Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ

Với lý tưởng đấu tranh cho sự nghiệp giải

phóng con người, giải phóng giai cấp, giải

phóng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn

coi dân chủ vừa là phương tiện, vừa là mục

tiêu và động lực của các phong trào cách

mạng. Do đó, tư tưởng dân chủ là một trong

những cống hiến quan trọng về mặt lý luận

của C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin.*

Các nhà Kinh điển của chủ nghĩa Mác hiểu

khái niệm dân chủ trước hết với tính cách là

một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ

nhà nước. Chế độ dân chủ được hiểu là chế độ

nhà nước mà trong đó nhân dân là người nắm

quyền lực (theo nghĩa: dân chủ là quyền lực

thuộc về nhân dân). Trong tác phẩm Góp

phần phê phán triết học pháp quyền của

Hêghen viết năm 1843, C.Mác đã chỉ ra rằng

bản chất của chế độ dân chủ là nhà nước được

thể hiện ra như là một trong những tính quy

định của nhân dân; rằng chế độ nhà nước đó

ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó,

tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực

và được xác định là sự nghiệp của bản thân

nhân dân. Trong tác phẩm Phê phán cương

lĩnh Gôta (1875) C. Mác cũng chỉ rõ dân chủ

là chính quyền của nhân dân.

Ph.Ăngghen đã không thừa nhận chế độ thị

tộc là một thể chế dân chủ vì đó chưa phải là

một chế độ chính trị, mặc dù ông đã trích dẫn

những câu rất đẹp đẽ của Morgan về chế độ

này: “Toàn thể các thành viên của thị tộc đều

là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự

do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân

ngang nhau - cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự

đều không đòi hỏi những đặc quyền, ưu tiên

nào cả; họ kết thành một tập thể nhân ái, gắn

bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự

do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được

nêu thành công thức, nhưng vẫn là những

nguyên tắc cơ bản của thị tộc” [8,136]. Ông

gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”.

pdf 5 trang kimcuc 3160
Bạn đang xem tài liệu "Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ

Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 
 97
MỘT SỐ CHỈ DẪN CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN 
CHỦ NGHĨA MÁC VỀ DÂN CHỦ 
Đồng Văn Quân* 
 Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Bài báo khái quát những tư tưởng chính của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ với tính 
cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ một chế độ chính trị - chế độ dân chủ; là một giá trị 
của văn minh nhân loại - kết quả của sự phát triển lịch sử; là một phương thức tồn tại của xã hội 
hiện đại. Những chỉ dẫn của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin có ý nghĩa hết sức quan trọng trong 
việc nghiên cứu lý luận về dân chủ và giá trị của dân chủ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã 
hội ở nước ta hiện nay. 
Từ khóa: dân chủ, chính trị, văn minh, hiện đại, giá trị 
Với lý tưởng đấu tranh cho sự nghiệp giải 
phóng con người, giải phóng giai cấp, giải 
phóng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn 
coi dân chủ vừa là phương tiện, vừa là mục 
tiêu và động lực của các phong trào cách 
mạng. Do đó, tư tưởng dân chủ là một trong 
những cống hiến quan trọng về mặt lý luận 
của C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin.* 
Các nhà Kinh điển của chủ nghĩa Mác hiểu 
khái niệm dân chủ trước hết với tính cách là 
một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ 
nhà nước. Chế độ dân chủ được hiểu là chế độ 
nhà nước mà trong đó nhân dân là người nắm 
quyền lực (theo nghĩa: dân chủ là quyền lực 
thuộc về nhân dân). Trong tác phẩm Góp 
phần phê phán triết học pháp quyền của 
Hêghen viết năm 1843, C.Mác đã chỉ ra rằng 
bản chất của chế độ dân chủ là nhà nước được 
thể hiện ra như là một trong những tính quy 
định của nhân dân; rằng chế độ nhà nước đó 
ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, 
tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực 
và được xác định là sự nghiệp của bản thân 
nhân dân. Trong tác phẩm Phê phán cương 
lĩnh Gôta (1875) C. Mác cũng chỉ rõ dân chủ 
là chính quyền của nhân dân. 
Ph.Ăngghen đã không thừa nhận chế độ thị 
tộc là một thể chế dân chủ vì đó chưa phải là 
một chế độ chính trị, mặc dù ông đã trích dẫn 
những câu rất đẹp đẽ của Morgan về chế độ 
này: “Toàn thể các thành viên của thị tộc đều 
*
 Tel: 0912 021314, Email: quandongvan@gmail.com 
là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự 
do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân 
ngang nhau - cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự 
đều không đòi hỏi những đặc quyền, ưu tiên 
nào cả; họ kết thành một tập thể nhân ái, gắn 
bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự 
do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được 
nêu thành công thức, nhưng vẫn là những 
nguyên tắc cơ bản của thị tộc” [8,136]. Ông 
gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”. 
Sau này, V.I. Lênin đã khẳng định lại luận 
điểm của Ăngghen, coi dân chủ là một chế độ 
chính trị: “Trong những nhận định thông 
thường về nhà nước, người ta luôn luôn phạm 
một sai lầm mà Ph. Ăngghen đã căn dặn phải 
đề phòng. Sai lầm ấy là: người ta luôn luôn 
quên rằng thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu 
chế độ dân chủ và nhà nước tiêu vong cũng là 
chế dộ dân chủ tiêu vong” [1, 101]. 
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ chỉ thực 
sự xuất hiện dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, 
mặc dù một số yếu tố dân chủ đã có từ thời 
nguyên thuỷ. Khi giải thích về hội nghị thị 
tộc, Ph. Ăngghen đã sử dụng thuật ngữ dân 
chủ nhưng chỉ theo nghĩa so sánh để giúp 
chúng ta hình dung về cơ chế hoạt động của 
hội nghị này mà thôi. Ông nói: “Thị tộc có 
một hội đồng, tức hội đồng dân chủ của toàn 
thể các thành viên của thị tộc, trai cũng như 
gái, tất cả đều có quyền bầu cử như nhau” [8, 
136]. Chỉ khi bàn về nhà nước Aten, khái 
niệm dân chủ mới được Ph. Ăngghen sử dụng 
theo đúng nghĩa của nó: “Không phải chế độ 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 
 98
dân chủ đã làm Aten sụp đổ mà chính là 
chế độ nô lệ, tức là cái đã làm cho lao động 
của người công dân bị khinh thị - đã làm cho 
Aten sụp đổ” [8,179]. 
C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp cận khái niệm 
dân chủ, lúc đầu từ lập trường dân chủ cách 
mạng, sau đó chuyển dần sang lập trường 
cộng sản chủ nghĩa. Các ông đã dần làm rõ 
bản chất giai cấp của dân chủ, chỉ ra những 
đóng góp cũng như hạn chế của dân chủ tư 
sản, qua đó khẳng định sự sụp đổ tất yếu của 
nền dân chủ tư sản và sự thay thế nó bằng một 
nền dân chủ mới - dân chủ vô sản. 
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng hạn 
chế lớn nhất của dân chủ tư sản là nó bảo vệ 
cho chế độ sở hữu tư nhân, và do đó bảo vệ 
cho phe thiểu số. Vì vậy, giai cấp vô sản 
cần phải đập tan cơ sở kinh tế của dân chủ 
tư sản là chế độ sở hữu tư nhân đối với tư 
liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu: 
“Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ 
trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được 
dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi 
hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp 
đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự tồn 
tại của giai cấp vô sản” [6, 470]. 
Giai cấp vô sản, để trở thành “giai cấp thống 
trị”, cần phải làm cách mạng vô sản, phải 
“giành lấy dân chủ”” [6, 626]. Theo C. Mác, 
Ph. Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ 
vô sản, mới làm cho nhân dân lao động thực 
sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của 
mình. Để đạt được điều đó giai cấp vô sản cần 
tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, 
nhờ đó “nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ 
đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền 
thống trị của giai cấp vô sản. Muốn thế, có lẽ 
cần phải có một cuộc đấu tranh mới nữa, 
song cuộc đấu tranh mới đó nhất định sẽ kết 
thúc bằng thắng lợi của giai cấp vô sản” [6, 
469-470]. 
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra kiểu mẫu của 
dân chủ vô sản chính là Công xã Pa-ri, một 
hình thức tổ chức nhà nước do những người 
cộng sản lãnh đạo – một nhà nước của dân, do 
dân và vì dân – một nhà nước đã “loại bỏ toàn 
bộ hệ thống đẳng cấp chính trị và thay thế 
những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng 
những đầy tớ luôn luôn có thể bị bãi miễn; 
thay thế một trách nhiệm tưởng tượng bằng 
một trách nhiệm thực sự, vì những người 
được uỷ nhiệm này luôn luôn hành động dưới 
sự kiểm soát của nhân dân” [7, 719]. Ở đó 
mọi đặc quyền, đặc lợi đều bị xoá bỏ, quyền 
lực thực sự đều được chuyển giao vào tay 
nhân dân: “Chức vị xã hội không còn là sở 
hữu riêng của bọn bộ hạ của chính phủ trung 
ương nữa. Không những việc quản lý thành 
thị mà còn tất cả quyền định đoạt xưa kia 
thuộc nhà nước, đều chuyển vào tay Công xã” 
[7, 449-450]. 
Ngoài nội dung chính trị, theo C. Mác và Ph. 
Ăngghen, dân chủ còn luôn gắn liền với khát 
vọng tự do, bình đẳng, công bằng, bắc ái của 
con người bởi vì vấn đề dân chủ, xét đến cùng 
là vấn đề về vai trò của con người, chủ quyền 
của con người và giải phóng con người để đi 
đến tự do, bình đẳng cho mỗi cá nhân. Cho 
nên C. Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát 
từ con người và biến nhà nước thành con 
người được khách thể hoá. Cũng giống như 
tôn giáo không tạo ra con người mà con 
người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: Không 
phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà 
nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” [5, 350]. 
Trong Điều lệ của Liên đoàn những người 
cộng sản do hai ông tham gia soạn thảo, vấn 
đề bình đẳng giữa các thành viên của Liên 
đoàn được xem như một vấn đề có tính 
nguyên tắc: “Tất cả các hội viên của Liên 
đoàn đều bình đẳng, họ là anh em và trong 
mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau 
như anh em” [6, 733]. Khi xác định nguyên 
tắc tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp 
công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen 
cũng chỉ rõ: “Mỗi hội viên của Hội Liên hiệp 
công nhân quốc tế đều có quyền tham gia bầu 
cử đại biểu dự đại hội của toàn Hội Liên hiệp 
và có quyền được bầu làm đại biểu... Mỗi chi 
bộ không kể số lượng hội viên ra sao đều có 
quyền cử một đại biểu dự đại hội... Mỗi đại 
biểu chỉ có một phiếu ở đại hội... Tất cả 
những vấn đề về nguyên tắc đều được đưa ra 
biểu quyết có ghi tên...” [7, 587-588]. 
Khát vọng dân chủ, tự do, bình đẳng chỉ thực 
sự đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản, đó là 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 
 99
“Một xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng sản 
chủ nghĩa, sẽ làm cho các thành viên trong xã 
hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện 
năng lực phát triển của mình. Đồng thời các 
giai cấp khác nhau nhất định cũng sẽ không 
còn nữa” [6, 475]. 
Tuy không phải là những người đầu tiên bàn 
về dân chủ và nêu lên ước vọng về một xã hội 
dân chủ nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen, lần 
đầu tiên chỉ ra bản chất giai cấp của dân chủ, 
làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân 
chủ tư sản, từ đó tìm ra con đường để xây 
dựng một nền dân chủ mới – dân chủ vô sản. 
Con đường đó chỉ có thể là cách mạng vô sản. 
V.I. Lênin, trên cơ sở kế thừa di sản của 
C. Mác và Ph. Ăngghen, đã có công rất lớn 
trong việc làm rõ bản chất giai cấp của dân 
chủ, chỉ ra sự khác biệt về nguyên tắc giữa dân 
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, qua đó 
đề xuất những nguyên tắc, cách thức, con 
đường để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. 
Theo V.I. Lênin, thực chất của dân chủ là 
quyền làm chủ phải thuộc về tay nhân dân, 
nhân dân phải được làm chủ trong tất cả các 
lĩnh vực của đời sống xã hội - từ kinh tế đến 
chính trị, xã hội. Kế thừa quan điểm của C. 
Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng tiếp 
cận khái niệm dân chủ từ góc độ chính trị. 
Ông cho rằng: “Dân chủ là một phạm trù 
thuộc riêng lĩnh vực chính trị” [4, 258]. Ông 
trích dẫn lời của Ph. Ăngghen cho rằng nhà 
nước tiêu vong cũng có nghĩa là dân chủ tiêu 
vong, cho nên dân chủ trước hết là một hình 
thức nhà nước: “Chế độ dân chủ là một hình 
thức nhà nước, một trong những hình thái 
nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, 
chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, 
có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. 
Một mặt thì như thế. Nhưng mặt khác, chế 
độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận 
quyền bình đẳng giữa những người công 
dân, thừa nhận cho mọi người được quyền 
ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà 
nước và quản lý nhà nước” [1, 123]. Ở đây, 
V.I. Lênin cũng đã gắn vấn đề dân chủ với 
khát vọng và quyền con người về tự do, bình 
đẳng và công bằng xã hội. 
V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh bản chất giai 
cấp của dân chủ, cho rằng không có dân chủ 
nói chung, dân chủ “thuần tuý”, mà là dân 
chủ cho giai cấp nào. Ông chỉ ra rằng bất cứ 
chế độ dân chủ nào trong lịch sử, dù là chế độ 
dân chủ hoàn thiện nhất, cũng là nền dân chủ 
cho bọn giàu có. Tuy luôn rêu rao cái gọi là 
dân chủ, tự do, bình đẳng nhưng nền dân chủ 
tư sản vẫn tìm cách loại bỏ hết quần chúng 
lao động ra khỏi bộ máy nhà nước của nó. Để 
khẳng định quan điểm này, V.I. Lênin đã dẫn 
lại tư tưởng của C. Mác về dân chủ tư sản: 
“Cái mà C. Mác đã đấu tranh chống lại nhiều 
hơn hết trong suốt cuộc đời ông, chính là 
những ảo tưởng dân chủ tiểu tư sản. Cái mà 
ông chế giễu nhiều nhất, chính là những câu 
rỗng tuếch về tự do và bình đẳng, khi những 
câu đó che lấp cái tự do chết đói của công 
nhân, hoặc cái bình đẳng giữa một người bán 
sức lao động của mình với tên tư sản là kẻ 
mua một cách tự do và hoàn toàn bình đẳng 
sức lao động ấy trên thị trường gọi là thị 
trường tự do” [3, 222]. 
So sánh với các kiểu nhà nước đã có trong 
lịch sử, V.I. Lênin chỉ ra rằng, chế độ dân chủ 
tư sản là một bước tiến vĩ đại vì nó đã đem lại 
nhiều quyền dân chủ, tự do, bình đẳng hơn 
cho con người, trong đó có người lao động. 
Tuy nhiên dân chủ tư sản cũng không thể 
thoát ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một nền 
dân chủ cho thiểu số, dân chủ cho bọn thống 
trị, bóc lột. Ông nói: “Chế độ dân chủ tư sản, 
tuy là một bước tiến bộ lịch sử vĩ đại so với 
thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là - và 
dưới chế độ tư bản nó không thể không là - 
một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả 
hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu 
có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối 
đối với những người bị bóc lột, đối với người 
nghèo” [2, 305]. Ngay những hình thức nhà 
nước tư sản được coi là tiến bộ nhất là chế độ 
đại nghị hay chế độ cộng hoà dân chủ thì 
cũng chỉ là một công cụ để tư bản bóc lột lao 
động làm thuê: “Chúng ta ủng hộ chế độ cộng 
hoà dân chủ vì nó là hình thức nhà nước tốt 
nhất cho giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản 
chủ nghĩa, nhưng chúng ta không được quên 
rằng cảnh nô lệ làm thuê là số phận của nhân 
dân ngay cả trong nước cộng hoà tư sản dân 
chủ nhất” [1, 25]. 
Để khắc phục những hạn chế của dân chủ tư 
sản, tạo dựng một xã hội dân chủ thực sự, giai 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 
 100
cấp vô sản phải tiết hành đấu tranh để “giành 
lấy dân chủ” [6, 626]. Cuộc đấu tranh này, lúc 
đầu được thực hiện trong khuôn khổ xã hội tư 
bản chủ nghĩa, nhưng tất yếu và cuối cùng 
phải đi đến một cuộc cách mạng XHCN để 
xoá bỏ nền dân chủ tư sản, thiết lập nền dân 
chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bằng 
kinh nghiệm lịch sử của công xã Pa-ri và 
chính quyền xô-viết, V.I. Lênin đã khẳng 
định: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ 
chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn 
gấp triệu lần; chính quyền xô viết so với nước 
cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ 
hơn gấp triệu lần” [2, 312-313]. 
Về bản chất của chế độ dân chủ vô sản, V.I. 
Lênin chỉ ra rằng, nó là nền dân chủ của số 
đông, dân chủ của người nghèo. Để đạt được 
nền dân chủ này giai cấp vô sản và nhân dân 
lao động phải giành được chính quyền nhà 
nước về tay mình, sử dụng chính quyền để 
xây dựng các thiết chế kinh tế, chính trị xã 
hội cho mình. Chỉ khi đó quần chúng lao 
động mới thực sự là người chủ. Do đó, nếu 
như dân chủ tư sản là dân chủ cho thiểu số 
những kẻ thống trị, bóc lột thì “dân chủ vô 
sản là chế độ thống trị của đa số với thiểu số, 
vì lợi ích của đa số”; dân chủ vô sản là “chế 
độ dân chủ cho người nghèo, chứ không phải 
chế độ dân chủ cho bọn giàu”; chế độ dân chủ 
vô sản là chế độ dân chủ mở rộng “trên quy 
mô lịch sử toàn thế giới, làm cho chế độ đó từ 
chỗ là một sự dối trá nay trở thành sự thật, 
đấy là giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích 
của tư bản” [1, 842]. 
Tính giai cấp của chế độ dân chủ bị quy định 
bởi cơ sở kinh tế mà từ đó nó được xây dựng 
nên. Các nền dân chủ trước đây (trong đó có 
dân chủ tư sản) được xây dựng trên cơ sở của 
chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất, cho 
nên chỉ có giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất 
mới có quyền làm chủ thực sự trong lĩnh vực 
kinh tế. V.I. Lênin khẳng định: “Bất cứ nền 
dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ 
sản xuất và xét đến cùng, đều do các quan hệ 
sản xuất trong xã hội nhất định quy định” [4, 
345]. Ai thống trị về kinh tế thì kẻ đó cũng sẽ 
thống trị về chính trị, tư tưởng. Do đó, quyền 
dân chủ trong xã hội chỉ thực sự dành cho 
giới chủ. Để xây dựng nền dân chủ mới, giai 
cấp vô sản tất yếu phải xoá bỏ chế độ tư hữu, 
thiết lập chế độ công hữu đối với tư liệu sản 
xuất, nhờ đó mà quần chúng nhân dân mới 
thực sự trở thành người chủ của đất nước, 
thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình. 
Chỉ có chế độ công hữu mới đảm bảo được 
“quyền bình đẳng của mọi thành viên trong xã 
hội đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, 
nghĩa là lao động ngang nhau, tiền công ngang 
nhau” [1, 122]. Cũng chỉ có chế độ công hữu 
mới đảm bảo cho tất cả đều tham gia quản lý, 
tham gia kiểm soát việc sản xuất và phân phối 
lao động [1, 125]. Chính vì vậy, ngay sau khi 
cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công, 
đặc biệt là khi tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây 
dựng xã hội mới XHCN, V.I. Lênin đã kêu gọi 
phải tiến hành công hữu hoá công xưởng, nhà 
máy và hợp tác hoá nông nghiệp. Ông chỉ rõ: 
“Thực chất của chủ nghĩa bôn-sê-vích, của 
chính quyền xô-viết là ở chỗ bóc trần sự lừa 
bịp và giả dối của nền dân chủ tư sản, xoá bỏ 
chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà 
máy và trao toàn bộ chính quyền nhà nước vào 
tay quần chúng lao động và bị áp bức. Chính 
quần chúng đó là người nắm chính trị trong 
tay, nghĩa là đảm đương công cuộc xây dựng 
xã hội mới” [3, 463]. 
Để xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ 
nghĩa V.I. Lênin đã đề xuất một loạt những 
nguyên tắc và giải pháp quan trọng như chế 
độ bầu cử dân chủ, chế độ kiểm tra, giám sát 
dân chủ, dân chủ trong Đảng, nguyên tắc tập 
trung dân chủ. 
Những chỉ dẫn của C. Mác, Ph. Ăngghen và 
V. I. Lênin về dân chủ vẫn giữ nguyên giá trị 
đối với cách mạng nước ta cho đến tận ngày 
nay. Trong suốt quá trình cách mạng Đảng ta 
luôn coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động 
lực của cách mạng; cách mạng là sự nghiệp 
của dân, do dân và vì dân. Trong thời kỳ đổi 
mới bài học lớn của Đảng là phải lấy dân làm 
gốc, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của 
nhân dân. Việc vận dụng những chỉ dẫn trên 
góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục 
tiêu chung của Đảng là xây dựng một nước 
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh./. 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 
 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. V.I.Lê nin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb 
Tiến bộ, Mát x cơ va. 
[2]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb 
Tiến bộ, Mát x cơ va. 
[3]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb 
Tiến bộ, Mát x cơ va. 
[4]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb 
Tiến bộ, Mát x cơ va. 
[5]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1978), Toàn tập, tập 1, 
Nxb ST , Hà Nội. 
[6]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 4, 
Nxb CTQG, HN. 
[7]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 
17, Nxb CTQG, HN. 
[8]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 
21, Nxb CTQG, HN. 
SUMMARY 
CLASSIC SCHOLARS’ INSTRUCTIONS IN DEMOCRACY OF MARXISM 
Dong Van Quan* 
College of Education – TNU 
The article generalizes main thoughts of Karl Marx, Ph. Angel and V.I.Lenin on democracy as a 
concept of politics, used to mean a political regime – a democratic regime, a value of mankind 
civilization – a result of history development; an existing mode of modern society. Their 
instructions are sensibly important to research on the argument of democracy and its value to the 
cause of building socialism in our country nowadays. 
Key words: democracy, politics, civilization, modern, value 
Ngày nhận bài: 02/10/2012, ngày phản biện: 11/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012
*
 Tel: 0912 021314, Email: quandongvan@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_chi_dan_cua_cac_nha_kinh_dien_chu_nghia_mac_ve_dan_ch.pdf