Một số khía cạnh văn hóa dưới góc độ tiếp cận của triết học Mácxít

Thuật ngữ văn hoá đã xuất hiện rất sớm,

từ thời cổ đại và không ngừng được bổ sung,

phát triển, hoàn thiện cả về nội hàm cùng

ngoại diên của nó. Chính vì thế, người ta đã

đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn

hóa, nhất là trong khoảng vài chục năm trở lại

đây. Cho đến nay, trên thế giới đã có hàng

trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, làm

cho văn hóa trở thành một trong những khái

niệm phức tạp và khó xác định nhất. Trong

đó, mỗi môn khoa học, mỗi ngành khoa học

và mỗi học giả cụ thể với mỗi góc độ nghiên

cứu, cách tiếp cận, những cứ liệu và mục đích

khác nhau sẽ đưa ra khái niệm, định nghĩa

khác nhau về văn hóa. Và mỗi một định

nghĩa, khái niệm về văn hóa ra đời dù nông -

sâu, rộng - hẹp, ưu - khuyết như thế nào cũng

đều hướng tới một cái đích chung là góp phần

trả lời cho câu hỏi: Văn hóa là gì, bản chất và

các khía cạnh của nó? v.v. thông qua đó tiếp

tục làm sáng tỏ và nhân lên giá trị to lớn của

văn hóa trong sự phát triển của mỗi cá nhân,

của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như bước tiến

chung của toàn nhân loại. Với tính chất và ý

nghĩa đó, sẽ là một thiếu sót nếu những người

1 TS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. nghiên cứu mácxít chúng ta lại không đưa ra

được một khái niệm hay một quan niệm về

văn hóa dưới góc độ tiếp cận của triết học

mácxít.

Trên thực tế, bản thân các nhà kinh điển

chủ nghĩa Mác - Lênin, trong suốt quá trình

sống, hoạt động lý luận và thực tiễn của mình,

do điều kiện khách quan và nhu cầu của thời

đại chưa đặt ra bức thiết nên các ông không

viết một tác phẩm độc lập nào với tư cách là

sự trình bày chuyên sâu và có hệ thống về văn

hóa, cũng như chưa đưa ra một khái niệm

hoàn bị, đúng nghĩa về văn hóa. Tuy nhiên,

toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này tự

nó lại được khái quát lên và thể hiện ra trong

hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về

mối quan hệ giữa con người - tự nhiên - xã

hội và chính bản thân mình. Do đó, để nghiên

cứu và đưa ra khái niệm văn hóa dưới góc độ

tiếp cận của triết học mácxít tất yếu cần dựa

vào tổng hòa mối quan hệ biện chứng nói trên.

Trước hết, theo quan điểm của triết học

mácxít, văn hóa là một hiện tượng xã hội,

không tách rời kinh tế, chính trị và đời sống

xã hội, nó phản ánh các điều kiện xã hội; đồng

thời nó là một trong những hình thái ý thức xã

hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã

hội. Sự khác nhau của mỗi thời đại văn hóa là

do phương thức sản xuất sản sinh ra và quyết

định. Do đó, sự vận động của văn hóa là do sự

vận động của phương thức sản xuất quy định.

Tuy nhiên, phương thức sản xuất lại là do con

người, của con người, vì vậy, văn hóa luôn

gắn liền với sự tồn tại người, với bản chất sinh

học - xã hội của con người. Con người với cả

mặt sinh học và mặt xã hội của mình vừa là

chủ thể, vừa là sản phẩm của văn hóa. Trong

đó, mặt sinh học trong con người là một bộ

phận của giới tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự

nhiên và chịu sự quy định của những quy luật

tự nhiên. Như Ph.Ăngghen đã nói: “Giới tự

nhiên là thân thể vô cơ của con người. đời

sống thể xác và đời sống tinh thần của con

người gắn liền với giới tự nhiên” (C.Mác và

Ph.Ăngghen toàn tập, 2000, tr.142.). Nhưng,

cái quy định bản chất của con người, cái tạo

nên sự khác biệt về chất để phân biệt con

người với động vật chính là mặt xã hội của

con người.

Trong cơ thể con người không chỉ có

những nhu cầu và các quy luật sinh học, mà

còn những nhu cầu và các quy luật tâm - sinh

lý, tình cảm, xã hội, v.v. Mặt khác, ngay

những nhu cầu tự nhiên của con người cũng

không còn “thuần túy tự nhiên” nữa, mà đó đã

mang tính xã hội cao và trở thành văn hóa.

Nếu như con vật sống nhờ vào những ân huệ

sẵn có trong tự nhiên, thì con người đã lao

động và không ngừng sáng tạo. Thông qua đó,

con người thường xuyên làm biến đổi điều

kiện tồn tại của mình để thỏa mãn những nhu

cầu sinh sống của mình và đã tạo ra văn hóa

(cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần);

đồng thời đã cho ra đời nhiều vật phẩm chưa

có trong tự nhiên, thậm chí còn tạo ra “giới tự

nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của bàn tay và

khối óc con người. C.Mác viết: “Súc vật cố

nhiên cũng sản xuất. nhưng súc vật chỉ sản

xuất cái mà bản thân nó cần đến, sản xuất một

chiều; còn con người thì sản xuất một cách

phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống

trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó

con người sản xuất ngay cả khi thoát khỏi nhu

cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó

thì mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của

chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân

mình, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ

tự nhiên” (C.Mác, 1962, tr. 93 - 94).

Hơn nữa, con người hoạt động không chỉ

để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý trực tiếp

của cá nhân mà còn vì nhu cầu của đồng loại,

còn hướng tới những cái đẹp, đến các giá trị

Chân - Thiện - Mỹ. Nói cách khác, bản chất

hoạt động của con người là “tái tạo giới tự

nhiên theo những giá trị nhân văn, nhân bản”,

hay theo như cách nói của C.Mác đó là sự

“nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”

(C.Mác, 1962, tr. 94). Và, “nhào nặn vật chất

theo quy luật của cái đẹp” đó chính là năng

lực bản chất đặc thù riêng có ở con người, gắn

với mọi hoạt động của con người theo tiến

trình lịch sử. Do vậy, có thể xem, sự phát triển

năng lực bản chất người theo các giá trị Chân

- Thiện - Mỹ, gắn với các hoạt động sống của112 CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI – GIÁO DỤC

con người chính là văn hóa. Cùng với đó,

“giới tự nhiên thứ hai” do con người sáng tạo

ra bằng lao động sáng tạo và tri thức của

mình, kết tinh những giá trị tinh thần của

mình, đó cũng chính là văn hóa” (Vũ Thị Kim

Dung, 1998, tr.12 - 18)

pdf 7 trang kimcuc 4280
Bạn đang xem tài liệu "Một số khía cạnh văn hóa dưới góc độ tiếp cận của triết học Mácxít", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số khía cạnh văn hóa dưới góc độ tiếp cận của triết học Mácxít

Một số khía cạnh văn hóa dưới góc độ tiếp cận của triết học Mácxít
110 CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI – GIÁO DỤC 
MỘT SỐ KHÍA CẠNH VĂN HÓA DƯỚI GÓC ĐỘ 
TIẾP CẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁCXÍT 
Ngày nhận bài: 24/09/2015 Nguyễn Đình Bắc1 
Ngày nhận lại: 28/10/2015 
Ngày duyệt đăng: 04/01/2016 
TÓM TẮT 
Văn hóa là một hiện tượng xã hội hết sức phong phú, phức tạp; đã, đang và vẫn tiếp tục được 
nghiên cứu, khám phá dưới dưới các góc độ tiếp cận bởi các ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, 
tiếp cận văn hóa và các khía cạnh riêng của nó dưới góc nhìn của triết học mácxít sẽ cho phép khám 
phá hiệu quả “thế giới văn hóa đầy bí ẩn”. Và mặc dù, tiếp cận văn hóa theo quan điểm triết học 
mácxít đã từng được đề cập, nghiên cứu, nhưng vấn đề này vẫn rất cần được bổ sung, luận giải và 
làm sâu sắc thêm. Đặc biệt là các vấn đề rất căn bản như: khái niệm văn hóa, các quy luật nội tại 
của sự phát triển văn hóa, chức năng của văn hóa, ... Bài viết dưới đây góp một phần nhỏ vào việc 
thực hiện mục tiêu thiết thực này. 
Từ khóa: Văn hóa, quy luật, góc độ triết học mácxít. 
ABSTRACT 
Culture is a very rich and complex social phenomenon which has been studied from many 
different perspectives. However, exploring culture and its particular aspects from Marxist 
perspective will help discover the "full mystery cultural world" efficiently. Although this approach 
has been mentioned and studied, there are issues that need to be supplemented, explained and 
deepened, especially those basic issues such as cultural concept, internal rules of cultural 
development, and cultural functions, etc. This article makes a small contribution to the realization of 
these objectives. 
Keywords: Culture, law, philosophical Marxist perspective. 
1. Về khái niệm văn hóa1 
Thuật ngữ văn hoá đã xuất hiện rất sớm, 
từ thời cổ đại và không ngừng được bổ sung, 
phát triển, hoàn thiện cả về nội hàm cùng 
ngoại diên của nó. Chính vì thế, người ta đã 
đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn 
hóa, nhất là trong khoảng vài chục năm trở lại 
đây. Cho đến nay, trên thế giới đã có hàng 
trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, làm 
cho văn hóa trở thành một trong những khái 
niệm phức tạp và khó xác định nhất. Trong 
đó, mỗi môn khoa học, mỗi ngành khoa học 
và mỗi học giả cụ thể với mỗi góc độ nghiên 
cứu, cách tiếp cận, những cứ liệu và mục đích 
khác nhau sẽ đưa ra khái niệm, định nghĩa 
khác nhau về văn hóa. Và mỗi một định 
nghĩa, khái niệm về văn hóa ra đời dù nông - 
sâu, rộng - hẹp, ưu - khuyết như thế nào cũng 
đều hướng tới một cái đích chung là góp phần 
trả lời cho câu hỏi: Văn hóa là gì, bản chất và 
các khía cạnh của nó? v.v.. thông qua đó tiếp 
tục làm sáng tỏ và nhân lên giá trị to lớn của 
văn hóa trong sự phát triển của mỗi cá nhân, 
của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như bước tiến 
chung của toàn nhân loại. Với tính chất và ý 
nghĩa đó, sẽ là một thiếu sót nếu những người 
1 TS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. Email: bacnguyen2781@gmail.com 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 1 (46) 2016 111 
nghiên cứu mácxít chúng ta lại không đưa ra 
được một khái niệm hay một quan niệm về 
văn hóa dưới góc độ tiếp cận của triết học 
mácxít. 
Trên thực tế, bản thân các nhà kinh điển 
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong suốt quá trình 
sống, hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, 
do điều kiện khách quan và nhu cầu của thời 
đại chưa đặt ra bức thiết nên các ông không 
viết một tác phẩm độc lập nào với tư cách là 
sự trình bày chuyên sâu và có hệ thống về văn 
hóa, cũng như chưa đưa ra một khái niệm 
hoàn bị, đúng nghĩa về văn hóa. Tuy nhiên, 
toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này tự 
nó lại được khái quát lên và thể hiện ra trong 
hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về 
mối quan hệ giữa con người - tự nhiên - xã 
hội và chính bản thân mình. Do đó, để nghiên 
cứu và đưa ra khái niệm văn hóa dưới góc độ 
tiếp cận của triết học mácxít tất yếu cần dựa 
vào tổng hòa mối quan hệ biện chứng nói trên. 
Trước hết, theo quan điểm của triết học 
mácxít, văn hóa là một hiện tượng xã hội, 
không tách rời kinh tế, chính trị và đời sống 
xã hội, nó phản ánh các điều kiện xã hội; đồng 
thời nó là một trong những hình thái ý thức xã 
hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã 
hội. Sự khác nhau của mỗi thời đại văn hóa là 
do phương thức sản xuất sản sinh ra và quyết 
định. Do đó, sự vận động của văn hóa là do sự 
vận động của phương thức sản xuất quy định. 
Tuy nhiên, phương thức sản xuất lại là do con 
người, của con người, vì vậy, văn hóa luôn 
gắn liền với sự tồn tại người, với bản chất sinh 
học - xã hội của con người. Con người với cả 
mặt sinh học và mặt xã hội của mình vừa là 
chủ thể, vừa là sản phẩm của văn hóa. Trong 
đó, mặt sinh học trong con người là một bộ 
phận của giới tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự 
nhiên và chịu sự quy định của những quy luật 
tự nhiên. Như Ph.Ăngghen đã nói: “Giới tự 
nhiên là thân thể vô cơ của con người... đời 
sống thể xác và đời sống tinh thần của con 
người gắn liền với giới tự nhiên” (C.Mác và 
Ph.Ăngghen toàn tập, 2000, tr.142.). Nhưng, 
cái quy định bản chất của con người, cái tạo 
nên sự khác biệt về chất để phân biệt con 
người với động vật chính là mặt xã hội của 
con người. 
Trong cơ thể con người không chỉ có 
những nhu cầu và các quy luật sinh học, mà 
còn những nhu cầu và các quy luật tâm - sinh 
lý, tình cảm, xã hội, v.v.. Mặt khác, ngay 
những nhu cầu tự nhiên của con người cũng 
không còn “thuần túy tự nhiên” nữa, mà đó đã 
mang tính xã hội cao và trở thành văn hóa. 
Nếu như con vật sống nhờ vào những ân huệ 
sẵn có trong tự nhiên, thì con người đã lao 
động và không ngừng sáng tạo. Thông qua đó, 
con người thường xuyên làm biến đổi điều 
kiện tồn tại của mình để thỏa mãn những nhu 
cầu sinh sống của mình và đã tạo ra văn hóa 
(cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần); 
đồng thời đã cho ra đời nhiều vật phẩm chưa 
có trong tự nhiên, thậm chí còn tạo ra “giới tự 
nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của bàn tay và 
khối óc con người. C.Mác viết: “Súc vật cố 
nhiên cũng sản xuất... nhưng súc vật chỉ sản 
xuất cái mà bản thân nó cần đến, sản xuất một 
chiều; còn con người thì sản xuất một cách 
phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống 
trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó 
con người sản xuất ngay cả khi thoát khỏi nhu 
cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó 
thì mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của 
chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân 
mình, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ 
tự nhiên” (C.Mác, 1962, tr. 93 - 94). 
Hơn nữa, con người hoạt động không chỉ 
để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý trực tiếp 
của cá nhân mà còn vì nhu cầu của đồng loại, 
còn hướng tới những cái đẹp, đến các giá trị 
Chân - Thiện - Mỹ. Nói cách khác, bản chất 
hoạt động của con người là “tái tạo giới tự 
nhiên theo những giá trị nhân văn, nhân bản”, 
hay theo như cách nói của C.Mác đó là sự 
“nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp” 
(C.Mác, 1962, tr. 94). Và, “nhào nặn vật chất 
theo quy luật của cái đẹp” đó chính là năng 
lực bản chất đặc thù riêng có ở con người, gắn 
với mọi hoạt động của con người theo tiến 
trình lịch sử. Do vậy, có thể xem, sự phát triển 
năng lực bản chất người theo các giá trị Chân 
- Thiện - Mỹ, gắn với các hoạt động sống của 
112 CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI – GIÁO DỤC 
con người chính là văn hóa. Cùng với đó, 
“giới tự nhiên thứ hai” do con người sáng tạo 
ra bằng lao động sáng tạo và tri thức của 
mình, kết tinh những giá trị tinh thần của 
mình, đó cũng chính là văn hóa” (Vũ Thị Kim 
Dung, 1998, tr.12 - 18). 
Như vậy, văn hóa tồn tại trong tổng thể 
những sản phẩm do con người sáng tạo ra. Tất 
nhiên, không phải bất cứ cái gì con người tạo 
ra cũng là văn hóa, mà chỉ trong những sản 
phẩm phản ánh năng lực “bản chất người”, 
chứa đựng những cái chân, cái thiện, cái mỹ. 
Hơn thế, văn hóa không phải là bản thân sản 
phẩm, mà chỉ là “dấu ấn” biểu hiện trình độ 
sáng tạo, trình độ nhân tính trên đó mà thôi. 
Mặt khác, văn hóa tồn tại trong tổng thể các 
quan hệ người, không chỉ là quan hệ giữa con 
người với tự nhiên, với xã hội mà còn là quan 
hệ giữa con người với con người. Mặc dù vậy, 
chỉ có các quan hệ nhân văn của con người 
mới được bao hàm trong phạm trù văn hóa, 
chứ không phải quan hệ bản năng, và bao giờ 
quan hệ nhân văn cũng giữ vai trò chi phối, 
chế ước, quyết định quan hệ bản năng. Hạt 
nhân của văn hóa chính là tổng hòa các quan 
hệ nhân văn chứa đựng “bản chất người” 
trong quá trình sáng tạo không ngừng. Nói 
cách khác, bản chất cốt lõi của văn hóa là 
sáng tạo và nhân văn, văn hóa là dấu ấn sáng 
tạo và nhân văn theo tiêu chí Chân - Thiện - 
Mỹ của mỗi cộng đồng người. Đó là mặt định 
tính đặc biệt quan trọng để nhìn nhận một 
hiện tượng, một quá trình, một mối quan hệ, 
một dạng thức hoạt động,... nào đó có mang ý 
nghĩa văn hóa hay không. Điều đó cũng có 
nghĩa, chỉ có những dấu ấn sáng tạo mang tính 
nhân văn, tức là xuất phát từ con người, phục 
vụ lợi ích chính đáng của con người và góp 
phần giải phóng con người mới được bao hàm 
trong phạm trù văn hóa. 
Tiếp cận từ góc độ triết học mácxít nói 
trên, có thể hiểu: Văn hóa là khái niệm phản 
ánh sự phát triển năng lực bản chất người 
theo các giá trị Chân - Thiện - Mỹ và sự hiện 
thực hóa các giá trị đó thông qua hoạt động 
sống của con người trong tiến trình lịch sử. 
Với quan niệm này đã cho thấy, góc độ tiếp 
cận văn hóa của triết học mácxít là phương 
thức đi vào tầng sâu, gốc rễ, cốt lõi của vấn đề 
- bản chất của con người và phương thức xác 
định bản chất của sự “tồn tại người” để đưa ra 
khái niệm văn hóa. Theo đó, sẽ cho phép khắc 
phục góc nhìn hạn hẹp coi văn hóa chỉ gồm 
lĩnh vực đời sống tinh thần của con người và 
cộng đồng, hoặc góc nhìn quá rộng coi tất cả 
những gì không phải tự nhiên đều là văn hóa, 
hoặc cách định nghĩa về văn hóa chỉ dựa vào 
kết quả của sự phát triển năng lực bản chất 
người, v.v.. giống như không ít định nghĩa, 
khái niệm thông thường về văn hóa đã xuất 
hiện. Trong khái niệm văn hóa mà Tổ chức 
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp 
quốc (UNESCO) đưa ra cũng cho thấy phần 
nào lý do này. Theo UNESCO, văn hóa được 
hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. 
Theo nghĩa rộng: Văn hóa là một phức hệ - 
tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, 
vật chất, tri thức và tình cảm, khắc họa nên 
bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm 
làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội, Văn hóa 
không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương 
mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của 
con người, những hệ thống giá trị, những 
truyền thống, tín ngưỡng,. Thực chất của 
cách định nghĩa này là sự tiếp cận văn hóa 
dưới góc độ giá trị (vật chất và tinh thần) của 
con người và cộng đồng. Theo nghĩa hẹp: Văn 
hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký 
hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong 
cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù 
riêng. Đây lại là cách tiếp cận văn hóa dưới 
góc độ từ các dấu hiệu, đặc trưng riêng có của 
con người - lối ứng xử, giao tiếp. 
 Mặt khác, với cách định nghĩa này còn 
cho phép xác định rõ hơn về nhiều khía cạnh 
khác của văn hóa, như: chức năng của văn 
hóa; tiêu chí phân loại văn hóa; phương thức 
phân biệt khái niệm “văn hóa” với khái niệm 
“văn minh”; những vấn đề về thang giá trị, về 
bản sắc văn hóa, v.v.. mà các cách tiếp cận 
khác về văn hóa khó hoặc không thể có được. 
2. Về những quy luật nội tại của sự 
phát triển văn hóa. 
Cũng như bất kỳ sự vật, hiện tượng khác, 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 1 (46) 2016 113 
sự phát triển của văn hóa luôn chịu sự chi 
phối, tác động cũng như tuân theo những trật 
tự, lôgic và các quy luật khác nhau. Song, 
theo quan điểm của triết học mácxít, sự tác 
động nội tại xét đến cùng bao giờ cũng mang 
tính quyết định, đồng thời còn là cơ sở không 
thể thiếu để tiếp nhận các tác động, ảnh hưởng 
và những quy định từ bên ngoài. Điều đó có 
nghĩa, quy luật nội tại của sự phát triển văn 
hóa xét đến cùng vẫn là quy luật mâu thuẫn 
(thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập), 
sự phát triển văn hóa do vậy chính quá trình 
không ngừng giải quyết các mâu thuẫn nội tại 
(các mặt đối lập), nhằm vạch ra nguồn gốc, 
động lực, phương thức và khuynh hướng của 
sự phát triển trực tiếp từ bên trong. Trên cơ sở 
đó, đã giúp khái quát thành các quy luật nội 
tại của sự phát triển văn hóa (quy luật thống 
nhất và đấu tranh của các mặt văn hóa đối 
lập). Các quy luật đó bao gồm: tích hợp và lan 
tỏa văn hóa, kế thừa và vượt gộp văn hóa, 
giao thoa và tiếp biến văn hóa. Trong đó: 
Từ hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm 
trù của phép biện chứng duy vật được nhận 
thức như thể thống nhất biện chứng giữa hai 
quá trình đối lập có liên hệ chặt chẽ với nhau, 
đã giúp vạch ra quy luật tích hợp và lan tỏa 
văn hóa. Trong đó, tích hợp văn hóa là sự tích 
lũy, dung hợp các yếu tố văn hóa theo cơ chế 
hướng nội, tức là, cơ chế nhận giá trị. Còn lan 
tỏa văn hóa là sự lan truyền, mở rộng ảnh 
hưởng, phổ biến hóa các yếu tố văn hóa theo 
cơ chế hướng ngoại, nghĩa là, cơ chế truyền 
giá trị. Nếu tích hợp văn hóa diễn ra theo hệ 
quy chiếu nhất định thì lan tỏa văn hóa cũng 
diễn ra theo định hướng nhất định. Và với tính 
cách hai mặt đối lập thống nhất biện chứng thì 
hệ quy chiếu và định hướng này gắn bó với 
nhau làm một. 
Tác động của tích hợp văn hóa làm cho 
các yếu tố văn hóa tích lũy dần về lượng để 
chuyển hóa về chất trong những điều kiện 
nhất định. Thông qua quá trình tích hợp văn 
hóa, mỗi cộng đồng văn hóa có thể tiếp nhận, 
dung hợp các yếu tố tích cực từ bên ngoài 
không gian, thời gian hiện hữu của nó. Còn 
lan tỏa văn hóa thì có cơ chế vận hành ngược 
lại. Trong một cộng đồng văn hóa, mỗi yếu tố 
trước hết nảy sinh một cách đơn nhất, nhưng 
không bao giờ bó khuôn trong không gian, 
thời gian cố định mà luôn có xu hướng thâm 
nhập, phát huy ảnh hưởng tới các yếu tố khác, 
đồng thời luôn lan truyền đến các vòng cộng 
đồng văn hóa khác. Điều đó có nghĩa, từ hiện 
tượng đơn nhất, mỗi yếu tố văn hóa dần dần 
trở thành phổ biến nhờ lan tỏa văn hóa. Cũng 
như tích hợp văn hóa, có sự lan tỏa văn hóa 
trong không gian và có sự lan tỏa văn hóa 
theo thời gian. 
Quy luật tích hợp và lan tỏa văn hóa là sự 
hòa quyện biện chứng và tương tác lẫn nhau 
của cả hai quá trình nói trên. Nhờ có lan tỏa 
văn hóa mà có tích hợp văn hóa và ngược lại, 
tích hợp văn hóa lại tạo điều kiện thúc đẩy lan 
tỏa văn hóa. Sự hòa quyện biện chứng giữa 
tích hợp và lan tỏa văn hóa bao giờ cũng gắn 
với sáng tạo văn hóa, vì tích hợp và lan tỏa 
văn hóa không những phụ thuộc vào “độ mở” 
của các vòng cộng đồng văn hóa mà còn phụ 
thuộc vào khả năng sáng tạo văn hóa không 
ngừng của con người. 
Xuất phát từ quy luật về sự chuyển hóa 
lượng - chất, quy luật phủ định của phủ định, 
tính kế thừa trong sự phát triển của phép biện 
chứng duy vật, và trực tiếp nhất là quy luật 
tích hợp và lan tỏa văn hóa đã hình thành nên 
quy luật kế thừa và vượt gộp văn hóa. Bởi lẽ, 
xét ở một góc độ nhất định, kế thừa và vượt 
gộp văn hóa được xem như là sự tích hợp và 
lan tỏa văn hóa diễn ra theo thời gian (hay 
theo chiều lịch đại). 
Mặt khác, thực tiễn chứng minh, không 
có nền văn hóa nào xuất hiện từ hư vô, mỗi 
nền văn hóa chỉ phát triển vững chắc khi kế 
thừa được kho tàng lịch sử văn hóa trước nó, 
đó là sự kế thừa luôn bao hàm ý nghĩa của 
những bước hoàn thiện để vượt lên trên. Toàn 
bộ sự kế thừa văn hóa tạo nên nền móng của 
sự phát triển, và sức bật của nền văn hóa được 
đánh dấu chủ yếu ở những bước vượt gộp văn 
hóa. Con người có sáng tạo, phát triển văn hóa 
đến mức nào thì cũng không thể bứt khỏi cái 
nền, trái lại, càng đứng vững trên đó thì sức 
sáng tạo càng lớn. Song, kế thừa văn hóa 
114 CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI – GIÁO DỤC 
không đồng nghĩa với bê nguyên cái cổ 
truyền, càng không phải là cách làm “bài tân, 
thủ cựu”, mà là kế thừa có chọn lọc kết hợp 
với đào thải một cách hợp quy luật, gắn với 
đổi mới và phát triển văn hóa. Vượt gộp văn 
hóa cũng không đồng nghĩa với từ bỏ quá 
khứ, “lai căng” một cách vô lối. Hơn nữa, kế 
thừa văn hóa và vượt gộp văn hóa là hai mặt 
biện chứng của cùng một quá trình. Nếu 
không có sự kế thừa văn hóa thì toàn bộ kết 
quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới, dù rất 
hữu ích, cũng không thể được tích hợp để đổi 
mới, làm giàu có cho từng nền văn hóa; ngược 
lại, nếu không có sự vượt gộp văn hóa thì quá 
trình kế thừa văn hóa không thể làm cho mỗi 
nền văn hóa tự bứt khỏi sự trì trệ, lạc hậu. 
Tác động của quy luật kế thừa và vượt 
gộp văn hóa trong bối cảnh thực tiễn của lịch 
sử đương đại đã làm cho mỗi cộng đồng văn 
hóa phát triển vững chắc trên nền tảng truyền 
thống, nối liền quá khứ với hiện tại và chuẩn 
bị cho tương lai. Đồng thời, chính sự tác động 
của quy luật này quy định xu hướng tất yếu 
vươn tới sự hoàn thiện của nhân cách con 
người và phương thức tổ chức đời sống văn 
hóa của cộng đồng, xuyên qua vô số sự biến 
động ngẫu nhiên, vượt qua những bước lùi, 
chiến thắng những phản giá trị. Chính nhờ vậy 
mà nền văn hóa chung của nhân loại phát triển 
liên tục, có sức sống sâu bền và phát huy vai 
trò to lớn trong lịch sử đời sống xã hội. 
Trên nền tảng của nguyên lý về mối liên 
hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển của 
phép biện chứng duy vật và sự phản ánh quá 
trình trao đổi trong sản xuất vật chất với ý 
nghĩa trao đổi sản xuất sinh ra trao đổi văn 
hóa đã cho phép khái quát nên quy luật giao 
thoa và tiếp biến văn hóa. Nhưng xét đến 
cùng, cơ sở trực tiếp nhất của quy luật giao 
thoa và tiếp biến văn hóa lại từ quy luật tích 
hợp và lan tỏa văn hóa. Vì, ở một góc độ nào 
đó, giao thoa và tiếp biến văn hóa được coi là 
sự tích hợp và lan tỏa văn hóa diễn ra trong 
không gian (tức là theo chiều đồng đại). 
Quá trình giao lưu văn hóa luôn xuất hiện 
sự trao đổi, vay mượn, đan xen, hỗn dung... 
các yếu tố văn hóa, gọi chung là giao thoa văn 
hóa, cũng như sự tiếp nhận, cải biến, chuyển 
hóa những yếu tố văn hóa của cộng đồng này 
thành yếu tố văn hóa nội tại của cộng đồng kia 
và ngược lại, gọi chung là tiếp biến văn hóa. 
Giao lưu văn hóa có thể mang hình thái tự 
nguyện hay cưỡng bức, các vòng cộng đồng 
văn hóa có thể giao lưu hoặc không giao lưu 
với nhau, nhưng đã có giao lưu văn hóa thì tất 
yếu diễn ra sự giao thoa và tiếp biến văn hóa 
như những hiện tượng phổ biến. Do vậy, nếu 
giao lưu văn hóa biểu hiện mặt hình thức, hiện 
tượng thì giao thoa và tiếp biến văn hóa thể 
hiện mặt nội dung, bản chất của sự phát triển 
văn hóa. Nói cách khác, nếu giao lưu văn hóa 
là một quá trình thì giao thoa và tiếp biến văn 
hóa chính là quy luật khách quan của sự phát 
triển văn hóa trong quá trình đó. 
Giao thoa và tiếp biến văn hóa có cơ sở từ 
tích hợp và lan tỏa văn hóa. Nhưng ngược lại, 
tác động của quy luật giao thoa và tiếp biến 
văn hóa làm cho mỗi vòng cộng đồng văn hóa 
có thể tích hợp những yếu tố tích cực trong 
quá trình giao lưu văn hóa để phát triển một 
cách đa dạng, phong phú, sinh động. Cũng do 
tác động của quy luật này mà mỗi nền văn hóa 
có thể kết tinh những yếu tố tiên tiến từ các 
tiểu cộng đồng của nó thành những đặc trưng 
chung tiêu biểu, đồng thời góp phần mở 
thông, hội nhập với các nền văn hóa đương 
đại. Điều đó không những cho phép khắc 
phục xu hướng phát triển thiếu thống nhất 
trong từng nền văn hóa, mà còn làm cho các 
nền văn hóa xích lại gần nhau trong quá trình 
phát triển đồng đại. 
Mỗi quy luật nội tại có một vị trí, vai trò 
riêng, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, 
tác động qua lại lẫn nhau, là cơ sở, tiền đề và 
điều kiện của nhau, xâm nhập và chuyển hóa 
vào nhau, qua đó tạo ra hợp lực thúc đẩy sự 
phát triển của văn hóa. 
3. Về chức năng của văn hóa 
Trong nhiều tài liệu nghiên cứu văn hóa ở 
nước ta hiện nay có nói đến “chức năng giáo 
dục”, “chức năng thẩm mỹ”, “chức năng dự 
báo” của văn hóa. Cũng có người có cách đề 
cập khác về chức năng của văn hóa như: 
“chức năng giải trí”, “chức năng bảo tồn, phát 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 1 (46) 2016 115 
triển giá trị và đấu tranh chống phản giá trị”, 
“chức năng điều chỉnh và lưu truyền”, v.v.. 
của văn hóa. Và có thể còn có rất nhiều cách 
đề cập khác nhau, với các tên gọi khác nhau 
về chức năng của văn hóa. Nhưng, xuất phát 
từ cơ sở lý luận về bản chất văn hóa của triết 
học mácxít đã nêu ở trên có thể đưa ra luận 
điểm có tính chất khái quát về chức năng của 
văn hóa, đó là phương diện, mặt hoạt động 
chủ yếu của văn hóa “nhằm tạo ra được những 
khả năng, những điều kiện và môi trường tối 
ưu nhất, phù hợp nhất cho sự bộc lộ và phát 
huy (giải phóng) những năng lực bản chất 
người, làm cho con người trở thành tốt hơn, 
đẹp hơn, hoàn thiện hơn, trở thành “người” 
hơn trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử của 
mình” (Vũ Thị Kim Dung, 1998, tr.12 - 18). 
Mặt khác, để thấy rõ hơn cách xác định chức 
năng của văn hóa theo quan điểm của triết học 
mácxít, rất cần một sự phân biệt chức năng 
của văn hóa với vai trò của văn hóa. Khi đề 
cập về vai trò của văn hóa người ta thường nói 
tới văn hóa với tính cách là: mục tiêu, động 
lực, nền tảng, điều kiện, v.v.. của sự phát triển 
kinh tế - xã hội, con người và các lĩnh vực 
khác của đời sống xã hội. 
Từ những phân tích, luận giải trên, có thể 
xác định chức năng của văn hóa dưới góc độ 
tiếp cận của triết học mácxít như sau: 
Một là, chức năng nhận thức. Văn hóa 
không dừng lại ở việc phản ánh đời sống xã 
hội mà hơn thế, nó nâng cao nhận thức của 
con người. Ph.Ăngghen cho rằng, qua các tác 
phẩm nghệ thuật hiện thực của Bandắc, người 
ta biết được về đời sống xã hội nhiều hơn là 
qua những tác phẩm của tất cả các sử gia, các 
nhà kinh tế học, các nhà thống kê học của thời 
đại ông cộng lại. Thông qua văn hóa, các yếu 
tố hoạt động và nhận thức được biểu hiện vô 
cùng phong phú bằng rất nhiều hình thức khác 
nhau. Văn hóa là một phương tiện nhận thức 
thế giới và là biện pháp để mỗi cá nhân tự 
nhận thức chính bản thân mình. 
Hai là, chức năng tạo ra các hệ chuẩn 
giá trị nhân văn của văn hóa. Các hoạt động 
văn hóa đều gắn liền với các chuẩn mực và hệ 
giá trị. Tuy có những nội dung khác nhau 
nhưng văn hóa không phải là hoạt động vô 
chuẩn trên các xã hội khác nhau. Các chuẩn 
mực văn hóa không chỉ định hướng xúc cảm, 
tư tưởng, lối ứng xử mà còn định hướng cả lý 
tưởng sống của con người. Mặt khác, với tư 
cách là một hệ thống giá trị, văn hóa có thể đề 
xuất những cái tốt, cái đúng, cái đẹp chưa thật 
phổ biến trong đời sống, nhân chúng lên thành 
các hiện tượng phổ biến trong xã hội. 
Ba là, chức năng cải tạo xã hội theo 
những mục tiêu nhất định của văn hóa. Hoạt 
động văn hóa là hoạt động có mục đích. Mọi 
hoạt động văn hóa đều là hoạt động có dự 
kiến theo những lý tưởng xã hội nhất định. 
Các nhà văn hóa, các hoạt động văn hóa, các 
giá trị và chuẩn mực văn hóa, đều tham gia 
vào những quá trình định hướng xã hội khác 
nhau. Vì lẽ đó, chức năng cải tạo, xây dựng 
của văn hóa thường gắn với những lý tưởng 
thống trị của mỗi thời đại. Đương nhiên, trong 
thời đại có giai cấp đối kháng, lý tưởng có 
những xung đột giai cấp lớn lao và văn hóa 
cũng chịu sự quy định của việc giải quyết mâu 
thuẫn ấy. Chức năng cải tạo, xây dựng của 
văn hóa đã tương tác theo các động lực, các 
mục tiêu mà lý tưởng xã hội chi phối. 
Bốn là, chức năng thỏa mãn các nhu cầu 
phong phú của con người. Đây là một trong 
những chức năng riêng có của văn hóa; nó 
vừa là sản phẩm tự nhiên của con người trong 
các quan hệ xã hội, lại vừa phản ánh các quan 
hệ xã hội. C.Mác thường nói rằng, nhu cầu 
gắn chặt chẽ với sản xuất của con người. Có 
sản xuất, có lao động và có sinh tồn là có nhu 
cầu. Trong tổng thể hệ nhu cầu của con người, 
nhu cầu văn hóa thuộc hệ nhu cầu xã hội. Đó 
là nhu cầu giao tiếp, nhu cầu nhận thức, nhu 
cầu đạo đức, nhu cầu thẩm mỹ, đặc biệt là nhu 
cầu sáng tạo. Nhu cầu văn hóa là nhu cầu 
thuần túy người. Bản chất của nhu cầu văn 
hóa gắn chặt với hưởng thụ, đánh giá và sáng 
tạo tinh thần. 
Rõ ràng, văn hóa là một hiện tượng đa 
chức năng. Các chức năng ấy gắn rất chặt với 
các mục tiêu của sự phát triển con người toàn 
diện và phát triển xã hội bền vững. 
Có thể nói, văn hóa là một hiện tượng xã 
116 CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI – GIÁO DỤC 
hội phong phú và phức tạp. Tuy nhiên, sự 
phức tạp đó đều có thể hóa giải thành công 
nếu tiếp cận và nghiên cứu dưới góc độ của 
triết học Mác - Lênin. Khi đứng vững trên 
lập trường, dựa chắc vào thế giới quan và 
phương pháp luận của triết học mácxít không 
chỉ cho phép chúng ta nhìn thấy các hình 
thức tích cực, những nội dung chân chính của 
các quan hệ văn hóa, mà còn giúp hiểu sâu 
sắc bản chất, các quy luật nội tại của sự phát 
triển văn hóa, chức năng và chuẩn mực giá 
trị văn hóa, Nếu không đứng trên bình diện 
của triết học mác xít để tiếp cận nghiên cứu 
văn hóa, người ta rất có thể không những 
không nhìn nhận được các quan hệ cơ bản 
của văn hóa, mà còn không phát hiện ra tính 
chất giả tạo bên trong của một giá trị văn hóa 
nào đó. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (2000). Tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
C.Mác (1962). Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb. Sự thật Hà Nội. 
Vũ Thị Kim Dung (1998). Cách tiếp cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác. 
Tạp chí Triết học, Số 1(101) 2/1998, tr. 12 - 18. 
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Duy Thông (1977). Vai trò của 
phương pháp luận triết học Mác - Lênin đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
Hoàng Trinh (1996). Vấn đề văn hóa và phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb. Văn hoá, Hà Nội. 
Trường Lưu (1999). Văn hóa một số vấn đề lý luận, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Nguyễn Huy Hoàng (2002). Mấy vấn đề triết học văn hóa, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 
Học viện Chính trị (2009). Giáo trình văn hóa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa 
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Phạm Xuân Nam (1998). Văn hóa vì phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (2002). Văn hóa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, 
Hà Nội. 
Hà Xuân Trường (1994). Văn hóa - Khái niệm và thực tiễn, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_khia_canh_van_hoa_duoi_goc_do_tiep_can_cua_triet_hoc.pdf