Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên qua dạy học các môn khoa học Mác-Lênin

Sinh viên (SV) Việt Nam là đội ngũ thanh niên trí

thức, có trọng trách tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa

học và lao động trí óc cho đất nước trong thời kì quá độ

lên chủ nghĩa xã hội. Để giáo dục tinh thần cách mạng,

vũ khí lí luận, lập trường giai cấp công nhân cho SV, bên

cạnh việc giáo dục các môn Khoa học xã hội thì việc giáo

dục thế giới quan duy vật biện chứng là rất cần thiết. Hiện

nay, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chất lượng giáo

dục các môn Khoa học Mác-Lênin còn nhiều hạn chế. Để

nâng cao hiệu quả giáo dục các môn khoa học này, phải

tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất hệ thống các giải pháp

đồng bộ mang tính khách quan, chủ quan.

Bài viết nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp cơ bản

nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật

biện chứng cho SV qua dạy học các môn Khoa học Mác Lênin.

pdf 5 trang kimcuc 4180
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên qua dạy học các môn khoa học Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên qua dạy học các môn khoa học Mác-Lênin

Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên qua dạy học các môn khoa học Mác-Lênin
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 270-274 
270 
Email: tranthivan6987@gmail.com 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC 
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN 
QUA DẠY HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC-LÊNIN 
Trần Thị Vân - Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 
Ngày nhận bài: 10/06/2018; ngày sửa chữa; 18/06/2018; ngày duyệt đăng: 30/06/2018. 
Abstract: At present, the quality of learning in Marxist-Leninism is still limited. For a variety of 
reasons, there are causes from students' perceptions. In order to educate the dialectical materialism 
worldview for students, it is necessary to recognise the importance of Marxist-Leninist sciences in 
the university system. The paper studies and proposes some solutions to improve quality of 
educating the worldview of dialectical materialism for students through teaching Marxism-
Leninism sciences. 
Keywords: Worldview, education quality, dialectical materialism, Marxism-Leninism. 
1. Mở đầu 
Sinh viên (SV) Việt Nam là đội ngũ thanh niên trí 
thức, có trọng trách tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa 
học và lao động trí óc cho đất nước trong thời kì quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội. Để giáo dục tinh thần cách mạng, 
vũ khí lí luận, lập trường giai cấp công nhân cho SV, bên 
cạnh việc giáo dục các môn Khoa học xã hội thì việc giáo 
dục thế giới quan duy vật biện chứng là rất cần thiết. Hiện 
nay, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chất lượng giáo 
dục các môn Khoa học Mác-Lênin còn nhiều hạn chế. Để 
nâng cao hiệu quả giáo dục các môn khoa học này, phải 
tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất hệ thống các giải pháp 
đồng bộ mang tính khách quan, chủ quan. 
Bài viết nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp cơ bản 
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật 
biện chứng cho SV qua dạy học các môn Khoa học Mác-
Lênin. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Thay đổi nhận thức về vai trò, vị trí của các môn 
Khoa học Mác-Lênin 
Hiện nay, chất lượng học tập các môn Khoa học Mác-
Lênin còn nhiều hạn chế; do nhiều nguyên nhân khác 
nhau, trong đó có nguyên nhân nhận thức của SV. Một 
bộ phận không nhỏ SV chưa chú ý học tập các môn Triết 
học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin và Chủ 
nghĩa xã hội khoa học; chưa ý thức được vai trò và vị trí 
của các môn học này, tình trạng học đối phó, học vì điểm, 
học để thi còn phổ biến, dẫn đến chủ yếu là học thuộc 
lòng, học “vẹt” 
Vì vậy, cùng với việc học tập kiến thức chuyên môn, 
kĩ năng nghề nghiệp, SV phải được trang bị hệ thống tri 
thức lí luận đúng đắn. Bởi kiến thức lí luận khoa học là 
“kim chỉ nam”, chỉ phương hướng rèn luyện phẩm chất 
chính trị, đạo đức; hướng các em đến hành động thực 
tiễn nhân văn, tiến bộ, khoa học. Đối với nhà trường, để 
thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cần loại bỏ tư 
tưởng “môn chính, môn phụ”. Thời gian tới, Bộ GD-
ĐT nên phát động phong trào “học tập toàn diện, nói 
không với học lệch”; kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh 
những biểu hiệu học tập “lệch” từ học sinh cũng như 
tác động tiêu cực của phụ huynh. Công tác kiểm tra, 
chỉnh đốn của cấp trên cần được tăng cường về dạy học 
toàn diện của các cơ sở giáo dục. 
Như vậy, để giáo dục thế giới quan duy vật biện 
chứng cho SV hiện nay, cần phải thay đổi nhận thức của 
mọi người trong toàn ngành và cả xã hội; cần giúp cho 
các cấp lãnh đạo, quản lí, giảng viên (GV), SV và cả phụ 
huynh nhận thức đúng đắn về vị trí và vai trò của các môn 
Khoa học Mác-Lênin trong hệ thống các môn học ở 
trường đại học. 
2.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá các 
môn Khoa học Mác-Lênin phù hợp với học chế tín chỉ 
Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí 
thư đã nhấn mạnh: “Đổi mới việc học tập lí luận chính 
trị trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm tạo bước tiến 
mới, có kết quả, chất lượng cao hơn, góp phần làm cho 
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường 
lối, quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong đời 
sống xã hội” [1; tr 1]. Đổi mới phương pháp dạy học theo 
tín chỉ là một đòi hỏi của thực tế khách quan và không 
ngoài mục đích nâng cao chất lượng đào tạo SV đại học 
hiện nay. Nghị quyết số 37/NQ-TW nhấn mạnh sự cần 
thiết “đổi mới nội dung, chương trình giáo dục chủ nghĩa 
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu 
cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, gắn lí luận với 
thực tiễn, khắc phục sự trùng lắp, khép kín...” [2]. 
Phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ được Bộ 
GD-ĐT chỉ đạo các trường đại học thực hiện từ năm 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 270-274 
271 
2008 đối với tất cả các ngành học, trong đó có các môn 
Khoa học Mác-Lênin. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp 
giảng dạy cũng như đánh giá chất lượng dạy học của các 
môn học này phù hợp với học chế tín chỉ là điều rất cần 
thiết. Để khắc phục những bất cập, nâng cao chất lượng 
và hiệu quả học các môn Khoa học Mác-Lênin của SV 
hiện nay cần tập trung vào các vấn đề cụ thể sau: 
2.2.1. Kết hợp giữa việc kết cấu lại nội dung chương trình 
với việc áp dụng học chế tín chỉ hợp lí cho các môn Khoa 
học Mác-Lênin 
Từ thực tiễn giảng dạy, tác giả nhận thấy nên chăng 
cần tách 3 bộ phận trong môn Những nguyên lí cơ bản 
của chủ nghĩa Mác-Lênin thành 3 môn học như trước 
đây. Nội dung các môn học này cũng cần thay đổi, 
chương trình mới vẫn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm 
trọng tâm, nhưng cũng cần đề cập những trào lưu tư 
tưởng triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội trước 
đó và cả những trào lưu tư tưởng đương đại. Qua đó SV 
sẽ được tiếp cận logic về sự ra đời học thuyết Mác-Lênin; 
thấy được những giá trị to lớn của học thuyết này trong 
mối tương quan với các trào lưu tư tưởng khác trong lịch 
sử và đương đại. 
Cùng với việc kết cấu lại nội dung chương trình, việc 
tổ chức học các môn Khoa học Mác-Lênin theo học chế 
tín chỉ phải được thực hiện khoa học, không rơi vào hình 
thức; phải lấy “SV làm trung tâm”, phát huy được tính 
chủ động, sáng tạo của người học. Các lớp học cần được 
sắp xếp hợp lí về thời gian, không gian, địa điểm, không 
ghép lớp học thành lớp quá đông. Bên cạnh đó, cần chú 
trọng đến khâu đánh giá kết quả học tập của SV; các tiêu 
chí kiến thức và thang điểm cần bảo đảm tính khách 
quan, khoa học, công bằng và tính phân loại. 
2.2.2. Về đổi mới phương pháp giảng dạy 
Các môn Khoa học Mác-Lênin là những môn học 
đầu tiên mà tất cả các SV mới bước chân vào giảng 
đường đại học được tiếp cận nên họ còn bỡ ngỡ và chưa 
thay đổi kịp với môi trường học mới. Hơn nữa, là một 
trong những môn đặc thù, rất trừu tượng, khô khan và 
khó hiểu; vì vậy, đòi hỏi GV cần biết cách kết hợp các 
phương pháp khác nhau tốt hơn nữa nhằm thu hút, tạo 
hứng khởi cho SV. Để làm được điều này, GV phải nắm 
vững chuyên môn, phải cung cấp toàn bộ những thông 
tin liên quan đến môn học, như: lịch giảng dạy, tài liệu 
tham khảo, định hướng cho SV và cách thức đánh giá 
học phần; trên cơ sở đó, SV có thể chủ động sắp xếp thời 
gian biểu của mình hợp lí. Cụ thể: 
- Giảng dạy theo chủ đề và nêu vấn đề: Đây là môn 
học có các nội dung không tách rời nhau, nằm trong tính 
thống nhất với nhau nên trước khi giảng về nội dung mới, 
GV cần hệ thống lại những nội dung trước có liên quan 
đến bài học nhằm giúp SV có kiến thức logic và dễ dàng 
tiếp cận bài học mới tốt hơn. 
Trong quá trình giảng dạy, GV không dạy theo chương 
mục của giáo trình mà phải xây dựng các chủ đề khác nhau 
trong toàn bộ nội dung môn học theo quy trình của bộ 
môn. Từ đó, tiến hành giảng dạy theo hướng nêu vấn đề 
và gợi mở cho SV đi sâu nghiên cứu các vấn đề đặt ra. Để 
thu hút SV, trong quá trình giảng dạy, GV đưa ra những ví 
dụ sát với cuộc sống hiện thực nhằm giảm bớt độ trừu 
tượng của môn học; đưa ra các câu hỏi buộc SV phải suy 
nghĩ về vấn đề đang tiếp cận và cho điểm trực tiếp đối với 
những SV tham gia trả lời câu hỏi nhằm kích thích tư duy 
của SV. Sau khi giảng giải những vấn đề chính của nội 
dung, GV phải chốt lại những vấn đề chính của bài học và 
trao đổi trực tiếp với SV một cách thẳng thắn, dân chủ trên 
tinh thần nâng cao chất lượng của người học. 
- Nâng cao hiệu quả của phương pháp thảo luận: 
Tùy thuộc vào số lượng SV của mỗi lớp học, GV phân 
chia các nhóm tham gia thảo luận phù hợp. Mỗi nhóm sẽ 
lựa chọn một chủ để bất kì trong toàn bộ chương trình 
học để làm rõ giá trị về mặt lí luận và sự vận dụng trong 
đời sống thực tiễn. GV phải kiểm tra chủ đề của các 
nhóm lựa chọn, góp ý về tên chủ đề, cách thức quy trình 
làm một bài tiểu luận khoa học (trực tiếp hoặc qua 
Email). Với cách làm việc này, ngoài việc giúp SV nắm 
vững về nội dung môn học, GV còn giúp các em có được 
các kĩ năng thao tác và quy trình làm bài kiểm tra, bài thi 
hết học phần. Trong quá trình tiến hành thảo luận, mỗi 
nhóm sẽ có thời gian quy định để thuyết trình, các nhóm 
còn lại sẽ đóng góp ý kiến, phản biện, đưa ra câu hỏi về 
bài thuyết trình, trao đổi trực tiếp với nhóm đang trình 
bày; các thành viên nhóm được hỏi sẽ chia nhau để chuẩn 
bị câu trả lời và trả lời tuần tự ngay sau đó. Với cách thức 
này, tất cả các thành viên sẽ phải làm việc, trau dồi kĩ 
năng làm việc nhóm ngày càng tốt hơn. 
Khi chấm bài thuyết trình của nhóm, GV cần lắng nghe 
và lựa chọn các câu hỏi của các nhóm còn lại, đưa ra những 
gợi ý cho tất cả các nhóm khi có những vấn đề khó và trừu 
tượng; thường xuyên hỏi bất kì thành viên nào trong nhóm 
về nội dung chuẩn bị bài thuyết trình nhằm kiểm tra sự 
chuẩn bị trong quá trình làm việc nhóm của mỗi thành 
viên. Sau khi mỗi nhóm thuyết trình, GV cần chốt lại 
những vấn đề được và chưa được, giải đáp những khúc 
mắc của SV và rút ra nhận xét, đánh giá cuối cùng. 
- Về phương pháp đánh giá kết quả môn học: Nhằm 
phù hợp với chương trình, tiến trình đổi mới phương 
pháp giảng dạy, thay vì đánh giá thi cuối kì như trước đây 
nên tiến hành đánh giá cả quá trình học tạo ra tính chủ 
động cho người học và người dạy. Trong mỗi một học 
phần, nên thực hiện 2 lần kiểm tra: lần 1 kiểm tra theo 
hình thức tự luận nhằm kiểm tra tính sáng tạo trong việc 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 270-274 
272 
vận dụng vấn đề môn học vào trong hoạt động thực tiễn; 
lần 2 tiến hành với hình thức trắc nghiệm đối với toàn bộ 
kiến thức học phần để kiểm tra việc nắm vững những 
kiến thức cơ bản đối với học phần của SV. Việc kiểm tra 
trắc nghiệm được tiến hành trong tuần học cuối cùng của 
học phần. Bên cạnh 2 bài kiểm tra, GV sẽ có một cột 
điểm đánh giá mức độ chuyên cần của SV trong việc 
chuẩn bị bài, tích cực tham gia thảo luận, thuyết trình, 
phát biểu để khuyến khích SV học tập. Ngoài ra, việc 
thiết kế đề thi kết thúc môn học nên có những câu liên 
quan đến những vấn đề thực tiễn nhiều hơn giúp SV gắn 
kiến thức lí luận với những vấn đề của cuộc sống. 
2.2.3. Cải thiện môi trường và điều kiện học tập, sinh 
hoạt của sinh viên 
Qua kết quả điều tra SV Trường Đại học Kiến trúc 
Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại 
học Bách khoa Hà Nội cho thấy, bên cạnh những lí do 
chính thúc đẩy các em trong học tập như: đam mê với 
ngành học, ý thức được tầm quan trọng của ngành học; 
bạn bè động viên, thúc ép; thì những yếu tố về môi trường 
học tập, điều kiện học tập, sinh hoạt cũng ảnh hưởng đến 
quá trình học tập của các em. Có đến 43,3% SV được 
điều tra cho rằng: chương trình học hiện nay quá nặng, 
ảnh hưởng đến việc học tập của họ, cộng với 35,3% 
ngoài thời gian lên lớp SV phải đi làm thêm, gần 23% 
SV có hoàn cảnh gia đình khó khăn, 16,3% chưa có chỗ 
ở ổn định và 22,3% chưa có phương tiện đi lại thuận tiện; 
chính những khó khăn đó đã khiến SV chưa có nhiều thời 
gian cho việc tự học (50,3%). 
Môi trường học tập là những tác động kích thích đa 
dạng (cả bên ngoài và bên trong) góp phần quyết định 
cho sự tập trung vào việc học tập của SV. Vì vậy, cải 
thiện cơ sở vật chất, trang bị hoàn thiện môi trường học 
tập sẽ giúp SV thoải mái, vui vẻ, hứng thú để học. Cần 
phải có những biện pháp tác động giúp SV phát huy 
những thuận lợi và khắc phục những khó khăn. Chẳng 
hạn, nhà trường cần tư vấn cho SV nắm rõ các chương 
trình hỗ trợ học phí, vay vốn, học bổng, các chính sách 
xã hội cho SV; khuyến khích SV tham gia các nghiên 
cứu khoa học để rèn luyện kĩ năng. 
Về cơ sở vật chất và phương tiện giảng dạy, nhà 
trường nên bố trí lớp học không quá nhiều SV; thường 
xuyên kiểm tra toàn diện hệ thống máy chiếu, âm thanh 
ở các giảng đường, sửa chữa kịp thời để phục vụ tốt cho 
công tác giảng dạy; thường xuyên tổ chức cho GV Lí 
luận chính trị đi tham quan thực tế để có tư liệu thực tiễn 
phong phú phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. 
Về phía GV, ngoài việc dạy SV về kiến thức chuyên 
ngành, GV còn phải giáo dục SV về các vấn đề xã hội, 
tâm sinh lí SV, mối quan hệ xã hội, định hướng tương lai 
và rất nhiều vấn đề SV có thể gặp phải trong cuộc sống 
bằng những trải nghiệm của bản thân; phải tạo cho SV 
cảm nhận GV không chỉ là người thầy mà còn là một 
người bạn, người thân hay một chuyên gia tư vấn giúp 
các em vượt qua những khó khăn trong học tập, cuộc 
sống. GV cần tổ chức, khuyến khích SV làm việc theo 
nhóm để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, tổ chức, thuyết 
phục, trình bày; đồng thời, SV sẽ gắn bó, gần gũi, quan 
tâm và giúp đỡ nhau hơn. GV cần theo dõi và quan sát 
những SV có biểu hiện khác thường, mất tập trung để 
kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ SV vượt qua khó khăn. Lập các 
địa chỉ Email, Zalo, Viber, Facebook để thầy và trò 
cùng chia sẻ kinh nghiệm nhằm hiểu nhau hơn, rút ngắn 
khoảng cách thầy trò, tạo sự thoải mái trong quá trình dạy 
và học; từ đó sẽ có những giờ giảng sinh động, SV thấy 
thoải mái, vui vẻ mà vẫn nắm được kiến thức, tránh tình 
trạng bỏ tiết. GV cung cấp cho SV các tài liệu, giáo trình, 
giới thiệu những địa chỉ bán sách hay tài liệu giúp ích cho 
việc học tập của SV. Hỗ trợ, giúp đỡ SV khi có vướng 
mắc về môn học. Khuyến khích SV tham gia các câu lạc 
bộ học tập, các phong trào tình nguyện, văn hóa văn 
nghệ, thể dục thể thao Tất cả những điều đó góp phần 
quan trọng vào việc giáo dục thế giới quan duy vật biện 
chứng cho SV. 
2.3. Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng 
tạo của sinh viên trong quá trình học tập các môn Khoa 
học Mác-Lênin 
2.3.1. Giúp sinh viên xác định được học tập là mục tiêu 
tự thân 
Chất lượng dạy và học các môn Khoa học Mác-Lênin 
chỉ có thể được nâng cao khi SV tự xác định được mục 
tiêu của học tập là cho bản thân mình, vì bản thân. Vì 
vậy, trong quá trình giảng dạy, thảo luận, GV cũng như 
nhà trường cần giúp SV xác định được mục tiêu cơ bản 
của việc học tập là “học để biết, học để làm, học để chung 
sống và học để tồn tại”. 
Các môn Khoa học Mác-Lênin là những môn lí luận, 
với tính trừu tượng cao nên việc cụ thể hóa lí thuyết bằng 
cách liên hệ với các vấn đề trong thực tiễn sẽ giúp các em 
dễ hiểu, dễ tiếp thu và vận dụng dễ hơn. Do vậy, trong 
giảng dạy cần kết hợp giữa “học” và “hành” để SV phát 
huy tính chủ động của mình. Ví dụ: “Bình luận quan 
điểm: trong thời đại ngày nay, những phát minh khoa 
học nhanh chóng được ứng dụng vào sản xuất, các xí 
nghiệp sử dụng máy móc tự động hóa, tỉ trọng lao động 
sống giảm đi, lợi nhuận của nhà tư bản không vì thế mà 
giảm đi, trái lại ngày càng tăng. Vì vậy, cả máy móc, 
công nghệ hiện đại và sức lao động đều tạo ra giá trị 
thặng dư”. Để giải quyết vấn đề này, SV buộc phải trở 
lại phân tích nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư, 
đánh giá vai trò của máy móc (tư bản bất biến) và sức lao 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 270-274 
273 
động (tư bản khả biến) trong quá trình tạo ra giá trị và giá 
trị thặng dư. Trên cơ sở đó, SV sẽ lí giải được hiện tượng 
diễn ra trong thực tế. Đó là tại sao những xí nghiệp sử 
dụng máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại lại thu được lợi 
nhuận cao (vấn đề này đã được C. Mác phân tích rõ khi 
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư tương đối). Khi ứng 
dụng máy móc, công nghệ hiện đại vào sản xuất sẽ làm 
cho năng suất lao động tăng, giá trị cá biệt của hàng hóa 
giảm xuống thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó. Khi 
đưa hàng hóa đó ra bán trên thị trường theo giá trị xã hội 
nhà tư bản thu được giá trị thặng dư siêu ngạch dưới hình 
thức lợi nhuận siêu ngạch. Ngoài ra, do sử dụng máy móc 
hiện đại làm cho sức sản xuất tăng lên, khối lượng sản 
phẩm tạo ra nhiều hơn trong cùng một đơn vị thời gian 
nên khối lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được 
cũng lớn hơn. Máy móc hiện đại là phương tiện để làm 
tăng sức sản xuất của lao động. Như vậy, máy móc, công 
nghệ hiện đại chỉ là điều kiện quan trọng để thu lợi nhuận 
siêu ngạch thông qua quá trình lưu thông tư bản dưới sự 
tác động của cạnh tranh, còn lao động sống của công 
nhân là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư. 
Với vấn đề thảo luận đưa ra, nếu làm rõ được vấn đề 
này sẽ làm SV hứng thú hơn trong các giờ thảo luận, vì: 
- Khơi gợi tính tò mò, khám phá của SV; - Giúp SV hiểu 
và củng cố kiến thức lí thuyết; - Hiểu và lí giải được bản 
chất hiện tượng diễn ra trong thực tiễn, từ đó rút ra ý 
nghĩa thực tiễn. Từ đó, SV sẽ tự nhận thức được 
rằng: học tập là mục tiêu tự thân, bản thân cần phải nỗ 
lực học tập để biết, để làm, để hoà nhập cộng đồng và để 
tồn tại. 
2.3.2. Xây dựng ý thức tự học cho sinh viên 
Ý thức tự học của SV là nhân tố quyết định chất 
lượng dạy, học nhất là khi nhà trường chuyển sang 
phương thức đào tạo theo tín chỉ. Theo quy định của Bộ 
GD-ĐT, đối với các môn Khoa học Mác-Lênin, tỉ lệ giờ 
tự học chiếm 2/3 tổng số giờ lên lớp, do đó tri thức mà 
SV cần phải tiếp cận, tìm tòi được thực hiện ngoài giờ 
lên lớp. 
Để nâng cao năng lực tự học, SV cần tin tưởng vào 
khả năng tự học của mình; biết tận dụng triệt để các yếu 
tố khách quan, nhất là sự hướng dẫn của GV, sự giúp đỡ 
của bạn bè. Cụ thể, cần xác định được mục đích, động 
cơ, nhu cầu học tập; xây dựng thời gian biểu hợp lí giữa 
các môn học, địa điểm, thời gian, hình thức tự học... Có 
thể có sự điều chỉnh thời khóa biểu trong quá trình tự học 
nhưng phải có ý chí thực hiện thời gian biểu đã đặt ra, 
tránh trường hợp không thực hiện hoặc chỉ thực hiện 
được một thời gian đầu. Có phương pháp học tập khoa 
học trên lớp: lắng nghe GV, ghi chép, tập trung và phối 
hợp chặt chẽ các giác quan vào quá trình thu nhận thông 
tin từ thầy, bạn học, đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong 
quá trình học. SV phải biết cách tự thắc mắc và đặt câu 
hỏi thắc mắc với bạn bè, GV và những người am hiểu; 
trao đổi thường xuyên tài liệu tham khảo, sách, báo, băng 
hình...; tránh bệnh tự ti, ỷ lại, tâm lí dễ thỏa mãn. Đồng 
thời, phải biết kết hợp học tập với hoạt động giải trí, thể 
thao để giảm bớt áp lực trong quá trình tự học; cân đối 
giữa thời gian học và thời gian giải trí, tham gia hoạt 
động, vận động để tránh rơi vào tình trạng căng thẳng. 
Cùng với đó, GV có thể giúp SV nâng cao khả năng 
tự học của mình thông qua một số hoạt động cụ thể sau: 
Ngay ở phần mở đầu môn học, GV cần cung cấp cho SV 
đề cương về môn học; GV cùng SV sẽ làm việc theo 
đúng đề cương đã được chuẩn bị sẵn theo từng tuần, giúp 
SV biết được những nội dung mình cần chuẩn bị trước 
khi lên lớp. 
2.3.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên 
GV phải tạo cho SV cảm hứng học tập, say mê 
nghiên cứu, tạo sự áp lực học tập, nghiên cứu; đưa ra 
những yêu cầu học tập cụ thể, hướng dẫn, giới thiệu các 
nguồn tài liệu khác nhau và định hướng những kiến thức 
cần tiếp cận; trong quá trình giảng dạy cần khuyến khích 
SV trình bày các ý kiến độc lập, nhiều chiều để đi đến 
các kết luận khoa học. Với đặc thù của các môn Khoa 
học Mác-Lênin liên quan đến tư tưởng nên trao đổi giữa 
GV và SV cần phải cởi mở, mang tính dân chủ, không 
nên áp đặt một chiều. Cùng với đó, GV có thể tạo sự tham 
gia tích cực của SV bằng cách tăng cường đặt câu hỏi 
phụ liên quan đến nội dung thảo luận, khuyến khích SV 
đưa ra câu hỏi. Những câu hỏi mà SV đưa ra có thể để cả 
nhóm cùng giải quyết, sau đó GV tổng kết lại, hoặc đưa 
chúng vào nội dung thảo luận lần sau. Điều này sẽ 
khuyến khích SV tìm tòi, suy nghĩ đưa ra các ý kiến độc 
lập của mình, từ đó sẽ lĩnh hội kiến thức hiệu quả hơn. 
2.3.4. Đổi mới cách đánh giá sinh viên thông qua kiểm 
tra, đánh giá hoạt động học tập 
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV là một 
khâu quan trọng trong quá trình dạy học, đó cũng là động 
lực kích thích tính tích cực học tập của SV. Trong 
phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi việc 
kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành liên tục, khách 
quan và công bằng. Vì vậy, ngoài việc tiến hành làm bài 
kiểm tra giữa kì, bài thi hết môn, GV phải thường xuyên 
kiểm tra, đánh giá SV trong suốt quá trình học tập thông 
qua các hình thức kiểm tra đa dạng như: chấm bài chuẩn 
bị nội dung thảo luận của từng SV, đánh giá kết quả thảo 
luận theo nhóm... và kết quả đánh giá qua các hình thức 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 270-274 
274 
đó được tính vào điểm giữa kì. Đối với những SV tích 
cực phát biểu ý kiến, trả lời tốt các nội dung, ngoài việc 
đánh giá điểm thái độ, có thể tăng thưởng thêm điểm giữa 
kì. Điều này sẽ phát huy được tính chủ động, tích của SV. 
3. Kết luận 
Thế giới quan của SV là hệ thống các quan điểm của 
SV về thế giới và mối quan hệ của con người với thế giới. 
Hệ thống quan điểm này “dẫn lối, soi đường” cho hoạt 
động nhận thức và thực tiễn của SV. Do đó, hình thành 
cho SV một thế giới quan duy vật biện chứng là vấn đề 
cần quan tâm không chỉ của nhà trường, mà còn của gia 
đình và xã hội. Hơn nữa, sự phức tạp của bối cảnh thời 
đại khiến SV khó xác lập được quan điểm đúng đắn để 
định hướng cho hoạt động của bản thân nếu không được 
trang bị chắc chắn thế giới quan khoa học. Để việc giáo 
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho SV Việt Nam 
gặt hái được thành công, giúp SV nắm vững và học được 
cách vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ 
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động 
nhận thức và thực tiễn thì ngoài sự nỗ lực của GV bộ 
môn, rất cần có sự phối hợp đồng bộ và trợ giúp, quan 
tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, của các cấp ngành có 
liên quan và của toàn xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Kết luận số 94-
KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư về việc tiếp 
tục đổi mới việc học tập lí luận chính trị trong hệ 
thống giáo dục quốc dân. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Nghị quyết số 
37/NQ-TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về 
công tác lí luận và định hướng nghiên cứu đến 
năm 2030. 
[3] Akitốp (1985). Chủ nghĩa duy vật biện chứng. NXB 
Khoa học, Mátxcơva, tr 167. 
[4] Ngô Giang An (2012). Nghiên cứu biện pháp nâng 
cao hiệu quả tự học cho sinh viên trong mô hình đào 
tạo tín chỉ. Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại 
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. 
[5] Aphanaxiep (1984). Những nguyên lí của chủ nghĩa 
cộng sản khoa học. NXB Tiến bộ, Moscow, tr 228. 
[6] Nguyễn Lương Bằng (2002). Đổi mới phương pháp 
giảng dạy lí luận Mác-Lênin ở các trường đại học hiện 
nay. Tạp chí Lí luận chính trị, số 7, tr 25-19. 
[7] Nguyễn Trọng Chuẩn (2008). Nâng cao nhận thức, 
bổ sung và phát triển triết học Mác-Lênin nhằm đáp 
ứng yêu cầu của thực tiễn và của thời đại mở rộng 
giao lưu quốc tế. Tạp chí Triết học, số 9, tr 25-28. 
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ... 
(Tiếp theo trang 263) 
3. Kết luận 
Bộ môn NNLCB của chủ nghĩa Mác-Lênin ở các 
trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ hình thành thế giới 
quan, phương pháp luận khoa học và NL cần thiết cho 
SV, đây chính là “hành trang” để các em thực hiện nhiệm 
vụ ‘trồng người”. Do vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học 
bộ môn, GV cần kết hợp, vận dụng linh hoạt, nhuần 
nhuyễn các phương pháp dạy học, cũng như tích cực sử 
dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp 
cận NL; đặc biệt phải đo được NL GQVĐ của SV - NL 
quan trọng để các em giải quyết những vấn đề thực tiễn 
của cuộc sống. 
Tài liệu tham khảo 
[1] J.D. Branford (1984). The ideal problem solving. 
Freeman, New York. 
[2] Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên, 2001). Quá trình Dạy 
- Tự học. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[3] Từ Đức Thảo (2012). Rèn luyện năng lực giải quyết 
vấn đề cho học sinh trong dạy học Hình học ở 
trường trung học phổ thông. Luận án tiến sĩ Khoa 
học Giáo dục, Trường Đại học Vinh. 
[4] Nguyễn Đức Minh (2012). Một số vấn đề về đánh 
giá theo kiến thức, kĩ năng và theo năng lực của học 
sinh. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học 
giáo dục Việt Nam, số 84/2012, tr 12-16. 
[5] Nguyễn Văn Cường (2005). Phát triển năng lực 
thông qua phương pháp và phương tiện dạy học 
mới. NXB Đại học Sư phạm. 
[6] Phạm Quốc Huy (2012). Đổi mới phương pháp 
giảng dạy môn Những nguyên lí cơ bản của chủ 
nghĩa Mác - Lênin ở trường đại học nhằm phát huy 
tính tích cực, sáng tạo của sinh viên. Tạp chí Giáo 
chức Việt Nam, số 8, tr 22-24. 
[7] Bộ GD-ĐT (2012). Giáo trình Những nguyên lí 
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. NXB Đại học 
Sư phạm. 
[8] Lê Ngọc Sơn (2008). Dạy học Toán ở tiểu học theo 
hướng dạy học pháp hiện và giải quyết vấn đề. Luận 
án tiến sĩ Giáo dục học - Trường Đại học Sư phạm 
Hà Nội. 
[9] Nguyễn Thị Minh Châu (2018). Phát triển năng lực 
giải quyết vấn đề trong dạy học môn Những nguyên 
lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phần Kinh tế 
chính trị cho sinh viên. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt 
kì 2 tháng 5, tr 270-272; 257. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_giai_phap_co_ban_nham_nang_cao_chat_luong_giao_duc_th.pdf