trị công nghệ nhập 
khẩu, chuyển giao. Điều này làm ảnh 
hưởng đến việc đánh giá thực trạng công 
nghệ, chuyển giao công nghệ trong các 
ngành, các lĩnh vực cũng như cung cấp 
những số liệu phục vụ hoạch định chính 
sách. Việc chuyển giao công nghệ không 
bắt buộc phải đăng ký với Nhà nước, khiến 
cho cơ quan chức năng của nhà nước trở 
nên thiếu cơ sở thực tiễn để đề xuất chính 
sách phù hợp nhằm tạo môi trường bình 
đẳng trong hoạt động chuyển giao công 
nghệ, góp phần tập trung thu hút công nghệ 
tiên tiến chuyển giao vào Việt Nam, ngăn 
chặn hành vi chuyển lợi nhuận qua hoạt 
động chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, 
mặc dù với quy định phương thức đăng ký 
hợp đồng tự nguyện, tạo mọi điều kiện 
trong hoạt động chuyển giao công nghệ, 
nhưng kết quả chuyển giao công nghệ thời 
gian qua còn hạn chế nếu không muốn nói 
là không đạt được các mục tiêu đề ra. 
Trong số các hợp đồng chuyển giao 
công nghệ thuộc các dự án F I được cấp 
đăng ký, phần lớn là hợp đồng sửa đổi, bổ 
sung của các Công ty 100% vốn nước 
ngoài. Những hợp đồng chuyển giao công 
nghệ này không phải là những hợp đồng 
mới, do vậy số công nghệ chuyển giao 
trong giai đoạn này thực chất không nhiều. 
Nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu là nâng 
mức phí chuyển giao công nghệ lên và gia 
hạn hợp đồng chuyển giao công nghệ. Tuy 
nhiên, số liệu này cũng chỉ dựa trên những 
hợp đồng chuyển giao công nghệ đã đăng 
ký với cơ quan quản lý nhà nước, còn thực 
tế việc chuyển giao giữa các tổ chức, cá 
nhân như thế nào, cơ quan quản lý không 
thể nắm được chính xác do không có số 
liệu báo cáo, thống kê đầy đủ. Do vậy, chủ 
trương quản lý thông thoáng để thu hút 
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào 
Việt Nam cũng cần được soát xét lại. 
Luật Chuyển giao công nghệ 2006 cũng 
khuyến khích việc doanh nghiệp đăng ký 
NGUYỄN NGỌC VINH 
75 
hợp đồng chuyển giao công nghệ để được 
hưởng ưu đãi, tuy nhiên, chính sách ưu đãi 
này không có trong thực tiễn do chưa được 
quy định cụ thể. Vì vậy, các doanh nghiệp 
cũng không chủ động để tiến hành đăng ký 
hợp đồng chuyển giao công nghệ. 
Cũng chính từ cơ chế quá mở trong 
quản lý hợp đồng chuyển giao công nghệ 
thời gian qua, đã xuất hiện hiện tượng 
chuyển giá qua chuyển giao công nghệ. 
Điều này cho thấy đã có những lỗ hổng 
trong chính sách quản lý đối với hoạt động 
chuyển giao công nghệ. 
Từ những lý o nêu trên, cần phải 
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về 
nghĩa vụ đăng ký hợp đồng chuyển giao 
công nghệ để tạo môi trường bình đẳng 
trong hoạt động chuyển giao công nghệ, 
góp phần tập trung thu hút công nghệ tiên 
tiến chuyển giao vào Việt Nam, đồng thời 
giúp cơ quan quản lý nhà nước nắm được 
thực trạng chuyển giao công nghệ của từng 
luồng (chuyển giao công nghệ trong nước, 
từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt 
Nam ra nước ngoài). Trên cơ sở đó giúp 
cung cấp những luận cứ khoa học và thực 
tiễn để đưa ra các quy định, chính sách phù 
hợp về chuyển giao công nghệ tại Việt 
Nam, đặc biệt là chuyển giao công nghệ từ 
nước ngoài để bảo đảm công nghệ nhập 
khẩu đúng định hướng, tránh nhập khẩu 
công nghệ lạc hậu, gây tác động tiêu cực 
đến môi trường và bên cạnh đó, làm giảm 
đi sức ép cạnh tranh của oanh nghiệp Việt 
Nam trong giai đoạn hội nhập sâu và rộng 
như hiện nay. 
Việc sửa đổi quy định về quản lý hợp 
đồng chuyển giao công nghệ sẽ góp phần 
hình thành nên hệ thống cơ sở ữ liệu 
thông tin về công nghệ, kết nối với cổng 
thông tin quốc gia để chia sẻ thông tin. Qua 
đó có cơ sở trong việc đánh giá thực trạng 
hoạt động chuyển giao công nghệ trong 
từng giai đoạn, cung cấp luận cứ để điều 
chỉnh chính sách nhập khẩu, chuyển giao 
công nghệ phù hợp với thực tiễn. 
3. Quản lý công nghệ trong các dự án 
đầu tư 
Theo thực tế quản lý công nghệ và 
chuyển giao công nghệ hiện nay, cơ quan 
quản lý nhà nước về KH&CN chỉ quản lý 
phần ngọn vì khi chủ đầu tư hoặc đối tác 
nước ngoài liên doanh hoặc đầu tư 100% 
vốn tại Việt Nam nộp hồ sơ đề nghị cấp 
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì phần 
công nghệ, thiết bị, máy móc của dự án 
thường bị xem nhẹ, và các cơ quan quản lý 
nhà nước về KH&CN rất ít khi được hỏi ý 
kiến. Chính vì vậy, cơ quan quản lý nhà 
nước về KH&CN không nắm được luồng 
công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam 
ngay từ khâu đầu vào, trừ những dự án đầu 
tư có điều kiện và những dự án đầu tư o 
Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư, 
còn lại chỉ đến khi dự án được cấp Giấy 
chứng nhận đăng ký đầu tư, các bên lập 
hợp đồng chuyển giao công nghệ để đăng 
ký thì cơ quan quản lý nhà nước về 
KH&CN mới biết và đến thời điểm này thì 
dù là công nghệ hiện đại hay lạc hậu thì 
nhà đầu tư cũng đã được cấp Giấy chứng 
nhận đầu tư rồi. 
Để góp phần hạn chế việc nhập khẩu, 
sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, Luật 
KH&CN (Khoản 2 Điều 46) đã quy định: 
“Dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh 
tế - xã hội phải được thẩm định về cơ sở 
khoa học, trình độ công nghệ đáp ứng yêu 
cầu theo quy định của pháp luật trước khi 
phê duyệt”. Như vậy, theo Luật KH&CN, 
mọi dự án đầu tư đều phải được thẩm định 
về cơ sở KH&CN. Tuy nhiên Luật Đầu tư 
ban hành sau Luật KH&CN chỉ quy định 
việc thẩm định được thực hiện đối với dự án 
M T SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT CHUYỂN GIAO CÔNG NGH QUA THỰC TIỄN 
76 
đầu tư có sử dụng công nghệ thuộc danh 
mục hạn chế chuyển giao. Theo nguyên tắc 
quy định tại Khoản 3 Điều 156 Luật Ban 
hành văn bản quy phạm pháp luật: “Trong 
trường hợp các văn bản quy phạm pháp 
luật do cùng một cơ quan ban hành có quy 
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp 
dụng quy định của văn bản quy phạm pháp 
luật ban hành sau”. Trong trường hợp này, 
Luật Đầu tư được ưu tiên áp ụng, tuy 
nhiên lại không quy định chặt chẽ như Luật 
KH&CN dẫn đến việc kiểm soát công nghệ 
trong các dự án đầu tư gặp khó khăn. Vì 
vậy, để góp phần hạn chế việc nhập khẩu, 
sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, cần 
nghiên cứu để quy định nội dung về bắt 
buộc thẩm định công nghệ đối với các dự án 
đầu tư, đặc biệt đối với các dự án đầu tư sử 
dụng công nghệ thuộc danh mục hạn chế 
chuyển giao và các dự án đầu tư có nguy cơ 
tác động xấu đến môi trường. 
Quy định về thời hạn có ý kiến về 
công nghệ theo quy định của Luật Đầu tư 
cũng chưa thật sự hợp lý (15 ngày kể ngày 
nhận được hồ sơ lấy ý kiến). Trên thực tế, 
đối với những dự án có nội dung công nghệ 
phức tạp đòi hỏi phải lấy ý kiến chuyên gia 
nước ngoài hoặc tổ chức hội đồng thẩm 
định thì thời hạn 15 ngày để có ý kiến về 
công nghệ dự án đầu tư là không khả thi. 
4. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu 
Quy định hiện hành về việc chuyển 
giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn 
mang tính nguyên tắc, chưa thực sự đủ 
mạnh và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn 
phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh thương 
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và 
phát triển công nghệ sử dụng ngân sách 
nhà nước, o đó phần nào hạn chế việc đa 
dạng hóa nguồn cung công nghệ, phát triển 
nguồn cầu công nghệ cho thị trường 
KH&CN. 
Theo quy định pháp luật hiện hành, tổ 
chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN 
có sử dụng ngân sách nhà nước được ưu 
tiên đứng tên chủ sở hữu kết quả thực hiện 
nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, thực tế nhiều tổ 
chức chủ trì sau khi được nghiệm thu kết 
quả, vì nhiều lý do đã không tiến hành các 
biện pháp cần thiết để thương mại hóa kết 
quả đó. Quy định về chuyển giao kết quả 
nghiên cứu khoa học và phát triển công 
nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước 
tại Điều 40 Luật Chuyển giao công nghệ 
chỉ mang tính nguyên tắc, vì vậy thực tế thi 
hành bộc lộ nhiều hạn chế. Đây cũng là 
một phần nguyên nhân nhiều kết quả 
nghiên cứu khoa học và phát triển công 
nghệ sử dụng ngân sách nhà nước ở trong 
tình trạng không được khai thác, trong khi 
nhiều doanh nghiệp mong muốn nhận 
chuyển giao để đưa vào ứng dụng, sản 
xuất, thành lập doanh nghiệp KH&CN,... 
Cần nghiên cứu để đưa ra quy định 
buộc tổ chức chủ trì trong thời hạn nhất 
định nếu không báo cáo việc ứng ụng 
hoặc không triển khai thương mại hóa kết 
quả nghiên cứu, Nhà nước sẽ giao quyền 
sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu 
cho tổ chức khác để thương mại hóa. Điều 
này cũng ành ưu tiên giao quyền sở hữu, 
quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa 
học và phát triển công nghệ tạo ra từ ngân 
sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân thực 
hiện dự án khởi nghiệp công nghệ, ươm tạo 
doanh nghiệp KH&CN, vốn là những chủ 
thể có nhu cầu và năng lực thương mại hóa 
công nghệ. 
Việc sửa đổi, tháo gỡ những vướng 
mắc nhằm hoàn thiện Luật Chuyển giao 
công nghệ sẽ tạo môi trường pháp lý thuận 
lợi thúc đẩy hoạt động chuyển giao công 
NGUYỄN NGỌC VINH 
77 
nghệ, đổi mới công nghệ, thương mại hóa 
và ứng dụng các thành tựu KH&CN hiện 
đại, thúc đấy hình thành và phát triển thị 
trường KH&CN ở Việt Nam./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Báo cáo 
tổng kết thi hành Luật chuyển giao công nghệ 
và đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao 
công nghệ. 
2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Báo cáo đánh 
giá tác động của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một 
số điều của Luật chuyển giao công nghệ. 
3. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều 
của Luật Chuyển giao công nghệ. 
(2016):
/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.asp
x?ItemID=1226&LanID=1280&TabIndex=1. 
4. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 
(2015), số 80/2015/QH13 ngày 22 tháng 6 
năm 2015. 
5. Luật Chuyển giao công nghệ (2006), số 
80/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006. 
6. Luật Đầu tư (2014), số 67/2014/QH1 ngày 26 
tháng 11 năm 2014. 
7. Luật Khoa học và công nghệ (2013), số 
29/2013/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2013. 
8. Pháp lệnh về Chuyển giao công nghệ nước 
ngoài vào Việt Nam (1988), số 10 – 
LCT/HDDNN8 ngày 05 tháng 12 năm 1988. 
Ngày nhận bài: 07/02/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_kien_nghi_nham_hoan_thien_luat_chuyen_giao_cong_nghe.pdf