Một số biện pháp đưa hát ru Khmer Nam Bộ vào các trường Phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh

Âm nhạc dân gian có sức sống mãnh liệt, có sự ảnh

hưởng rộng lớn trong đời sống văn hóa xã hội của mỗi

dân tộc. Nên dù có phải trải qua bao biến thiên của lịch

sử, âm nhạc dân gian vẫn mang ý nghĩa lớn lao trong việc

bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; là một trong

các yếu tố cần thiết để định hình một thị hiếu thẩm mĩ

lành mạnh,. Điều này có được là do bởi sự trường tồn

của nó trong tâm thức của mỗi người dân. Cũng như rất

nhiều các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt

Nam, người Khmer Nam Bộ có một kho tàng âm nhạc

dân gian phong phú, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, văn

học và nghệ thuật. Đối với người Khmer, âm nhạc dân

gian có sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Nó có môi trường diễn

xướng rất đa dạng với các lễ hội dân gian, với đời sống

sinh hoạt văn hóa cộng đồng và tín ngưỡng tôn giáo vô

cùng phong phú; và trước sự tấn công của những loại

hình âm nhạc hiện đại, âm nhạc dân gian Khmer vẫn giữ

nguyên giá trị và ngày càng khẳng định được vai trò của

nó trong đời sống đồng bào phum sóc.

pdf 6 trang kimcuc 4140
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp đưa hát ru Khmer Nam Bộ vào các trường Phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số biện pháp đưa hát ru Khmer Nam Bộ vào các trường Phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh

Một số biện pháp đưa hát ru Khmer Nam Bộ vào các trường Phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53 
37 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐƯA HÁT RU KHMER NAM BỘ 
VÀO CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ Ở TỈNH TRÀ VINH 
Võ Thị Ngọc Kiều - Trường Đại học Trà Vinh 
Ngày nhận bài: 20/10/2018; ngày sửa chữa: 22/10/2018; ngày duyệt đăng: 26/10/2018. 
Abstract: Khmer possess a wealth of lullabies rich in content and diversified in art performing. 
Currently, protection, preservation and development of Khmer lullabies has become a crucial task. 
The introduction of Khmer lullabies into school activities does not only contribute to the 
affirmation of the musical values in Khmer folk music treasures but also preserves and fosters 
cultural value of Khmer in our national art. The article proposes some measures to introduce Khmer 
lullabies into main courses at ethnic minority boarding schools in Tra Vinh Province 
Keywords: Lullaby, folk music, Khmer people. 
1. Mở đầu 
Âm nhạc dân gian có sức sống mãnh liệt, có sự ảnh 
hưởng rộng lớn trong đời sống văn hóa xã hội của mỗi 
dân tộc. Nên dù có phải trải qua bao biến thiên của lịch 
sử, âm nhạc dân gian vẫn mang ý nghĩa lớn lao trong việc 
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; là một trong 
các yếu tố cần thiết để định hình một thị hiếu thẩm mĩ 
lành mạnh,... Điều này có được là do bởi sự trường tồn 
của nó trong tâm thức của mỗi người dân. Cũng như rất 
nhiều các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt 
Nam, người Khmer Nam Bộ có một kho tàng âm nhạc 
dân gian phong phú, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, văn 
học và nghệ thuật. Đối với người Khmer, âm nhạc dân 
gian có sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Nó có môi trường diễn 
xướng rất đa dạng với các lễ hội dân gian, với đời sống 
sinh hoạt văn hóa cộng đồng và tín ngưỡng tôn giáo vô 
cùng phong phú; và trước sự tấn công của những loại 
hình âm nhạc hiện đại, âm nhạc dân gian Khmer vẫn giữ 
nguyên giá trị và ngày càng khẳng định được vai trò của 
nó trong đời sống đồng bào phum sóc. 
Trong nỗ lực chung của cả xã hội, các nhà khoa học 
đã có những cố gắng trong việc sưu tầm, tìm hiểu, giới 
thiệu những kết quả nghiên cứu về âm nhạc dân gian 
Khmer đến với cộng đồng. Trong đó, hát ru Khmer Nam 
Bộ được đặc biệt quan tâm, bởi số lượng, vai trò của nó 
trong kho tàng âm nhạc dân gian Khmer và hơn hết là âm 
hưởng dân tộc, giá trị văn hóa Khmer hàm chứa trong mỗi 
lời ru, trong các làn điệu ngân nga và tấm lòng của người 
ru lẫn người được ru. Nghiên cứu hát ru Khmer từ các góc 
độ không chỉ góp phần khẳng định các giá trị âm nhạc, 
văn hóa trong kho tàng âm nhạc dân gian Khmer mà còn 
qua đó góp phần lưu giữ và phát huy giá trị của thể loại 
hát ru Khmer đối với nền nghệ thuật nước nhà. Vì vậy, 
chúng tôi đề xuất các biện pháp đưa hát ru Khmer vào các 
hoạt động dạy học chính khóa và ngoại khóa vào các 
trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Trà Vinh. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Vấn đề quan niệm và khai thác tư liệu hát ru 
Khmer Nam Bộ 
Xét trên bình diện tổng thể thì sự tiếp xúc văn hóa 
giữa các tộc người trên đất nước Việt Nam là sự tiếp xúc 
văn hóa trong hòa bình, sự tiếp biến văn hóa có chọn lọc. 
Chính điều này đã làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa đa 
dạng, phong phú lại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc 
điểm cư trú đan xen, quá trình giao lưu văn hóa giữa các 
tộc người ở Nam Bộ diễn ra khá mạnh mẽ. Người Khmer 
Nam Bộ có lịch sử cộng cư hoà hợp, gần gũi, gắn bó với 
các tộc người Kinh, Hoa,... trên vùng đất Nam Bộ. 
Nhưng với người Khmer, những giá văn hóa nghệ thuật 
của dân tộc có tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa lớn đến từng 
cá thể nên các giá trị văn hóa của Khmer vẫn được bảo 
lưu tốt. 
Hát ru là một thể loại đặc biệt trong kho tàng âm nhạc 
dân gian. Những làn điệu hát ru thường là các bài hát 
nhẹ nhàng, đơn giản và phần lớn đều có xuất xứ từ ca 
dao, đồng dao, hò vè dân gian, các loại thơ,... được 
truyền từ đời này qua đời khác; còn hát ru Khmer thì có: 
“giai điệu dìu dặt, do những câu nhạc ngắn được tổ 
chức lại xuất hiện chậm rãi và êm ái. Kết cấu của lời hát 
ru thường mở đầu bằng một câu “Con ơi ngủ đi”, “Út 
ơi ngủ đi đừng khóc”, hoặc “Cháu ơi đừng khóc đừng 
la”,... Với mục đích thực tiễn là hát để ru đứa trẻ ngủ, 
nội dung hát ru Khmer thường là lời tâm tình ngọt ngào 
hay lời dặn dò thân ái của người ru đối với con, cháu, 
hoặc em” [1; tr 139]. Trong Hôn nhân và gia đình người 
Khmer Nam Bộ (2012), Nguyễn Hùng Khu cho rằng: 
“Tới nay, người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long còn 
lưu giữ một kho tàng hát ru với những khúc hát trữ tình, 
nên thơ nói về quan hệ lứa đôi hòa vào cảnh thiên nhiên 
mênh mông, làm cho màu sắc tình yêu càng đậm đà và 
lãng mạn. Kết cấu lời hát ru luôn được mở đầu: “Con 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53 
38 
ơi...”, “út ới...”. Giai điệu hát ru của người Khmer 
thường chậm rãi, ngắn và êm ái với nội dung là lời tâm 
tình ngọt ngào, thân ái”[2; tr 41]. Những nội dung này 
làm nên nội dung và giá trị của các bài hát ru trong đời 
sống văn hóa gia đình của người Khmer. Ngoài chức 
năng thực hành cụ thể thì hát ru Khmer còn gửi gắm 
truyền thống hiếu học, tình yêu gia đình, quê hương, yêu 
lao động,... của biết bao thế hệ người Khmer. Vì vậy, hát 
ru Khmer không chỉ mang hơi thở của một khúc ca tâm 
tình mà còn mang hơi hướng của gia huấn ca, một loại 
sách dạy làm người của người Khmer. 
Giống như tình hình sưu tầm, nghiên cứu các thể loại 
dân ca khác, hát ru Khmer Nam Bộ đã được quan tâm 
sưu tầm, phổ biến tuy chưa thật sự đầy đủ và rộng rãi 
nhưng với nguồn tư liệu hiện có, vẫn có thể khẳng định 
tiếng nói riêng, bản sắc thể loại của hát ru Khmer. Ngoài 
những đặc điểm chung của thể loại hát ru, hát ru Khmer 
còn có những dấu ấn riêng về văn hóa nghệ thuật, những 
điều đã tạo nên sức hấp dẫn mãnh liệt của hát ru Khmer 
đối với các nhà nghiên cứu. Năm 2004, nhạc sĩ Nguyễn 
Văn Hoa, sau 30 năm lặn lội khắp các vùng miền Tây 
Nam Bộ, đã sưu tầm và xuất bản công trình 100 làn điệu 
dân ca Khmer gồm 02 tập. Công trình đã kí âm, phiên 
âm và dịch ra tiếng Việt góp phần đáng kể cho việc giới 
thiệu và phổ biến dân ca của người Khmer Nam Bộ đến 
với công chúng. Ngoài ra, còn phải kể đến nguồn tư liệu 
hát ru Khmer từ công trình Văn học dân gian Sóc Trăng 
(2002), Văn học dân gian Bạc Liêu (2005) của Chu Xuân 
Diên chủ biên, Dân ca Trà Vinh (2004) của Nguyễn Trúc 
Phong chủ biên. Trong những năm gần đây, các luận văn, 
luận án, các bài báo nghiên cứu về dân ca Khmer Nam 
Bộ được ra đời nhiều hơn, với nhiều cách tiếp cận mới 
mẻ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về dân ca 
Khmer nói chung, hát ru Khmer nói riêng đã được công 
bố thường nghiêng về lịch sử, văn hóa hay đi sâu về vấn 
đề âm nhạc. Một số tác phẩm khác có tính nhỏ lẻ hoặc 
chỉ là những công trình sưu tầm, giới thiệu ca từ của các 
bài dân ca Khmer. Ngoài ra, hiện chưa có công trình nào 
về hát ru Khmer được nghiên cứu, nhất là nghiên cứu để 
đưa hát ru Khmer vào trong nhà trường. 
2.2. Đặc điểm và ý nghĩa của việc đưa hát ru Khmer 
vào các trường phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh 
Hát ru nói chung là một loại hình ca hát tiêu biểu và 
được hình thành từ lâu đời của các dân tộc. Chính vì vậy, 
với những đặc trưng vốn có cùng với việc gắn hát ru với 
việc giáo dục con trẻ đã tạo ra vị trí và giá trị nhất định 
của hát ru đối với đời sống văn hóa các dân tộc. Ở nước 
ta, mỗi miền đều có hát ru và lối hát của mỗi nơi, của mỗi 
người cũng khác nhau. Tuy nhiên, dù ở đâu, chức năng 
thực hành của hát ru đều giống nhau. Đó là dần đưa đứa 
bé vào giấc ngủ êm đềm. Ngoài ra, thông qua lời ru, 
người ru có thể giãi bày tâm sự, nỗi niềm của mình. Dù 
không hề biết nhạc biết thơ là gì, mà chỉ qua truyền khẩu, 
và hơn hết là với tình cảm trìu mến với cháu, với con, 
“những người nghệ sĩ chân quê” đã vô tình lưu giữ, bảo 
tồn được một loại hình âm nhạc độc đáo, thấm đậm tính 
nhân văn. 
Qua những lời ru của mình, những người bà, người 
mẹ Khmer đã giúp cháu, con mình hình thành nhân cách, 
thái độ ứng xử với con người, với tự nhiên; góp phần gieo 
vào tâm thức trẻ thơ những hạt giống tốt lành về lòng 
nhân ái, đạo lí làm người, tình yêu quê hương đất nước: 
Mẹ cháu vất vả ruộng nương 
Cả đời một nắng hai sương nhọc nhằn 
Suốt ngày bùn lấm tay chân 
Nhổ mạ cấy lúa mưa dầm gió giông... [3; tr 29] 
Từ đó, hát ru sẽ dần dần dạy trẻ biết quý trọng từng 
giọt mồ hôi, từng công sức và tấm lòng của người làm 
cha mẹ để ngoan ngoãn, hiểu chuyện và nỗ lực hơn trong 
quá trình trưởng thành. Trong các bài hát ru, người mẹ 
đã khéo léo hướng cho con trẻ ý thức lao động, biết giúp 
đỡ cha mẹ,... 
Với truyền thông hiếu học và mong muốn thoát 
nghèo bằng cái chữ, hát ru Khmer thay lời cha mẹ 
khuyên con cái học hành chăm chỉ để sau này có thể tự 
lo cho thân, có thể có đời sống tốt đẹp hơn cha mẹ chúng: 
Mẹ ôm con mẹ dỗ 
Chờ khi con lớn khôn 
Mẹ cho con đến trường 
Cái chữ cho con nương nhờ tấm thân! [3; tr 21] 
Nỗi lòng đau đáu của bậc sinh thành là định hướng 
tương lai phù hợp cho mỗi đứa trẻ và sẽ tạo thêm cho con 
sức mạnh niềm tin vượt qua những sóng gió cuộc đời. 
Bên cạnh ý nghĩa giáo dục, hát ru còn là một hình 
thức để người phụ nữ Khmer bộc bạch tâm sự, kể cả 
những tâm tư khó nói. Trong đêm khuya, khi ngoài trời 
mưa tuôn xối xả,... người phụ nữ dường như được ngoại 
cảnh tác động đã mạnh dạn giãi bày nỗi lòng: 
À ơi... 
Ngoài hiên tí tách mưa rơi 
Từng giọt từng giọt mưa hoài chẳng ngưng 
Tiếng chim cùng tiếng côn trùng 
Hòa nhau thành tiếng nỉ non u buồn... [3; tr 19] 
Những hành động, sự lo nghĩ của người phụ nữ, chủ 
yếu là người mẹ cho con, cho chồng được gửi gắm trong 
các bài hát ru Khmer cho chúng ta thấy được sự đảm 
đang, giàu đức hi sinh của người phụ nữ Khmer. Lời ru 
của người phụ nữ Khmer như một nét đẹp trong văn hóa 
ứng xử và thể hiện sự hữu dụng của mình với rất nhiều 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53 
39 
chức năng kép của một thể loại âm nhạc dân gian. Cách 
thể hiện tình yêu, sự quan tâm lo lắng cho con, dạy con 
sống đúng đắn là cách hành xử tốt đẹp mà người Khmer 
muôn đời vẫn làm, vẫn mong muốn con cháu mình tiếp 
nối. 
Ngoài văn hóa ứng xử, giáo dục, hát ru Khmer còn 
tái hiện hình ảnh vùng đất Nam Bộ, các sản vật quen 
thuộc thường được đưa vào lời ru để lại dấu ấn đặc trưng, 
vừa gần gũi vừa đặc biệt: Mẹ đi Sa Đéc mua quà/Mua 
bánh mua trái, chuối già chuối cơm...[3; tr 13]. Dù có là 
một địa danh cụ thể, hay chỉ là những hình ảnh chung về 
miền quê yên bình như hình ảnh dòng sông, cánh đồng 
thì nó vẫn mang chung nỗi niềm của người mẹ. Họ nhắc 
nhở con mình về quê hương như một phần máu thịt của 
mỗi người. Và còn nữa, hình ảnh cửa nhà, ngõ xóm là 
một phần kí ức tuổi thơ dù chỉ nhỏ bé, đơn sơ thôi nhưng 
chắc chắn sẽ không thể phai mờ trong nỗi nhớ, trong trái 
tim của mỗi người con Khmer. 
Trong hát ru, mỗi người đều có một cách hát riêng 
nhưng nhìn chung đều mang tính trữ tình. Nó thể hiện rõ 
tình cảm của người ru với người được ru, đặc biệt là tình 
mẫu tử thiêng liêng và luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong 
tâm hồn trẻ nhỏ. Qua những bài hát ru, hình ảnh những 
người mẹ, người bà Khmer miệt mài, nhẫn nại để con 
mình yên giấc mãi luôn là hình ảnh đẹp khắc vào lòng 
những đứa con đến cuối cuộc đời: 
Ngủ đi con, hỡi con ngoan 
Mai mẹ dậy sớm đi làm nuôi con 
Con thương, mẹ dỗ mẹ bồng 
Để ba con ngủ hừng đông đi cày [3; tr 19] 
Hình thức diễn xướng dân ca của người Khmer khá 
đa dạng, nó gắn bó mật thiết với đời sống thường ngày 
của bà con phum sóc như lao động sản xuất, nghi lễ 
phong tục, sinh hoạt. Còn đối với hát ru Khmer, môi 
trường diễn xướng, đối tượng được ru và người thực 
hành hát ru là những yếu tố góp phần tạo nên giá trị nghệ 
thuật, giá trị văn hóa của hát ru Khmer. 
Trong diễn xướng hát ru, ngoài lời ru, những đôi cánh 
tay, đôi chân, lồng ngực, chiếc võng là những “công cụ” 
hỗ trợ để dỗ cho trẻ thơ đi vào giấc ngủ. Bên cạnh đó, 
người ru cũng có thể dùng những động tác như vỗ về nhẹ 
nhàng, nhịp điệu linh hoạt tùy theo trạng thái của đứa trẻ 
mà giúp trẻ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. 
Hát ru nằm trong hình thức diễn xướng đơn diễn. 
Cũng giống như hát ru các dân tộc khác, người mẹ đóng 
vai trò là người diễn xướng chủ yếu trong hát ru Khmer. 
Ngoài ra, người bà cũng tham gia diễn xướng hát ru 
nhưng đối với hát ru Khmer người bà đóng vai trò thay 
thế khi mẹ bận việc. Vì vậy, dù khẳng định tình yêu của 
mình dành cho cháu nhưng trong câu hát của bà hình ảnh 
vất vả người mẹ luôn thường trực. Khi nghe người mẹ, 
người bà Khmer cất lời ru, trong tâm trí mỗi người chúng 
ta, hình dung dáng điệu về mẹ, về bà của mình chợt ùa 
về, nồng ấm. Trên cánh võng trước hiên nhà, trên cái 
giường đặt ở sát vách nhà,... mẹ, bà chúng ta đã từng ngồi 
đấy, nhẫn nại, yêu thương. 
Dân ca Khmer Nam Bộ hầu hết đều lấy không gian, 
thời gian hiện tại làm thời gian nghệ thuật của mình. 
Điều này cũng dễ hiểu trước hết bởi vì lời thơ được sáng 
tác là để diễn xướng trong một môi trường không gian 
và thời gian nhất định. Trong đó, thời gian hát ru Khmer 
thường không giới hạn, có thể vào buổi trưa, buổi chiều 
hay trong lúc đêm khuya. Với mục đích là ru để dỗ người 
được ru đi vào giấc ngủ, nên hát ru có thể vang lên bất 
cứ lúc nào khi người được ru buồn ngủ, có nhu cầu ngủ 
hay do người ru có việc cần làm. Ngoài ra, thời gian 
trong lời hát ru Khmer cũng mang tính phiếm chỉ. Nó là 
thời gian của tâm trạng, thời gian tâm lí. Dường như chỉ 
có thể lấy lí do sự nóng lòng của người mẹ để lí giải cho 
sự phi lí của thời gian đó. Bỏ con thơ ở nhà đi chợ đường 
xa, người mẹ rất lo lắng nên thấy thời gian qua nhanh 
một cách bất thường. Điều này đã khẳng định cho tình 
yêu thương, công chăm sóc lớn lao của những người mẹ 
nói chung. 
Sinh hoạt của hát ru diễn ra phổ biến hàng ngày, trong 
không gian gia đình và cộng đồng làng xóm. Như đã nói 
ở trên, không gian hát ru vừa cụ thể vừa mênh mang, vừa 
là nơi ngôi nhà vừa là lòng mẹ thân yêu, nhưng cũng là 
một không gian vô cùng rộng mở khoáng đạt do chính 
những lời ru mang đến. 
Đối với học sinh (HS) nói chung, HS ở các trường 
phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh nói riêng, nếu được 
dạy, được học hát ru thì HS sẽ được giáo dục tình yêu 
quê hương, đất nước, con người. Đó là những bài học về 
đạo đức, thẩm mĩ, giúp các em gần gũi hơn với nghệ 
thuật âm nhạc và thơ ca truyền thống. Ngoài việc tạo nên 
một tình cảm tốt đẹp đối với đất nước, văn hóa truyền 
thống, hát ru còn trang bị cho lớp trẻ một cơ sở nghệ thuật 
để sáng tạo, tiếp cận những bài ca dân tộc. 
Ngoài ra, qua hát ru Khmer, HS sẽ hiểu thêm về mối 
quan hệ giữa ngôn ngữ và làn điệu, bắt nguồn từ giọng 
nói, tâm - sinh lí phù hợp với lối sống và phong cách của 
nhân dân ta. Hát ru cùng với các thể loại dân ca khác cũng 
góp phần mở ra cho HS một kho tàng văn hóa tiềm ẩn 
trong đó bởi những nét văn hóa, phong cách, đặc điểm 
ngôn ngữ, hoàn cảnh sống, lịch sử địa lí, phong tục tập 
quán gắn liền với đạo đức, tư tưởng, tình cảm với cuộc 
sống khác nhau của từng địa phương, từng dân tộc. 
Ở một góc độ khác, thông qua việc được học, được 
nghe, được trình diễn các bài hát ru sẽ mang đến cho các 
em sự yêu thích ... thế hệ tiếp nối cảm 
nhận và hiểu được cái hay, cái đẹp trong các làn điệu dân 
ca của đất nước, quê hương mình. 
Vì vậy, đưa hát ru Khmer vào nhà trường nói chung, 
mà trước hết là các trường phổ thông dân tộc nội trú ở 
Trà Vinh nói riêng, là một biện pháp thiết thực để truyền 
bá và giáo dục lòng yêu mến, tự hào với những di sản 
văn hóa dân tộc; hướng tới giáo dục toàn diện, hướng HS 
tới cái Chân - Thiện - Mĩ, góp phần phát triển nhân cách, 
qua đó trang bị cho các em hành trang vững bước vào 
thời kì hội nhập, phát triển và đổi mới của đất nước. 
2.3. Đề xuất các biện pháp đưa hát ru Khmer vào các 
trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh 
2.3.1. Cơ sở và nguyên tắc của việc đề xuất đưa hát ru 
Khmer vào các trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh 
Trà Vinh 
Trà Vinh là tỉnh nằm giữa sông Tiền và sông Hậu 
thuộc miền Tây Nam Bộ. Đây là nơi tụ cư lớn của dân 
tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Theo thống kê 
năm 2013, người Khmer là 322.800 nghìn người, chiếm 
31,62% dân số toàn tỉnh (Theo tài liệu số 781/BC-CTK 
ngày 23/12/2013 của Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh). Là 
tộc người có mặt lâu đời và quá trình cộng cư với các dân 
tộc khác trên vùng đất Nam Bộ, người Khmer Trà Vinh 
vẫn bảo lưu đầy đủ bản sắc văn hóa của dân tộc mình. 
Một trong những nỗ lực chung trong việc giữ gìn 
ngôn ngữ, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, Nhà nước 
thành lập các trường phổ thông dân tộc nội trú cho con 
em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư 
lâu dài tại vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn 
nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân 
lực có chất lượng cho vùng này. Ở Trà Vinh, hiện có 08 
trường phổ thông dân tộc nội trú, trong đó có 03 trường 
trung học phổ thông. Trường phổ thông dân tộc nội trú là 
loại hình trường chuyên biệt mang tính chất phổ thông, 
dân tộc và nội trú. Các trường phổ thông dân tộc nội trú 
ở Trà Vinh đang thực hiện chương trình giáo dục và các 
hoạt động giáo dục của cấp học phổ thông tương ứng 
được quy định tại Điều lệ trường trung học hiện hành, 
ngoài ra còn thực hiện chương trình và các hoạt động 
giáo dục đặc thù, trong đó có tổ chức giảng dạy môn 
Tiếng Khmer. Trường phổ thông dân tộc nội trú được 
phép tuyển sinh không quá 5% trong tổng số chỉ tiêu 
được tuyển mới hằng năm là con em người dân tộc Kinh 
có hộ khẩu thường trú và định cư từ 03 năm trở lên (tính 
đến ngày tuyển sinh). 
Hiện tại, tỉnh Trà Vinh có gần 58.000 HS dân tộc 
thiểu số nhập học, đạt tỉ lệ 31,5% so tổng số HS toàn tỉnh; 
cao hơn tỉ lệ dân số là người dân tộc của tỉnh hiện nay. 
Ngoài các hoạt động học tập, các hoạt động giáo dục, 
sinh hoạt của trường phổ thông nói chung, trường phổ 
thông dân tộc nội trú còn tổ chức các hoạt động văn hóa, 
văn nghệ, thể thao nhằm giáo dục lòng yêu nước, đạo 
đức, lối sống, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của 
dân tộc, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, góp phần phát triển 
và hoàn thiện nhân cách HS. Trong những định hướng, 
hoạt động để đạt được mục đích trên, thì thiết nghĩ cần 
đa dạng hóa các hoạt động dạy học, sinh hoạt cho HS ở 
các trường phổ thông dân tộc nội trú. 
Như đã nói ở trên, lứa tuổi HS đang học ở các trường 
phổ thông dân tộc nội trú, trung học cơ sở, trung học phổ 
thông đang được tổ chức giảng dạy ở Trà Vinh rất phù 
hợp với dạy học hát, biểu diễn hát ru. Ngoài ra, sách Âm 
nhạc và Mĩ thuật 9, được thiết kế học trong một học kì, 
trong đó phân môn Học hát gồm có 4 bài và ở tiết 15 là 
bài hát do địa phương tự chọn. Đây là tiết dạy thuận lợi 
cho các trường phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh đưa 
hát ru vào tiết học chính khóa này. 
Bên cạnh đó, trong chương trình Ngữ văn cấp trung 
học cơ sở và trung học phổ thông, chúng ta có thể đưa 
hát ru Khmer vào các tiết dạy sau: 
- Chương trình Ngữ văn địa phương: tiết 71, 72, 139 
trong chương trình Ngữ văn 6. 
- Những câu hát về tình cảm gia đình: tiết 9 trong 
chương trình Ngữ văn 7. 
- Chương trình địa phương: tiết 74, 137 trong chương 
trình Ngữ văn 7. 
- Dạy chủ đề: từ tiết 78 đến 86 trong chương trình 
Ngữ văn 10. 
- Bài 18 “Vài nét về tình hình sưu tầm tục ngữ, ca 
dao, dân ca địa phương” trong chương trình Ngữ văn địa 
phương Trà Vinh lớp 7. 
Ngoài ra, khi đề xuất đưa hát ru vào nhà trường trung 
học, chúng tôi còn chú ý đến cơ sở đặc điểm về âm vực 
giọng hát, đặc điểm tâm - sinh lí và nhận thức của HS. 
Những bài hát ru Khmer được lựa chọn phải là những bài 
hát nằm trong âm vực giọng của HS, bố cục nhẹ nhàng 
không nên quá phức tạp mà vẫn mang tính nghệ thuật, 
được thể hiện bằng sự hài hòa giữa phần âm nhạc và lời 
ca. Các bài hát được chọn phải có giai điệu dễ hát, dễ 
thuộc, âm vực vừa phải, tiết tấu mạch lạc, rõ ràng; tránh 
lựa chọn những bài hát ru đòi hỏi trình độ tư duy âm nhạc 
vượt quá tầm nhận thức của lứa tuổi HS, nội dung không 
rõ ràng, lời ca khó hiểu. Các bài hát ru Khmer lựa chọn 
nên phong phú về tính chất, vui, trữ tình, trầm lắng và đi 
vào lòng người. Ngoài ra, những bài hát ru được tuyển 
chọn phải mang đậm màu sắc dân tộc Khmer. Nội dung 
ca từ của những bài hát ru được lựa chọn phải mang đặc 
trưng của vùng, miền, phản ánh được những nét cơ bản 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53 
41 
về con người, cuộc sống lao động, cũng như đời sống 
tinh thần của người dân. Các bài hát được chọn phải 
mang tính thẩm mĩ tích cực, có giá trị giáo dục nhân cách, 
đạo đức, đáp ứng được nội dung, mục tiêu giáo dục. 
2.3.2. Tổ chức các hoạt động đưa hát ru Khmer vào các 
trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh 
* Thành lập các Câu lạc bộ hát ru Khmer: 
Thành lập các câu lạc bộ âm nhạc trong nhà trường 
nói chung, Câu lạc bộ hát ru Khmer trong các trường phổ 
thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh nói riêng nhằm hướng 
đến sự phát triển và giữ gìn những bản sắc văn hoá dân 
tộc qua âm nhạc dân gian. Hình thức này nếu được tổ 
chức trong các trường phổ thông dân tộc nội trú thì sẽ 
được duy trì, hoạt động tốt bởi truyền thống yêu ca hát, 
tập quán sinh hoạt cộng đồng, vui chơi của người Khmer. 
Để có một Câu lạc bộ hát ru Khmer hoạt động có hiệu 
quả thì những vấn đề sau cần phải thực hiện nghiêm túc: 
- Câu lạc bộ không chỉ tập hợp những HS Khmer có 
năng khiếu và yêu thích ca hát, biểu diễn âm nhạc, trong 
đó chủ yếu là HS cuối cấp, mà còn phải hướng đến sự 
thưởng thức, khơi dậy sự ủng hộ, yêu thích của tất cả HS 
mọi lứa tuổi, nhất là HS các dân tộc khác. 
- Ngoài GV âm nhạc, GV giảng dạy môn Tiếng 
Khmer, GV người Khmer đóng vai trò chủ chốt trong 
Câu lạc bộ thì cần tăng cường huy động sự tham gia 
thưởng thức, diễn xướng của tất cả các GV trong trường. 
- Các câu lạc bộ hát ru Khmer cần phải xây dựng kế 
hoạch hoạt động thường kì và nội quy hoạt động cụ thể. 
- Các câu lạc bộ hát ru Khmer cần trang bị những điều 
kiện cần thiết về cơ sở vật chất, phương tiện như phòng, 
nhạc cụ, sách, băng đĩa nhạc,... cho việc tổ chức diễn 
xướng hát ru Khmer. 
- Các bài hát ru Khmer nên được lựa chọn theo chủ 
đề, địa phương,... và được các Câu lạc bộ tổ chức thực 
hiện thông qua những hoạt động cụ thể, đa dạng. 
- Đa dạng hóa các hình thức biểu diễn: biểu diễn tại 
câu lạc bộ cho các thành viên thêm tự tin, mạnh dạn, sau 
đó tổ chức biểu diễn trước toàn trường trong sinh hoạt tập 
thể hoặc ngày lễ, hoặc tổ chức giao lưu chức giao lưu với 
các trường khác trong khu vực. Đây là điều kiện tốt để 
tham khảo, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau nếu có điều kiện. 
* Tổ chức thi, biểu diễn hát ru Khmer cho HS: 
Trong các chương trình ngoại khóa tại trường, hoạt 
động âm nhạc là một phần luôn được chú trọng và đầu tư 
kĩ lưỡng. Việc đưa hát ru vào hoạt động âm nhạc ngoại 
khóa vào những dịp này là cơ hội tốt và đem lại hiệu quả 
thiết thực. Thông qua hoạt động này, các GV và HS có dịp 
thưởng thức, đánh giá về thành quả quá trình học tập; đồng 
thời, khơi gợi niềm đam mê, hứng thú với những bài hát 
ru Khmer cho HS, GV và cộng đồng. Việc tổ chức thi, 
biểu diễn hát ru Khmer cho HS ở các trường phổ thông 
dân tộc nội trú có thể tổ chức thành các hoạt động sau: 
- Tăng cường đưa các tiết mục hát ru vào các hoạt động 
biểu diễn văn nghệ của trường, ngành. Biểu diễn văn nghệ 
là một trong những hoạt động thường xuyên được HS rất 
yêu thích và nhiệt tình tham gia. Hoạt động này giúp HS 
rèn luyện tính tự lập, phát huy tính tích cực, năng lực hoạt 
động nhóm, sinh hoạt ngoại khóa trong các ngày lễ, hay 
những dịp giao lưu văn nghệ, thi đua giữa các lớp, tổ, 
nhóm. Trong các buổi biểu diễn văn nghệ Khmer, với các 
tiết mục hát ru Khmer, nhiều HS sẽ được tạo sân chơi vô 
cùng bổ ích và lí thú, có cơ hội bộc lộ năng khiếu, được 
giáo dục thẩm mĩ, nhân cách một cách hiệu quả. 
- Theo thường lệ, các cuộc thi được tổ chức tại trường 
phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh đều theo chủ điểm 
là vào các ngày lễ, ngày kỉ niệm. Để thực hiện tốt hình 
thức này thì ban tổ chức cần phải có kế hoạch cụ thể để 
GV chủ nhiệm và HS nắm bắt và hiểu rõ. Ngoài những 
tiết mục hát múa theo chủ đề, ban tổ chức yêu cầu mỗi 
lớp phải có ít nhất một tiết mục văn nghệ về hát ru 
Khmer. Các em có thể hát dựa theo các lời thơ hoặc tự 
đặt lời mới. 
* Tổ chức các cuộc thi đặt lời mới cho giai điệu hát 
ru Khmer theo chủ đề: 
Khi tổ chức đặt lời mới cho giai điệu hát ru Khmer 
chính là chúng ta đang hướng HS vào việc yêu quý, trân 
trọng và bảo tồn nền văn hóa truyền thống. Đồng thời, 
qua hoạt động này, HS còn được nâng cao năng lực ngôn 
ngữ, tìm hiểu thể thơ Khmer, giá trị nội dung, nghệ thuật 
của hát ru Khmer,... Hình thức thi này có thể được phát 
động thành một hình thức sinh hoạt trong một vài tuần 
của năm học. Sau đó, có thể tổ chức diễn xướng, công bố 
kết quả tại sân trường vào tiết chào cờ ngày thứ 2, hoặc 
tổ chức cho các cá nhân HS, tổ nhóm HS thi biểu diễn 
Hát ru Khmer dựa trên phần đặt lời mới đã đặt. Dựa trên 
phần lời các em đã đặt, ở phần thi này sẽ vận dụng được 
tất cả những gì mình đã biết, thể hiện sự sáng tạo cũng 
như khả năng kết hợp những động tác khi biểu diễn. Từ 
lời nói, động tác diễn, cách hát phải được luyện tập kĩ 
lưỡng, nhuần nhuyễn. Ngoài ra, các em còn phải sắp xếp 
các hoạt cảnh sao cho phù hợp với vai diễn, hoàn cảnh 
trong từng chặng hát. Để thực hiện được nội dung này, 
cần có sự hỗ trợ, hướng dẫn của Ban tổ chức về cơ sở vật 
chất, trang phục, đạo cụ,... 
* Tổ chức đưa hát ru Khmer vào các tiết học chính khóa: 
Trong các hoạt động giảng dạy, để lồng ghép vào các 
tiết dạy Chương trình Ngữ văn địa phương, Dạy chủ đề, 
Vài nét về tình hình sưu tầm tục ngữ, ca dao, dân ca địa 
phương..., GV có thể tổ chức thành các hoạt động như: 
(Xem tiếp trang 53)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 47-53 
53 
núi Tây Bắc, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, thúc 
đẩy công cuộc xây dựng và phát triển KT-XH cho các 
tỉnh này. Thông qua bộ công cụ này sẽ góp phần đánh 
giá chính xác hiệu quả của việc sử dụng DHDA để phát 
triển NLGQVĐ&ST cho HS trong dạy học Hóa học ở 
trường THPT các tỉnh miền núi Tây Bắc. Việc đánh giá 
theo bộ công cụ này đang được triển khai, các kết quả 
nghiên cứu sẽ được đăng tải trong các báo cáo tiếp theo. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ 
thông - Chương trình tổng thể. 
[2] Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014). Lí luận 
dạy học hiện đại - Cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung 
và phương pháp dạy học. NXB Đại học Sư phạm. 
[3] Nguyễn Lăng Bình - Cao Thị Thặng - Đỗ Hương 
Trà - Nguyễn Phương Hồng (2010). Dạy học tích 
cực - Các phương pháp, kĩ thuật dạy học. Dự án Việt 
- Bỉ. NXB Đại học Sư phạm. 
[4] Phạm Thị Bích Đào - Đoàn Thị Lan Hương (2013). 
Vận dụng phương pháp dạy học dự án để phát triển 
năng lực sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông 
trong học tập môn Hóa học. Tạp chí Khoa học Giáo 
dục, Viện Khoa học Giáo dục, số 97, tr 22-23. 
[5] Nguyễn Thị Sửu - Phạm Hồng Bắc (2013). Tích hợp 
giáo dục môi trường trong dạy học phần Hóa học 
phi kim trung học phổ thông qua việc sử dụng dạy 
học theo dự án. Tạp chí Giáo dục, số 315, tr 45-47. 
[6] Cao Thị Thặng (2010). Một số biện pháp phát triển 
năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học Hóa học ở 
trường phổ thông. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện 
Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 53, tr 32-35. 
[7] Cao Thị Thặng (2010). Sử dụng một số phương 
pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, hướng phát triển 
một số năng lực cơ bản cho học sinh trong dạy học 
Hóa học. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư 
phạm Hà Nội, số 5, tr 46-53. 
[8] Nguyễn Thị Phương Thuý - Nguyễn Thị Sửu - Vũ 
Quốc Trung (2015). Phát triển năng lực giải quyết 
vấn đề cho học sinh Tỉnh Điện Biên thông qua dạy 
học dự án phần hiđrocacbon, Hóa học hữu cơ lớp 
11 trung học phổ thông. Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội, số 60(2), tr 91-101. 
[9] Nguyễn Thị Phương Thúy - Nguyễn Thị Sửu - Vũ 
Quốc Trung (2016). Thiết kế công cụ để kiểm tra, 
đánh giá năng lực giải quyết vấn đề trong phần Hóa 
học hữu cơ thông qua sử dụng dạy học dự án cho 
học sinh lớp 12 trung học phổ thông miền núi phía 
Bắc. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học 
Giáo dục Việt Nam, số 127, tr 47-49. 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐƯA HÁT RU KHMER... 
(Tiếp theo trang 41) 
- Yêu cầu HS sưu tầm thêm ở địa phương những bài 
hát ru Khmer hoặc ghi âm lại lời ru của bà, mẹ, chị,... như 
một hoạt động học tập. 
- Tổ chức cho HS các chuyến điền dã để nghe thực tế 
các bà, các mẹ, các chị,... hát ru cháu, con,... hoặc biểu 
diễn cho các HS nghe để dễ cảm, hiểu một cách sâu sắc 
hát ru Khmer. Nếu không có điều kiện thì có thể đi quan 
sát thực tế để chụp hình, quay phim, ghi chép văn bản, 
cảm nghĩ về những bài hát ru Khmer. 
Qua các hoạt động này, HS không chỉ được phát triển 
năng lực ngôn ngữ (nói, viết), khả năng nghiên cứu và 
đặc biệt có những hoạt động trải nghiệm gắn với cộng 
đồng. HS sẽ được rèn phẩm chất đạo đức, ý thức sống tốt 
đẹp, hướng đến hình thành nhân cách tốt đẹp sau này. 
3. Kết luận 
Là một hiện tượng văn hóa phổ biến, mang giá trị văn 
hóa đặc trưng của người Khmer trong quá khứ, hát ru 
Khmer cần được tạo một không gian phát triển phù hợp, 
vừa giữ được ý nghĩa truyền thống vừa mang hơi thở thời 
đại. Nghiên cứu các giải pháp đưa hát ru Khmer vào các 
hoạt động dạy học, giáo dục trong nhà trường không chỉ 
góp phần khẳng định các giá trị âm nhạc, văn hóa trong 
kho tàng âm nhạc dân gian Khmer mà còn qua đó góp 
phần lưu giữ và phát huy giá trị của thể loại hát ru Khmer 
đối với nền nghệ thuật nước nhà. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Huỳnh Ngọc Trảng - Văn Xuân Chí - Hoàng Túc - 
Đặng Vũ Thị Hảo - Phan Thị Yến Tuyết (1985). 
Người Khmer tỉnh Cửu Long. Sở Văn hóa thông tin 
tỉnh Cửu Long. 
[2] Nguyễn Hùng Khu (2012). Hôn nhân và gia đình 
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (phần 1). NXB Văn 
hóa Dân tộc. 
[3] Nguyễn Văn Hoa (2004). 100 làn điệu dân ca 
Khmer (tập 1, 2). NXB Trẻ TP. Hồ Chí Minh. 
[4] Chu Xuân Diên (chủ biên, 2002). Văn học dân gian 
Sóc Trăng. NXB TP. Hồ Chí Minh. 
[5] Chu Xuân Diên (chủ biên, 2005). Văn học dân gian 
Bạc Liêu. NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. 
[6] Nguyễn Trúc Phong (chủ biên, 2004). Dân ca Trà 
Vinh. Sở Văn hóa Thông tin Trà Vinh xuất bản. 
[7] Hoàng Túc (2011). Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB 
Thời đại. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_bien_phap_dua_hat_ru_khmer_nam_bo_vao_cac_truong_pho.pdf