Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay
An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự
nhiên 353.676 ha, trong đó có 297.872 ha đất sản
xuất nông nghiệp. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính
cấp huyện, thị xã, thành phố và 156 đơn vị hành
chính cấp xã, phường, thị trấn; có 18 xã biên giới,
36 xã dân tộc (Khmer 27 xã, Chăm 09 xã nằm
trên địa bàn 08 huyện), 35 xã khó khăn theo
Quyết định 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Dân số toàn Tỉnh là 2.142.709 người,
với 524.759 hộ. Hiện Tỉnh có 30 dân tộc, trong
đó, dân tộc thiểu số gồm có 29 dân tộc với
112.809 người, chiếm 5,26% dân số cả Tỉnh. Dân
tộc thiểu số có số dân khá đông là: Khmer có
90.271 người, (chiếm 4,2%); Chăm có 14.209
người (chiếm 0,66%); Hoa có 8.075 người (chiếm
0,37%).
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 47 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY Lê Thiện Minh1, Nguyễn Văn Cọp2 1Trường Đại học An Giang, 2Văn Phòng Tinh ủy, tỉnh An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 05/01/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 15/02/2018 Ngày chấp nhận đăng: 04/2018 Title: Some solutions to improve the effectiveness of poverty reduction policies in Khmer ethnic minority region in An Giang province Keywords: An Giang, poverty, poverty- alleviation, poverty-alleviation policy, Khmer ethnic group Từ khóa: An Giang, nghèo, giảm nghèo, chính sách giảm nghèo, dân tộc Khmer ABSTRACT To clarify the concept of hunger and poverty according to the perception in Vietnam and the world nowadays, the author focuses on researching and analyzing achievements and limitations as well as finding out its causes during conducting poverty-alleviation policies in Khmer ethnic group in An Giang province; Accordingly, the author proposes solutions in order to implement the policies more effectively in the future. TÓM TẮT Trên cơ sở làm rõ khái niệm đói, nghèo theo quan niệm của Việt Nam và thế giới hiện nay, tác giả bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích những thành tựu và hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân của nó trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay; qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp để nhằm thực hiện chính sách này đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới. 1. GIỚI THIỆU An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên 353.676 ha, trong đó có 297.872 ha đất sản xuất nông nghiệp. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố và 156 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn; có 18 xã biên giới, 36 xã dân tộc (Khmer 27 xã, Chăm 09 xã nằm trên địa bàn 08 huyện), 35 xã khó khăn theo Quyết định 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Dân số toàn Tỉnh là 2.142.709 người, với 524.759 hộ. Hiện Tỉnh có 30 dân tộc, trong đó, dân tộc thiểu số gồm có 29 dân tộc với 112.809 người, chiếm 5,26% dân số cả Tỉnh. Dân tộc thiểu số có số dân khá đông là: Khmer có 90.271 người, (chiếm 4,2%); Chăm có 14.209 người (chiếm 0,66%); Hoa có 8.075 người (chiếm 0,37%). Đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang có những đặc thù riêng về lịch sử và tôn giáo, sống tập trung ở 02 huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên (trên 80.000 người), số còn lại sống rải rác ở các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú. Hầu hết theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng rãi với đồng bào dân tộc Khmer các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 48 Campuchia. Trong kháng chiến, nơi đây là căn cứ địa cách mạng, chịu nhiều tàn phá, bà con người dân tộc Khmer chịu nhiều mất mát về người và của. Đến chiến tranh biên giới Tây Nam, bà con phải di chuyển về tuyến sau, khi trở về quê hương sau chiến tranh, hầu hết nhà cửa, ruộng vườn, đất đai đã bị giặc tàn phá, xáo trộn, gây khó khăn cho đời sống. Thêm vào đó, trình độ dân trí của bà con Khmer còn thấp, với tập quán sống tập trung theo phum, sóc; chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và làm thuê mướn theo mùa vụ đời sống vật chất và tinh thần của bà con còn thấp so với mặt bằng chung. Nghèo đói là một vấn đề kinh tế - xã hội mang tính toàn cầu, do đó giải quyết đói nghèo trở thành nhiệm vụ quan trọng của đất nước. Mặt khác, xoá đói, giảm nghèo cũng là một trong những chính sách xã hội cơ bản được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Vì vậy, việc triển khai, thực hiện tốt các chính sách giảm nghèo, nhất là chính sách giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà còn góp phần thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc, đảm bảo ổn định tình hình an ninh, chính trị của địa phương. Việc xác định giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện giảm nghèo, Tỉnh luôn tập trung quan tâm những vùng còn tỷ lệ hộ nghèo cao như vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Khmer với tinh thần: về chủ trương, phải đúng trọng tâm, đúng trọng điểm; về chỉ đạo, phải quyết liệt, biết khối lượng công việc, lực lượng thực hiện, thời hạn hoàn thành; về chủ trì, phải gương mẫu, tận tụy, sâu sát, dân chủ, sáng tạo nhưng đúng pháp luật của Nhà nước. Trong thời gian qua, việc triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2005 - 2015, tỉnh An Giang đã tập trung các nguồn lực, thực hiện nhiều chính sách, giải pháp giảm nghèo, an sinh xã hội; đem lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo hướng bền vững, đặc biệt là vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer có nhiều chuyển biến tích cực, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc rõ nét, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời sống của một bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc Khmer ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang còn nhiều khó khăn, chưa thật sự bền vững, đặc biệt là một số huyện miền núi, biên giới (Tri Tôn, Tịnh Biên) có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống vẫn chiếm tỷ lệ hộ nghèo khá cao qua các năm; tính chủ động của người nghèo dân tộc Khmer còn hạn chế, một bộ phận còn trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước không nắm bắt cơ hội để vươn lên thoát nghèo. Đặc biệt có nhiều hộ không có khả năng thoát nghèo (có người già yếu, cô đơn, không có con cháu, có người tàn tật nặng, người tâm thần); đời sống của một bộ phận người nghèo dân tộc Khmer chưa bảo đảm được mức tối thiểu và có sự chênh lệch giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước; hiện tượng tái nghèo vẫn còn phổ biến. Đồng thời, do đặc điểm kinh tế của An Giang chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (lúa, cá), chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, các yếu tố giá cả thị trường luôn tác động bất lợi cho người sản xuất, cùng với thiên tai, lũ lụt hằng năm, luôn làm biến động về tăng giảm hộ nghèo. Nghiên cứu các chính sách giảm nghèo và tác động của chính sách giảm nghèo sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về thực trạng nghèo, đói trong vùng đồng bào dân An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 49 tộc Khmer; qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay. 2. KHÁI NIỆM ĐÓI, NGHÈO 2.1 Khái niệm đói, nghèo của Việt Nam Căn cứ trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có thể đánh giá đói nghèo theo 4 chỉ tiêu chính: thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu sản xuất và vốn liếng để dành. Song, ở nước ta, do đặc thù của nền văn hóa và bản sắc dân tộc, nên quan niệm về đói, nghèo không chỉ đơn thuần đề cập vấn đề thu nhập vật chất mà còn liên quan đến khía cạnh bản sắc văn hóa, đạo đức, nhân văn Trong các tiêu chí như thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hưởng thụ văn hóa, thì tiêu chí thu nhập về kinh tế là đáng chú ý hơn cả. Ở nước ta, chỉ tiêu đánh giá hộ giàu, nghèo, đói, có thể dựa trên chỉ tiêu chính là thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng (hoặc năm) được đo lường bằng chỉ tiêu giá trị quy đổi hoặc hiện vật quy đổi. Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần túy. Đối với hộ dân cư ở nông thôn, thu nhập được tính bằng cách lấy doanh thu trừ đi chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo; ngoài ra còn căn cứ vào chỉ tiêu phụ là dinh dưỡng bữa ăn, mặc, nhà ở và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại. Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra khái niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Một cách hiểu khác: nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014, tr. 36). Ở Việt Nam, nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống (ăn, mặc, ở, đi lại...); nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét. Hộ nghèo được xem là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thỏa mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Trong khi đó, hộ đói được quan niệm là hộ có mức sống dưới mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ. Từ đây, khái niệm về chính sách xóa đói, giảm nghèo được định nghĩa như sau: Chính sách xóa đói, giảm nghèo là tổng thể các biện pháp chính sách của nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo đói, nhằm tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng địa An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 50 phương, khu vực, quốc gia (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014, tr. 36). Như vậy, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay. 2.2 Khái niệm đói, nghèo của thế giới Nhìn chung, mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo khổ và đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới hạn nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các quốc gia được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành. Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã đưa ra các khái niệm khác nhau về đói nghèo, nhưng nhìn chung, chúng không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định đói nghèo trong các khái niệm này là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người về ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau giữa các khái niệm là mức đo lường độ thỏa mãn cao hay thấp, mà mức đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Đáng chú ý là nhiều công trình nghiên cứu và nhiều quốc gia đã sử dụng khái niệm người nghèo của Tổ chức Liên Hợp Quốc. Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo định nghĩa này thì mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là không giống nhau. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (năm 2012), trên thế giới có khoảng 1,2 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014, tr. 35). Tại Hội nghị về chống đói, nghèo do Ủy ban Kinh tế - Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok (Thái Lan) vào tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”. Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: Ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhaghen, Đan Mạch vào năm 1995, đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 01 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phầm thiết yếu để tồn tại”. Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới còn đưa ra quan niệm, nghèo là một khái niệm đa chiều An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 51 vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất, nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực (Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang, 2008, tr. 1). 3. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI, THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY 3.1 Những thành tựu đạt được Trong định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta đã xác định: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 124 - 125). Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về công tác dân tộc như Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội miền núi, Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ( ... rở nên phân tán, ít mang lại hiệu quả trong giảm nghèo mà chỉ có tính động viên, khắc phục một vài khó khăn trước mắt. Chính sách giảm nghèo thường đặt mục tiêu cao, việc phê duyệt dự án thường dựa trên nhu cầu nhưng không dựa trên cân đối nguồn lực, làm cho nhiều đề án, chính sách luôn trong tình trạng không cấp đủ ngân sách. Điều này dẫn tới khó giải quyết dứt điểm, kém bền vững trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Bốn là, ngân sách dành cho giảm nghèo phân bổ chưa tương xứng giữa đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh tạo thu nhập cho người nghèo. Nguồn ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo phát triển sinh kế chưa 32.29 27.76 24.85 0 5 10 15 20 25 30 35 Đầu năm 2016 Cuối năm 2016 Cuối năm 2017 T ỷ lệ % An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 55 được chú trọng đúng mức, trong khi đó, việc xây dựng kết cấu hạ tầng tốn kém nhiều nhưng hiệu quả mang lại thấp đối với cả vùng, hoặc cơ hội hưởng lợi từ các công trình mang lại cho tất cả người dân trong vùng còn hạn chế. Thực tế, người nghèo ít có cơ hội hơn để hưởng lợi do công trình hạ tầng mang lại so với hộ không nghèo, do họ ít có điều kiện để đa dạng hóa sinh kế, qua đó khó tăng thu nhập để thoát nghèo. Năm là, nhiều hộ nghèo triền miên nhưng lại chưa có chính sách phù hợp đối với họ. Nhiều đồng bào dân tộc Khmer nghèo triền miên, đời sống rất thấp và không hoặc rất ít có điều kiện để thoát nghèo. Hầu hết những hộ này là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ở những nơi này do cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, trong khi điều kiện sản xuất nông nghiệp khó khăn và cơ hội chuyển đổi sang nghề khác rất thấp nên hầu hết thanh niên lớn lên lại làm nông nghiệp giống như cha mẹ mình và cái nghèo đeo bám họ từ đời này sang đời khác. Vì vậy, họ rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói không thoát ra được. Sáu là, nhiều hộ thoát nghèo nhưng lại rất dễ tái nghèo trở lại. Hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo rất dễ bị tái nghèo trở lại khi gặp phải những rủi ro hay cú sốc từ bên ngoài. Các rủi ro về thiên tai, thời tiết, dịch bệnh và rủi ro thị trường là những nguyên nhân chính làm cho hộ nghèo thoát nghèo không bền vững. Điều này cho thấy cần có các chính sách giảm nghèo và chính sách bảo hiểm cũng như chính sách giúp người dân giảm thiểu và thích ứng với rủi ro. Bảy là, chính sách giảm nghèo hiện tại chủ yếu tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo, chưa chú trọng đúng mức việc tăng phúc lợi cho người nghèo. Mặc dù thu nhập là chỉ tiêu quan trọng nhưng thu nhập cũng chỉ là điều kiện cần để nâng cao phúc lợi cho người dân nói chung và người nghèo nói riêng. Việc hỗ trợ để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng quan trọng không kém với việc hỗ trợ, tạo điều kiện để tăng thu nhập. 3.2.2 Nguyên nhân của hạn chế Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy những hạn chế trên đây là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau đây: * Nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, An Giang là tỉnh đông dân nhất Đồng bằng sông Cửu Long, vị trí địa lý cách xa trung tâm lớn, phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế của Tỉnh tăng trưởng chưa ổn định, thiếu bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, những giải pháp tạo việc làm có thu nhập cho người nghèo chưa cơ bản và thiếu ổn định (chủ yếu là sản xuất nhỏ gia đình); thị trường tiêu thụ, xuất khẩu nông sản gặp khó khăn, tình trạng “trúng mùa, rớt giá” diễn ra thường xuyên, gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và người dân. Mặt khác, thiên tai, lũ lụt hàng năm, luôn làm biến động về tăng giảm hộ nghèo, hàng năm hộ nghèo giảm nhiều nhưng phát sinh mới cũng cao. Thứ hai, địa bàn đầu tư chương trình, chính sách dân tộc là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới nên hầu hết đều gặp những khó khăn nhất định về cơ sở hạ tầng, môi trường sinh hoạt cũng như về trình độ dân trí. Thứ ba, việc thiếu nhà ở, đất ở của đồng bào dân tộc là do trước đây vùng đất này còn nhiễm phèn nặng, đất đai khó canh tác, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, thiếu hệ thống tưới tiêu, nên nhiều bà con đã bỏ đất đai, nhà ở đi nơi khác làm ăn sinh sống. Thứ tư, tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội nhất là trong vùng dân tộc, biên giới tiềm ẩn nhiều diễn biến phức tạp. Tình trạng tranh chấp, khiếu kiện có liên quan đến đất đai diễn biến phức tạp. An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 56 * Nguyên nhân chủ quan: Thứ nhất, việc triển khai các chính sách, dự án giảm nghèo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số đòi hỏi có nhiều nguồn vốn, suất đầu tư lớn. Trong khi đó, nguồn vốn phân bổ của Trung ương về địa phương để triển khai, thực hiện các chính sách dân tộc còn phân tán nhỏ lẻ, đầu tư dàn trải, không tập trung, kinh phí được cấp quá thấp không tương xứng với quy mô đòi hỏi được đầu tư của địa phương, từ đó, việc thực hiện chính sách chưa đạt hiệu quả cao, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc còn nhiều bất cập, chưa mang tính ổn định. Thứ hai, trình độ dân trí trong đồng bào dân tộc còn thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu, điểm xuất phát về kinh tế - xã hội thấp. Nhiều bà con dân tộc còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động phát huy hết nội lực, cố gắng vươn lên thoát nghèo. Thứ ba, ở vùng nông thôn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, việc sinh con thứ ba trở lên vẫn còn phổ biến, với quan niệm gia đình đông con sẽ có đủ nguồn nhân lực giúp ích cho việc canh tác, trồng trọt được thuận lợi; sau khi con cái lập gia đình, lại có nhu cầu có chỗ ở riêng, tách hộ. Ngoài ra, đa số người dân tộc nghèo thường đi làm thuê mướn theo thời vụ hoặc đi làm ăn xa, dài hạn. Những người này khi trở về hoặc những người từ nơi khác đến sinh sống lại có nhu cầu về nơi ở, nơi làm ăn, nên hộ gia đình thiếu nhà ở, đất ở tiếp tục phát sinh. Thứ tư, một số cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa chiến lược và vị trí, tầm quan trọng của công tác dân tộc. Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung ương và Tỉnh về thực hiện công tác dân tộc có nơi chưa thật tốt. Năng lực lãnh đạo của một số cấp uỷ, chính quyền ở những vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. Việc vận dụng, cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết của cấp trên thiếu sáng tạo, chưa sát với tình hình cơ sở. Một số địa phương (các phường, xã) còn chậm trong xây dựng kế hoạch xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, có đăng ký chỉ tiêu nhưng chưa đề ra giải pháp cụ thể, phù hợp để thực hiện các chỉ tiêu đó. Thứ năm, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số chưa đáp ứng yêu cầu. Cán bộ chính quyền, mặt trận, các đoàn thể ở địa bàn có đông đồng bào dân tộc phần lớn không biết nói tiếng dân tộc, am hiểu phong tục tập quán, sinh hoạt văn hoá của đồng bào còn ít, từ đó làm hạn chế công tác tuyên truyền, vận động, thực hiện chính sách, chương trình, dự án của Chính phủ. 4. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC TRIỂN KHAI, THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN GIANG 4.1 Phương hướng cơ bản Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác định: “Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo thêm nhiều việc làm. Nâng chất lượng dạy nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; nâng cao tỷ lệ xuất khẩu lao động chất lượng cao. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm sóc người có công, công tác bình đẳng giới và các quyền trẻ em. Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn 2016 - 2020) bình quân 1,5%/năm” (Tỉnh ủy An Giang, 2015, tr. 8). Đồng thời, phương hướng giải quyết vấn đề giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang, Tỉnh cần tập trung một số phương hướng cơ bản sau: Một là, đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức thực hiện công tác giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế. Nhà nước cần đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 57 trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Hai là, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer. Có chính sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp, các hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tham gia công tác giảm nghèo. Ba là, công tác giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2020, cần hướng tới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì người nghèo, tăng cường và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống ở các huyện nghèo, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Tạo cơ hội để người nghèo, hộ nghèo ổn định và đa dạng hóa việc làm, tăng thu nhập, đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo và duy trì thành quả của công cuộc giảm nghèo, hạn chế tái nghèo; giảm thiểu tình trạng gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa nông thôn và thành thị, các nhóm dân cư; tăng cường khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo; bảo vệ phụ nữ và trẻ em nghèo. Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các xã, thị trấn vùng dân tộc; nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện tốt chính sách dân tộc. 4.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc triển khai, thực hiện chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay Từ việc phân tích những thành tựu và hạn chế trên đây, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây: Một là, việc lồng ghép các chính sách giảm nghèo cần thực hiện ngay ở cấp Trung ương và cấp Tỉnh. Thực tế ở địa phương, hiện rất khó lồng ghép những chính sách xã hội và chính sách tài chính sử dụng vốn sự nghiệp vì mỗi chính sách lại do các cơ quan chủ trì khác nhau với quy trình, đối tượng, phạm vi, ngân sách, định mức, chế độ báo cáo, kiểm tra, giám sát khác nhau. Vì vậy, ngay ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, các chính sách có cùng nội dung cần được tích hợp, lồng ghép lại và do một cơ quan chủ trì thì sẽ có hiệu quả hơn và dễ thực hiện hơn. Hai là, để tháo gỡ tâm lý ỷ lại, Nhà nước cần giảm mạnh những hỗ trợ trực tiếp, cho không và chuyển dần sang hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ có thu hồi và nâng cao ý thức của người hưởng lợi; chú trọng tập trung ngân sách cho hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất kinh doanh để thoát nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người nghèo để giúp họ thoát nghèo bền vững; tạo điều kiện để người nghèo tham gia vào các chuỗi giá trị hàng nông sản; thay việc hỗ trợ sinh kế tản mạn, nhỏ lẻ hiện nay thành các tiểu dự án hỗ trợ sinh kế cho xã hội và có thời gian hoạt động đủ dài để xây dựng phương án sinh kế giảm nghèo theo điều kiện và khả năng của người dân. Ba là, chúng ta cần phân loại những hộ nghèo theo nguyên nhân nghèo, nhất là đối với những hộ nghèo triền miên để có chính sách phù hợp. Đối với nhóm hộ không có khả năng thoát nghèo cần có chính sách an sinh xã hội cụ thể như: nâng cao năng lực cho hộ nghèo, giúp cải thiện sinh kế thoát nghèo bền vững; mở rộng chính sách hỗ trợ sinh kế đối với những hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo; chuyển dần chính sách giảm nghèo từ việc chỉ tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58 58 sang việc tăng phúc lợi và tạo cơ hội cho người nghèo để giúp họ thoát nghèo bền vững. Bốn là, Nhà nước cần tăng cường chính sách giảm nghèo lồng ghép với các chính sách bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực tế cho thấy các hộ nghèo dễ bị tổn thương khi gặp các cú sốc từ bên ngoài (thiên tai, thời tiết, dịch bệnh, giá cả tăng thất thường), và cũng có phản ứng khác nhau trước những cú sốc đó để tránh rơi vào vòng luẩn quẩn. Năm là, các địa phương cần tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm nghèo, biểu dương, động viên kịp thời các gương điển hình có hiệu quả về giảm nghèo, đồng thời phê phán các trường hợp lợi dụng chính sách, không có ý chí vươn lên, không muốn thoát nghèo. Triển khai đồng bộ các giải pháp trên đây sẽ là một trong những điều kiện góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay cũng như sắp tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. (2012). Nghị quyết số 15-NQ/TW, Hội nghị lần thứ V về Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng. Ban Dân tộc tỉnh An Giang. (2013). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer từ năm 2000 đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: NXB. Chính trị Quốc gia. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang. (2014). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học về giảm nghèo bền vững ở An Giang: Cơ hội và thách thức. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang. (2008). Tài liệu tập huấn cán bộ giảm nghèo cấp tỉnh, huyện. Tỉnh ủy An Giang. (2013). Báo cáo số 151- BC/TU về việc đánh giá chính sách an sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn 1991 - 2013. An Giang: Văn phòng Tỉnh ủy. Tỉnh ủy An Giang. (2013). Chương trình hành động số 21-CTr/TU thực hiện Nghị quyết 15- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. An Giang: Văn phòng Tỉnh ủy. Tỉnh ủy An Giang. (2010). Nghị quyết số 09- NQ/TU về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. An Giang: Văn phòng Tỉnh ủy. Tỉnh ủy An Giang. (2015). Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng bộ tỉnh An Giang nhiệm kỳ 2015 - 2020. An Giang: Văn phòng Tỉnh ủy. Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang. (2011). Báo cáo số 234/BC-UBND về việc đánh giá kết quả giảm nghèo bền vững giữa kỳ giai đoạn 2011 - 2015. An Giang: Văn phòng UBND Tỉnh. Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang. (2016). Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bên vững tỉnh An Giang, giai đoạn 2016 - 2020. An Giang: Văn phòng UBND Tỉnh.
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_chu_yeu_nang_cao_hieu_qua_chinh_sach_giam_n.pdf