Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại ngân hàng phát triển Việt Nam – chi nhánh Thanh Hoá

Trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, các

doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần sự hỗ trợ về vốn từ phía các ngân hàng thương mại để

thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước, trợ cấp mất việc làm, thanh toán tiền bảo

hiểm. Đứng trước thực trạng này, Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh

Hóa đã triển khai hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp theo quy định của

Chính phủ. Tuy nhiên việc tiếp cận chính sách bảo lãnh tín dụng từ phía ngân hàng phát

triển cũng như tiếp cận nguồn vốn vay từ phía ngân hàng cho vay là rất khó khăn đối với

các doanh nghiệp. Bài báo đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh

tín dụng của ngân hàng, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tín dụng

tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hóa và đưa ra các giải pháp chủ

yếu góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại Ngân hàng

Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hóa.

pdf 11 trang kimcuc 3120
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại ngân hàng phát triển Việt Nam – chi nhánh Thanh Hoá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại ngân hàng phát triển Việt Nam – chi nhánh Thanh Hoá

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại ngân hàng phát triển Việt Nam – chi nhánh Thanh Hoá
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 134
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG PHÁT 
TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH THANH HOÁ 
Ngô Việt Hương1 
TÓM TẮT 
 Trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, các 
doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần sự hỗ trợ về vốn từ phía các ngân hàng thương mại để 
thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước, trợ cấp mất việc làm, thanh toán tiền bảo 
hiểm... Đứng trước thực trạng này, Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh 
Hóa đã triển khai hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp theo quy định của 
Chính phủ. Tuy nhiên việc tiếp cận chính sách bảo lãnh tín dụng từ phía ngân hàng phát 
triển cũng như tiếp cận nguồn vốn vay từ phía ngân hàng cho vay là rất khó khăn đối với 
các doanh nghiệp. Bài báo đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh 
tín dụng của ngân hàng, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tín dụng 
tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hóa và đưa ra các giải pháp chủ 
yếu góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại Ngân hàng 
Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hóa. 
 Từ khoá: bảo lãnh tín dụng, Ngân hàng Phát triển, Thanh Hoá. 
Chính sách bảo lãnh tín dụng bắt đầu được triển khai từ tháng 2/2009, là một 
trong những chính sách kinh tế thể hiện chủ trương của Nhà nước ta trong việc quan tâm 
tới hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bảo lãnh cho 
doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại (NHTM) là một nghiệp vụ mới đối với 
Ngân hàng Phát triển (NHPT) nên cơ sở cho sự phát triển hoạt động này ở nước ta còn 
rất hạn chế. Đối với Chi nhánh NHPT Thanh Hoá mặc dù đã rất nỗ lực cố gắng trong 
việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ giao và đã đạt được những kết quả rất đáng khích 
lệ. Tuy nhiên xuất phát từ thực tế, số doanh nghiệp xin được bảo lãnh tín dụng cũng như 
giá trị các khoản bảo lãnh không cao; hoạt động bảo lãnh tín dụng chưa thực sự giúp ích 
cho các doanh nghiệp khó khăn về vốn trong tỉnh và để Chi nhánh NHPT Thanh Hoá 
phát huy hết tiềm năng, khai thác hết lợi thế của mình trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, đáp 
ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế thì cần phải có các giải pháp hoàn thiện, nâng 
cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại Chi nhánh. 
1 ThS. Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, trường Đại học Hồng Đức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
135
1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH TÍN DỤNG 
1.1. Khái niệm về bảo lãnh tín dụng 
Theo Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 do Ngân hàng Nhà nước 
(NHNN) ban hành, quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh có quy định: 
“Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo 
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho 
khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không 
đúng nghĩa vụ đã cam kết bởi bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả 
cho ngân hàng số tiền mà ngân hàng đã trả thay. 
Trong Qui chế bảo lãnh tín dụng do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2009 thì 
“bảo lãnh tín dụng” là việc bên thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên 
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo 
lãnh) nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. 
Như vậy, nghĩa vụ bảo lãnh thường gắn liền với một nghĩa vụ chính khác (như 
nghĩa vụ cho vay, thanh toán) cam kết bảo lãnh bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ 
chính đó. 
1.2. Hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng 
Hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng được thể hiện thông qua hàng loạt các chỉ 
tiêu cả về mặt kinh tế và về mặt xã hội của hoạt động bảo lãnh vay vốn. Hoạt động bảo 
lãnh tín dụng phải thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp tiếp tục các phương án sản xuất kinh 
doanh có hiệu quả, tạo được công ăn việc làm cho người lao động, giúp doanh nghiệp cải 
thiện được tình hình tài chính so với hiện tại và đảm bảo trả nợ theo đúng tiến độ đã ký 
kết trong hợp đồng tín dụng với NHTM. 
- Chỉ tiêu doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm 
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị các khoản bảo lãnh phát sinh trong năm. Nếu dư nợ 
bảo lãnh phát sinh trong năm rất cao nhưng chủ yếu là những món bảo lãnh có mức độ 
rủi ro cao, khả năng ngân hàng trả nợ thay cho khách hàng là rất lớn thì có thế kết luận 
hoạt động bảo lãnh không phát triển. Hoạt động bảo lãnh được cho là phát triển khi 
doanh số bảo lãnh phát sinh qua các năm có xu hướng tăng đều với những bảo lãnh có 
giá trị lớn, mức độ rủi ro thấp. 
- Chỉ tiêu liên quan đến nợ quá hạn 
 Tỷ lệ bảo lãnh quá hạn = 
Dư nợ bảo lãnh quá hạn 
Tổng dư nợ bảo lãnh đến hạn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 136
 Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi = 
Nợ quá hạn trên một năm 
Tổng dư nợ bảo lãnh đến hạn 
- Khả năng đáp ứng yêu cầu và thu hút khách hàng 
 Khả năng đáp ứng nhu cầu và thu hút khách hàng thể hiện ở mức phí phù hợp, 
chi phí nghiệp vụ thấp, mức độ an toàn, thủ tục nhanh chóng, đa dạng hoá các loại hình 
bảo lãnhNgoài ra, nó còn phụ thuộc vào uy tín với khách hàng. Nếu ngân hàng bảo 
lãnh giữ được uy tín trong giao dịch sẽ thu hút các khách hàng ngày càng đến với mình 
nhiều hơn. 
- Số khách hàng đăng ký dịch vụ bảo lãnh 
Số lượng khách hàng đăng ký dịch vụ bảo lãnh của một ngân hàng tăng hay giảm 
phản ánh phần nào sự phát triển của hoạt động bảo lãnh chưa cần tính toán đến doanh 
thu từ các hợp đồng mang lại. Sự biến động tăng, giảm số lượng khách hàng đăng ký bảo 
lãnh phản ánh hiệu quả hoạt động của chiến lược mở rộng, giới thiệu về dịch vụ bảo lãnh 
của ngân hàng, phản ánh uy tín của ngân hàng theo đánh giá của khách hàng và phản ánh 
quy mô của hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. 
2. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG 
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH THANH HOÁ 
2.1. Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hoá 
Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hoá được thành lập theo 
Quyết định số 03/QĐ-NHPT ngày 01/7/2006 của Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển 
Việt Nam về việc thành lập Chi nhánh NHPT tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
ương. Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thanh Hoá có trụ sở tại số 44A - Đại 
lộ Lê Lợi, thành phố Thanh Hoá. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá là đơn vị 
trực thuộc Ngân hàng Phát triển Việt Nam, các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Phát 
triển hiện nay là: 
- Được huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín 
dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của nhà nước theo quy định của Chính phủ. 
- Thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển như cho vay đầu tư phát triển, 
hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. 
- Thực hiện chính sách tín dụng xuất khẩu như cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín 
dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 
- Nhận ủy thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận ủy thác, 
cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước 
thông qua hợp đồng nhận ủy thác giữa Ngân hàng Phát triển với các tổ chức ủy thác. 
- Thực hiện việc cho vay đối với nền kinh tế theo các chương trình, nhiệm vụ của 
Chính phủ giao như: cho vay các doanh nghiệp trả lương cho nhân viên, cho vay hỗ trợ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
137
trợ cấp mất việc làm, cho vay các doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình sản xuất – 
kinh doanh theo sự chỉ đạo của Chính phủ. 
- Thực hiện bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vay vốn tại các NHTM 
2.2. Thực trạng hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng tại Ngân hàng Phát 
triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hoá 
2.2.1. Thực trạng hiệu quả bảo lãnh tín dụng tại NHPT Việt Nam – Chi nhánh 
Thanh Hoá 
Ngày 21 tháng 01 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 
14/2009/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn của 
NHTM. Ngay sau khi có chỉ đạo và hướng dẫn của NHPT, Chi nhánh NHPT Thanh Hoá đã 
tổ chức tuyên truyền, phối hợp tốt với các NHTM trên địa bàn trong công tác thẩm định 
năng lực điều hành, khả năng tài chính và uy tín của các chủ đầu tư trong quan hệ tín dụng. 
Trong 2 năm 2009, 2010, công tác bảo lãnh tín dụng đã thu được kết quả bước đầu như sau: 
 * Chỉ tiêu doanh số bảo lãnh phát sinh: 
- Năm 2009: giá trị bảo lãnh là 27.650 triệu đồng, trong đó gồm 13 doanh nghiệp 
được bảo lãnh vay vốn, cụ thể: 
+ Bảo lãnh cho 1 dự án đầu tư: 400 triệu đồng. 
+ Bảo lãnh cho 15 phương án sản xuất – kinh doanh: 27.250 triệu đồng. 
- Năm 2010: Doanh số bảo lãnh là 13 Phương án SX – KD có 6 doanh nghiệp được 
bảo lãnh vay vốn, giá trị bảo lãnh là 45.700 triệu đồng. 
Nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn tại NHTM của Chi nhánh NHPT 
đã phần nào tháo gỡ được khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động có quy mô 
nhỏ, và vừa trên địa bàn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng khi doanh nghiệp không 
đủ năng lực tài chính, không đủ tài sản thế chấp để vay vốn tại NHTM. 
Doanh số bảo lãnh tín dụng trong các năm 2009, 2010 tại chi nhánh 
NHPT Thanh Hoá 
Đơn vị: triệu đồng 
Chỉ tiêu 
Năm 2009 Năm 2010 
Số tiền % Số tiền % 
Tổng doanh số bảo lãnh 27650 100 45700 100 
Bảo lãnh dự án đầu tư 400 1,45 0 0 
Bảo lãnh phương án SX– KD 27250 98,55 45700 100 
(Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh tín dụng, phòng tín dụng NHPTVN - Chi nhánh TH) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 138
Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy, doanh số bảo lãnh năm 2010 tăng 18.050 
triệu đồng so với năm 2009 (tương ứng tăng 65,28%). Chính sách bảo lãnh tín dụng tuy 
mới được thực thi trong 2 năm vừa qua, nhưng doanh số năm sau cao hơn hẳn so với 
doanh số năm trước. Điều này cũng thể hiện những nỗ lực, phấn đấu của Chi nhánh 
NHPT Thanh Hoá trong việc tuyên truyền, quảng bá, thực hiện chủ trương chính sách 
của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp có thể tiếp 
cận với chính sách ưu đãi của Nhà nước ngày càng nhiều hơn. Với những bước khởi đầu 
đáng khích lệ như vậy, hy vọng chính sách bảo lãnh tín dụng thực sự phát huy được hiệu 
quả trong những năm sắp tới. 
Biểu đồ 1: Doanh số bảo lãnh tín dụng các năm 2009, 2010 tại chi nhánh NHPT 
Thanh Hóa 
 Triệu đồng 
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
2009 2010
Doanh số bảo
lãnh các năm
Năm 
Như vậy, tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá: trong hai năm 2009, 2010 doanh số 
bảo lãnh chủ yếu là bảo lãnh cho phương án sản xuất – kinh doanh của các doanh 
nghiệp, còn hình thức bảo lãnh dự án đầu tư rất ít và hầu như không có. Năm 2009, Chi 
nhánh bảo lãnh một món (trị giá 400 triệu đồng), tỷ trọng của nó chỉ chiếm có 1,45% 
trong tổng doanh số bảo lãnh. Sang năm 2010, hình thức bảo lãnh này không hề có một 
hồ sơ nào xin bảo lãnh được Chi nhánh chấp thuận. Đây là điều dễ hiểu, bởi vì công tác 
thẩm định dự án đầu tư rất chặt chẽ. Doanh nghiệp có hồ sơ xin bảo lãnh vay vốn cho dự 
án đầu tư đều phải trải qua sự thẩm định của hai ngân hàng, đó là: NHPT và NHTM. Mặt 
khác, dự án đầu tư có thời gian thực hiện dài hơn so với phương án sản xuất – kinh doanh, 
thời gian thu hồi vốn đầu tư lâu hơn, rủi ro nhiều hơn. Còn về phía doanh nghiệp thì năng 
lực lập hồ sơ dự án đầu tư còn nhiều yếu kém, dự án đầu tư có khả thi không cao nên 
không thuyết phục được các ngân hàng chấp thuận cho vay vốn để đầu tư cho dự án. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
139
Biểu đồ 2. Doanh số loại hình bảo lãnh tín dụng tại chi nhánh NHPT Thanh Hóa 
trong các năm 2009, 2010 
 Triệu đồng 
Năm 
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
2009 2010
Doanh số bảo
lãnh phương
án SX - KD
Doanh số bảo
lãnh dự án đầu
tư
Theo biểu đồ này, hầu như tại Chi nhánh chỉ có nghiệp vụ bảo lãnh cho phương 
án sản xuất – kinh doanh, còn nghiệp vụ bảo lãnh cho dự án đầu tư gần như không có. 
Như vậy, Chi nhánh NHPT Thanh Hoá cần sớm có các giải pháp phù hợp để khai thác 
loại hình bảo lãnh dự án đầu tư cho các doanh nghiệp. Tỉnh Thanh Hoá là một địa bàn 
đông dân, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đặc biệt là chủ trương 
của tỉnh đang tập trung xây dựng các khu công nghiệp Lễ Môn, Nghi Sơn làm trọng 
điểm phát triển kinh tế của tỉnh. Nhiều chính sách khuyến khích, kêu gọi đầu tư đã được 
chính quyền tỉnh đưa ra, đây là một môi trường thuận lợi cho các dự án đầu tư tập trung 
vào 2 khu công nghiệp này. Ngoài ra tỉnh còn khuyến khích doanh nghiệp phát triển 
những dự án đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vào các ngành dịch vụ chế biến 
nông, lâm, thuỷ hải sản. Đây là một môi trường tốt cho các doanh nghiệp thiết lập các dự 
án đầu tư khả thi và các NHTM cho vay thông qua hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh 
NHPT. Chi nhánh nên kết hợp với các NHTM trên địa bàn, tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp 
trong khâu lập dự án đầu tư để nâng cao doanh số bảo lãnh cho hình thức này hơn nữa. 
* Chỉ tiêu liên quan đến nợ quá hạn 
Trong 2 năm vừa qua Chi nhánh không phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho 
khách hàng, Chi nhánh không có nợ quá hạn. Duy nhất có một trường hợp doanh nghiệp 
Duy Hải sản xuất – kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ trong năm 2010, NHTM đề nghị 
Chi nhánh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng trong quá trình kiểm tra, xác minh lại, Chi 
nhánh đã từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vì doanh nghiệp Duy Hải đã sử dụng vốn 
vay không đúng mục đích. Tuy nhiên, doanh nghiệp Duy Hải cũng đã thực hiện được 
nghĩa vụ tra nợ đối với NHTM, do đó không xảy ra rủi ro đối với cả NHTM và Chi nhánh. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 140
* Khả năng đáp ứng yêu cầu và thu hút khách hàng 
Khi có chính sách bảo lãnh tín dụng của Chính phủ ra đời, NHPT đã kịp thời 
hướng dẫn nghiệp vụ bảo lãnh cho các cán bộ, nhân viên ngân hàng đồng thời tuyên 
truyền, quảng bá chính sách này đến các doanh nghiệp trong tỉnh Thanh Hoá. Do đó, Chi 
nhánh đã nắm bắt được yêu cầu của khách hàng nên khả năng đáp ứng yêu cầu đó tương 
đối cao: Đến với chi nhánh NHPT Thanh Hoá, khách hàng được hướng dẫn nhiệt tình 
các bước thực hiện, thủ tục đề nghị phát hành bảo lãnh diễn ra nhanh chóng. Chi phí hợp 
lý và luôn giữ chữ tín với khách hàng nên trong các năm 2009, 2010 lượng hồ sơ khách 
hàng yêu cầu bảo lãnh ngày càng nhiều so với các Chi nhánh ở các tỉnh, thành phố khác 
(điều này đã được đánh giá trong toàn hệ thống NHPT). Dịch vụ bảo lãnh cho doanh 
nghiệp vay vốn tại các NHTM đã góp phần nâng cao lợi nhuận và uy tín của Chi nhánh 
trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thực hiện các chủ trương của Chính phủ 
trong việc khôi phục, phát triển nền kinh tế. 
* Số khách hàng đăng ký dịch vụ bảo lãnh 
Theo báo cáo của Phòng tín dụng thì số khách hàng đăng ký dịch vụ bảo lãnh tại 
Chi nhánh NHPT Thanh Hoá rất nhiều nhưng rất ít doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện 
để được bảo lãnh vay vốn tại NHTM khác trên địa bàn và Chi nhánh chỉ từ chối hồ sơ 
xin bảo lãnh mà không thống kê cụ thể số khách hàng đăng ký dịch vụ bảo lãnh vay vốn. 
2.2.2. Đánh giá hiệu quả thực trạng hoạt động bảo lãnh tín dụng tại Ngân hàng 
Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thanh Hoá 
* Những kết quả đạt được: 
- Doanh số thực hiện bảo lãnh của Chi nhánh năm sau cao hơn năm trước. Đây là 
thành tích của Chi nhánh trong việc triển khai nghiệp vụ bảo lãnh trên địa bàn một tỉnh 
rộng đến các doanh nghiệp. Mặt khác doanh số thực hiện bảo lãnh tăng cũng góp phần 
làm tăng thu nhập của Chi nhánh, đóng góp vào sự phát triển của hệ thống NHPT. 
- Trong quá trình thực hiện bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp, Chi nhánh 
luôn triển khai, đôn đốc nhắc nhở cán bộ nghiệp vụ thực hiện đúng qui trình bảo lãnh, 
không để xảy ra tình trạng Chi nhánh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho các doanh 
nghiệp và tình trạng nợ quá hạn đối với các doanh nghiệp được bảo lãnh. 
- Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên không nhiều; song song với việc thực hiện 
các nhiệm vụ khác của Chính phủ giao, nhưng Chi nhánh đã bố trí nguồn nhân lực hợp 
lý để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng; hướng dẫn, giải quyết thủ tục nhanh chóng 
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. 
- Chi nhánh đã tổ chức, phối hợp với các sở, ban, ngành như: Sở Tài chính, Sở 
Lao động thương binh xã hội, Sở Công thương, Sở Kế hoạch Đầu tưtrong việc tuyên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
141
truyền chính sách bảo lãnh tín dụng đến các doanh nghiệp, Hợp tác xã trong địa bàn tỉnh 
Thanh Hoá. 
* Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế: 
 - Những hạn chế: 
 Số lượng hồ sơ được chấp thuận bảo lãnh cũng như doanh số bảo lãnh còn rất ít 
so với nhu cầu xin được bảo lãnh của các doanh nghiệp trong tỉnh và số món bảo lãnh 
còn có xu hướng giảm dần trong năm 2010. 
Về khả năng đáp ứng yêu cầu khách hàng: số lượng hồ sơ xin bảo lãnh nhiều 
nhưng khả năng đáp ứng của Chi nhánh còn hạn chế. 
Số khách hàng đăng ký dịch vụ bảo lãnh ngày càng giảm, cụ thể là năm 2009 có 
13 doanh nghiệp được chấp thuận bảo lãnh nhưng đến năm 2010 chỉ có 6 doanh nghiệp. 
Loại hình doanh nghiệp được bảo lãnh chưa đa dạng. Trong các loại hình doanh nghiệp 
được bảo lãnh thì chỉ có loại hình công ty TNHH chiếm đa số. 
Khâu thẩm định hồ sơ bảo lãnh vay vốn theo qui chế bảo lãnh vay vốn rất chặt 
chẽ và phải được sự thẩm định của cả hai ngân hàng: NHTM và NHPT nên ít rủi ro cho 
Chi nhánh trong khi đó các doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện 
để được bảo lãnh vay vốn. 
- Nguyên nhân của những hạn chế 
 Khó khăn vướng mắc trong công tác bảo lãnh tín dụng là do một số nguyên nhân 
chủ yếu sau: 
+ Những nguyên nhân thuộc về phía các doanh nghiệp 
 Đối với các doanh nghiệp, HTX do năng lực và trình độ quản trị kinh doanh còn 
hạn chế, dẫn tới việc chưa xây dựng được kế hoạch, phương án SX – KD có hiệu quả; 
công tác hạch toán kế toán và lập báo cáo tài chính chưa đáp ứng đúng qui định, dẫn tới 
việc xúc tiến hồ sơ vay vốn còn nhiều lúng túng, bất cập. 
Các doanh nghiệp vẫn còn tình trạng nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng, nợ các 
tổ chức kinh tế, nợ thuế; mặc dù có nhu cầu bảo lãnh vay vốn để tiếp tục SX – KD 
nhưng không đủ điều kiện để được bảo lãnh, nên doanh nghiệp không tiếp cận với cơ 
chế bảo lãnh này. 
 Đối với các doanh nghiệp mới hoạt động, các doanh nghiệp chưa có quan hệ tín 
dụng với NHTM thường khó khăn trong việc tìm được ngân hàng chấp thuận cho vay có 
bảo lãnh của NHPT. 
+ Những nguyên nhân thuộc về NHPT 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 142
Hiện tại NHPT mới thực hiện bảo lãnh theo phương thức cho vay từng lần trong 
khi đó các NHTM chủ yếu cho vay theo hạn mức do rất khó khăn trong việc phối hợp 
với NHTM để thực hiện bảo lãnh; 
 NHPT có các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, trong đó cơ chế bảo lãnh thay đổi, thủ 
tục để doanh nghiệp được bảo lãnh và được NHPT chấp thuận thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh 
phức tạp cũng hạn chế đến công tác bảo lãnh, các doanh nghiệp có tâm lý ngần ngại trong 
việc đề nghị bảo lãnh do thủ tục hồ sơ nhiều, thời gian xét cấp bảo lãnh chậm 
Mặt khác, trong văn bản hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng của 
NHPT thì doanh nghiệp phải dùng chính tài sản hình thành từ vốn vay được bảo lãnh để 
làm tài sản thế chấp, tuy nhiên những doanh nghiệp này đang gặp khó khăn về điều kiện 
để được bảo lãnh, không có đủ tài sản thế chấp cho khoản vay tại NHTM, do đó điều 
kiện này khiến các doanh nghiệp không có đủ tài sản để đảm bảo cùng một lúc cho cả 
NHPT và NHTM. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp không 
đủ điều kiện để được bảo lãnh vay vốn. 
3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG 
BẢO LÃNH TÍN DỤNG TẠI NHPT VIỆT NAM – CHI NHÁNH THANH HÓA 
Qua kết quả phân tích trên, để hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động bảo 
lãnh tín dụng, Chi nhánh NHPT Thanh Hóa nên thực hiện một só giải pháp sau: 
3.1. Đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ cho khách hàng 
Việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách bảo lãnh tín dụng của Chi nhánh 
nên theo hướng hạn chế rủi ro trong hoạt động bảo lãnh cho NHPT. Qui trình nghiệp vụ 
bảo lãnh phải đơn giản, gọn nhẹ để thu hút được các doanh nghiệp, các NHTM và “cởi 
trói” cho chính NHPT. Các thủ tục, qui trình nghiệp vụ mới nên đi theo hướng đơn giản 
hoá các nội dung và giảm bớt số lượng hồ sơ, giấy tờ mà doanh nghiệp phải lập. 
3.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định bảo lãnh tín dụng 
Quá trình thẩm định cần phải bám sát quy chế, quy trình; cán bộ tín dụng cần 
phải đủ năng lực chuyên môn để đánh giá, phân tích hồ sơ, mức dộ tin cậy của các số 
liệu ban đầu mà doanh nghiệp cung cấp, tư vấn cho doanh nghiệp xác định được định 
hướng, phương án đầu tư rõ ràng, lựa chọn phương án phù hợp với năng lực tài chính. 
Đặc biệt phải tính đúng, tính đủ nhu cầu vốn đầu tư để tránh tình trạng sử dụng vốn vay 
lãng phí, kém hiệu quả. Tư vấn giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực lập hồ sơ xin được 
bảo lãnh vay vốn. Mặt khác phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay 
để hạn chế rủi ro. 
3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ngân hàng Phát triển Việt 
Nam – Chi nhánh Thanh Hoá 
Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng bị giới hạn bởi các quy định của Chính phủ, của 
NHPT Việt Nam, NHNN, do đó chất lượng phục vụ khách hàng của đội ngũ cán bộ sẽ là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
143
yếu tố hàng đầu giúp Chi nhánh hoạt động có hiệu quả đúng như chính sách của Đảng và 
Nhà nước. Bởi vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ là hoạt động cần thiết để nâng cao hiệu quả 
hoạt động bảo lãnh tín dụng. Công tác đào tạo tập trung nguồn nhân lực của Chi nhánh 
NHPT Thanh Hoá nên tập trung vào các vấn đề chính sau: 
Chú trọng công tác tuyển chọn cán bộ ngay từ giai đoạn đầu. 
Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tập trung vào việc nâng cao trình độ, nắm vững các 
văn bản pháp luật và các quy tắc áp dụng trong giao dịch bảo lãnh nhằm đáp ứng nhu cầu 
phát triển hoạt động giao dịch với khách hàng. 
 Cử cán bộ, nhân viên đi học tập kinh nghiêm về công tác bảo lãnh tín dụng ở các 
Chi nhánh tỉnh, thành phố khác trong cùng hệ thống. 
3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh tín dụng 
 Hiện nay, Chi nhánh NHPT Thanh Hoá cũng như toàn hệ thống chưa xây dựng 
được trung tâm dữ liệu thông tin về khách hàng, chưa thiết lập được cơ chế công bố 
thông tin đầy đủ về doanh nghiệp, dự án đầu tư, phương án SX – KD... cần được bảo 
lãnh vay vốn của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt thông tin về khách hàng 
khi thẩm định, theo dõi quản lý tín dụng. Mặc dù NHPT là một tổ chức hoạt động ở lĩnh 
vực ngân hàng nhưng lại chưa kết nối thông tin với Trung tâm thông tin tín dụng của 
Ngân hàng Nhà nước (CIC), vì vậy NHPT rất khó nắm bắt các khoản nợ vay của doanh 
nghiệp tại các NHTM khác. 
Mặt khác, hệ thống thanh toán của NHPT chưa chuẩn mực đang bước đầu hoà 
nhập và hoàn thiện, chưa đồng bộ, chưa triển khai hệ thống thanh toán quốc tế nên chưa 
thể kiểm soát được nguồn thu của khách hàng để thu nợ kịp thời. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, 
công nghệ thông tin còn hạn chế và NHPT chưa xây dựng được bộ máy quản lý rủi ro 
chuyên biệt. Công tác phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro còn nhiều bất cập. 
Công tác xử lý nợ thực hiện chậm và kém hiệu quả. Chính vì vậy, NHPT Việt Nam cần 
phải ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động thẩm định, thanh toán, theo dõi 
thu hồi nợ, quản lý thông tin về khách hàng... để các Chi nhánh trong hệ thống phục vụ 
cho hoạt động bảo lãnh tín dụng cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác được tốt hơn. 
 4. KẾT LUẬN 
Chính sách bảo lãnh tín dụng của Chính phủ ra đời là nhằm hỗ trợ cho các doanh 
nghiệp, HTX thoát khỏi tình trạng khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế trong và 
ngoài nước. Đây là một trong những chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội của đất 
nước trong gói giải pháp kích cầu của Chính phủ được giao cho NHPT Việt Nam chịu 
trách nhiệm thực hiện. Đối với Chi nhánh NHPT Thanh Hoá mặc dù đã rất nỗ lực trong 
việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ giao và đã bước đầu được những kết quả rất đáng 
khích lệ. Tuy nhiên để Chi nhánh NHPT Thanh Hoá phát huy hết tiềm năng, khai thác 
hết lợi thế của mình trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền 
kinh tế trong thời gian tới thì cần phải hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh 
tín dụng tại Chi nhánh. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Báo cáo hoạt động bảo lãnh tín dụng năm 2009, 2010 – Phòng tín dụng, Chi 
nhánh NHPT Thanh Hoá. 
[2] Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ bảo lãnh doanh nghiệp, HTX vay vốn của 
NHTM của NHPT Việt Nam (2009). 
[3] Đinh Quang Hưng – “Tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện bảo lãnh cho doanh 
nghiệp vay vốn của NHTM”. Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 35/2009. 
[4] Đào Ngọc Thắng – “Nhìn lại hoạt động bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn 
NHTM do NHPT thực hiện trong năm 2009”. Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 
Xuân/2010. 
[5] Phạm Thu Hà - “Bảo lãnh vay vốn – Ba vấn đề cần quan tâm trong mối liên hệ 
ba bên”. Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 49/2010. 
[6] Quyết định 14/2009/QĐ-TTg (ngày 21 tháng 1 năm 2009) của Thủ tướng Chính 
phủ. 
[7] Quyết định số 60/2009/QĐ - TTg (ngày 17-4-2009) của Thủ tướng Chính Phủ 
sửa đổi một số điều của Quyết định 14/2009/QĐ – TTg. 
SOLUTIONS TO ENHANCE THE EFICIENCY OF CREDIT 
GUARANTEE AT VIETNAM DEVELOPMENT BANK – THANH 
HOA BRANCH 
ABSTRACT 
 In the context of the economy affected by the global economic and financial 
crisis, small and medium enterprises really need loans from commercial bank in order to 
implement their responsibilities to the State, unemployment aids, insurance payment, etc. 
Due to this reality, Vietnam Development Bank – Thanh Hoa Branch has carried out 
credit guarantee for enterprises in accordance with the Regulations of Government. 
However, it is very dificult for approach the credit guarantee policy of development bank 
as well as loans from commercial bank. The paper stadies the fundamentals of credit 
guarantee and proposes major solutions to enhance the efficiency of credit guarantee 
activities at Vietnam Development Bank – Thanh Hoa Branch 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_hoat_dong_bao_lanh_tin_du.pdf