Một số bất cập của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TNBTTH)

của doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường

(ONMT) là vấn đề quan trọng trong sự phát triển

kinh tế đất nước hiện nay. Để đảm bảo một nền

kinh tế an toàn, lành mạnh đảm bảo sự phát triển

bền vững thì bảo vệ môi trường là mối quan tâm

hàng đầu, bởi sự ảnh hưởng của nó đến nhiều

khía cạnh trong cuộc sống người dân cũng như

hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy,

TNBTTH của doanh nghiệp gây ONMT. Mặc

dù những năm gần đây đã được quy định nhiều

trong các văn bản pháp luật và thực tế việc thực

thi các quy định này của các doanh nghiệp có

nhiều tiến bộ nhưng tác động tiêu cực của hành

vi gây ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp gây

nên đối với xã hội nói chung và đặc biệt là cộng

đồng nói riêng vẫn chưa được xử lý triệt để gây

bức xúc trong nhân dân và ảnh hưởng không nhỏ

đến sức mạnh của luật pháp.

pdf 5 trang kimcuc 4100
Bạn đang xem tài liệu "Một số bất cập của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số bất cập của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường

Một số bất cập của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
Email: phamtieuquyen469@gmail.com
Một số bất cập của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 
khi doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
Some inadequacies in the responsibilities of enterprises causing environmental pollution
Phạm Thị Lệ Quyên
Pham Thi Le Quyen
	 Khoa	Luật,	Trường	Đại	học	Duy	Tân,	Đà	Nẵng,	Việt	Nam
Faculty	of	Law,	Duy	Tan	University,	Da	Nang,	Vietnam
(Ngày	nhận	bài:	02/01/2020,	ngày	phản	biện	xong:	07/02/2020,	ngày	chấp	nhận	đăng:	20/02/2020	)
Tóm tắt
Trong bài báo này, tác giả mong muốn làm sáng tỏ thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp gây ô nhiễm 
môi trường; đồng thời, nêu lên một số bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 
của doanh nghiệp đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường; từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và 
nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
Từ	khóa: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại, doanh nghiệp, ô nhiễm môi trường, pháp luật.
Abstract 
In this article, the author presents an overview of the concept of liability of enterprises causing environmental pollution. 
At the same time, some inadequacie in the current law on the responsibility of businesses in compensation for damage 
to environmental pollution are raised and from there, make some recommendations to improve the law and improve the 
practical application. 
Keywords: Responsibility to pay damages, businesses, environmental pollution, law.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
DTU Journal of Science and Technology 07(38) (2020) .........
1. Đặt vấn đề 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TNBTTH) 
của doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường 
(ONMT) là vấn đề quan trọng trong sự phát triển 
kinh tế đất nước hiện nay. Để đảm bảo một nền 
kinh tế an toàn, lành mạnh đảm bảo sự phát triển 
bền vững thì bảo vệ môi trường là mối quan tâm 
hàng đầu, bởi sự ảnh hưởng của nó đến nhiều 
khía cạnh trong cuộc sống người dân cũng như 
hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, 
TNBTTH của doanh nghiệp gây ONMT. Mặc 
dù những năm gần đây đã được quy định nhiều 
trong các văn bản pháp luật và thực tế việc thực 
thi các quy định này của các doanh nghiệp có 
nhiều tiến bộ nhưng tác động tiêu cực của hành 
vi gây ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp gây 
nên đối với xã hội nói chung và đặc biệt là cộng 
đồng nói riêng vẫn chưa được xử lý triệt để gây 
bức xúc trong nhân dân và ảnh hưởng không nhỏ 
đến sức mạnh của luật pháp. 
113
2. Nội dung 
2.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của 
doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường 
tự nhiên bị tác động tiêu cực của con người làm 
vấy bẩn dẫn tới các tính chất vật lý, hóa học, sinh 
học của môi trường bị thay đổi, gây tác hại tới sức 
khỏe con người và các sinh vật khác [4; 62]. Dưới 
góc độ kinh tế học, “ONMT	là	sự	thay	đổi	không	
có	lợi	cho	môi	trường	sống	về	các	tính	chất	vật	lý,	
hóa	học,	sinh	học	mà	có	thể	gây	tác	hại	tức	thời	
hoặc	lâu	dài	đến	sức	khỏe	của	con	người,	các	loại	
động	vật,	 thực	 vật	 và	 các	điều	 kiện	 sống	khác” 
[4; 63]. Dưới góc nhìn pháp lí, “ONMT là sự biến 
đổi các thành phần môi trường không phù hợp 
với quy chuẩn kỹ	thuật	môi	trường	và	tiêu	chuẩn	
môi	trường	gây	ảnh	hưởng	xấu	đến	con	người	và	
sinh	vật” (khoản 8 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 
2014). Gây ONMT có thể là các cá nhân, có thể 
là các tổ chức, doanh nghiệp (có khai thác bừa bãi 
tài nguyên khoáng sản, đổ chất thải ra môi trường; 
khai thác đá, sỏi, cát bừa bãi làm biến đổi dòng 
chảy; chế biến hải sản, thủy sản, thực phẩm đổ 
chất thải không qua xử lý ra môi trường). Tất 
cả các hành vi này đều gây hại cho môi trường, 
tác động xấu đến môi trường và làm ảnh hưởng 
trực tiến đếp môi trường và đời sống con người, 
gây ra các bệnh truyền nhiễm hoặc dịch bệnh cho 
con người và vật nuôi, ô nhiễm không khí nghiêm 
trọng tại Hà Nội là do người dân đốt rơm rạ, do 
nhiều khí thải của phương tiện giao thông, do bụi 
xây dựng (chủ yếu là các công trình giao thông 
xây dựng dang dở, không che chắn), do khói của 
các nhà máy nhiệt điện trong khu vực, ...ONMT 
gây ra những hậu quả hết sức nặng nề. Do đó, để 
hạn chế, giảm thiểu và ngăn chặn tác động xấu của 
việc gây ONMT nhằm bảo vệ sức khỏe, duy trì nòi 
giống thì bất cứ quốc gia nào cũng xây dựng các 
quy định về bảo vệ môi trường, đồng thời có chế 
tài xử phạt và quy định trách nhiệm bồi thường 
thiệt hại khi tổ chức, cá nhân nào đó vi phạm các 
quy định đã ban hành.
 TNBTTH của doanh nghiệp gây ô nhiễm môi 
trường được hiểu là loại trách nhiệm bồi thường 
thiệt hại ngoài hợp đồng, do người của doanh 
nghiệp thực hiện gây ONMT. Doanh nghiệp 
chịu trách nhiệm bù đắp, khôi phục lại trạng thái 
ban đầu những tổn thất môi trường dẫn đến tính 
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, 
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của 
cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân 
hoặc chủ thể bị thiệt hại và khắc phục hậu quả 
khi người bị hại yêu cầu bồi thường ngay cả khi 
doanh nghiệp không có lỗi.
Thiệt hại do gây ONMT là những thiệt hại lớn 
về vật chất, ảnh hưởng lâu dài đến tính mạng, 
sức khỏe của con người, có khả năng lan rộng 
trên phạm vi lớn. Bởi vậy, việc quy định trách 
nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có 
lỗi của doanh nghiệp đảm bảo tính kinh tế, xã hội 
và nhân văn, nâng cao tầm quan trọng của môi 
trường tự nhiên đối với môi trường sống của con 
người, ý thức của doanh nghiệp trong quá trình 
hoạt động và trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi 
gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp. 
Tại Việt Nam, Điều 163 Luật Bảo vệ môi 
trường quy định: “Thiệt hại do ô nhiễm, suy 
thoái môi trường gồm: (1) Suy giảm chức năng, 
tính hữu ích của môi trường; (2) Thiệt hại về tính 
mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích 
hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của 
việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi 
trường gây ra”. Những hành vi gây ô nhiễm môi 
trường phải được ngăn chặn bằng các quy định 
pháp luật và các chế tài kèm theo nhằm nâng cao 
trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Điều 602 
Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Chủ thể làm ô 
nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi 
thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường 
hợp chủ thể đó không có lỗi”. Và tại khoản 3 Điều 
164 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định 
nguyên tắc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá 
nhân gây ô nhiễm môi trường là: “(a) Người đứng 
đầu trực tiếp của tổ chức phải chịu trách nhiệm 
114
đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường 
có liên quan đến hoạt động của tổ chức mình; 
(b) Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi 
trường có trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi 
thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra; (c) 
Trường hợp cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi 
trường do thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao 
thì tổ chức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại theo quy định của pháp luật”.Theo các quy 
định trên, khi gây ONMT, chủ thể là cá nhân hay 
tổ chức đều phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, 
thực tế quy định cụ thể bồi thường ra sao và chế 
tài nào khi phía gây ra ô nhiễm không thực hiện 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, không khắc 
phục thiệt hại thì pháp luật của ta còn chưa 
quy định cụ thể, rõ ràng và việc thi hành pháp 
luật còn nhiều hạn chế, mặc dù các văn bản pháp 
luật liên quan đã được ban hành. 
2.2. Một số bất cập của pháp luật về trách 
nhiệm bồi thường thiệt hại do doanh nghiệp 
gây ô nhiễm môi trường 
Quy định về TNBTTH do ô nhiễm môi 
trường bao gồm: Ô nhiễm và suy thoái môi 
trường, thiệt hại về sức khore, tính mạng và 
tài sản của tổ chức, cá nhân; chủ thể làm ô 
nhiễm môi trường gây thiệt hại phải bồi 
thường, kể cả khi không có lỗi; ONMT và 
hậu quả do ô nhiễm môi trường phải được cơ 
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nghiên 
cứu, điều tra, kết luận kịp thời; cơ chế giải 
quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại về ô nhiễm 
và suy thoái môi trường. Đồng thời quy định 
rằng, việc bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, 
tính mạng và tài sản của tổ chức, cá nhân do ô 
nhiễm môi trường sẽ thực hiện theo quy định 
của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, pháp luật 
dân sự không có quy định chi tiết về vấn đề 
này ngoài các quy định chung về bồi thường 
thiệt hại ngoài hợp đồng. 
Thứ	nhất,	về	cách	thức	xác	định	thiệt	hại 
về	sức	khỏe,	tinh	thần,	tài	sản:
Đối	với	thiệt	hại	về	sức	khỏe được quy định 
tại khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân sự (BLDS) 
2015 thì mặc dù có thiệt hại về sức khoẻ (rất 
nhiều người điều trị tại bệnh viện bởi hậu quả 
của ONMT) nhưng việc thu thập chứng cứ để 
chứng minh thiệt hại không phải là điều dễ dàng 
bởi các thủ tục cũng như trình độ hiểu biết của 
người thiệt hại và các cơ quan liên quan. 
Đối	với	 thiệt	hại	về	sức	khỏe	ảnh	hưởng	
đến	tinh	thần được quy định tại khoản 2 Điều 
590 thì làm thế nào để tính toán được thiệt 
hại về tinh thần và chứng cứ để chứng minh 
có thiệt hại về tinh thần cho người thiệt hại. 
Bù đắp tổn thất có đồng nghĩa với bồi thường 
toàn bộ, bởi bù đắp tổn thất về tinh thần chỉ 
mang tính ước lượng chứ không xác định 
được toàn bộ. Tòa án chỉ ấn định một khoản 
tiền tương ứng trong trường hợp có bù đắp 
tổn thất về tinh thần.
Đối	với	thiệt	hại	do	tài	sản	bị	xâm	phạm 
được quy định tại Điều 589 BLDS 2015 bao 
gồm: “Lợi	ích	gắn	liền	với	việc	sử	dụng,	khai	
thác	 tài	 sản.	Chi	 phí	 hợp	 lý	 để	 ngăn	 chặn,	
hạn	chế	và	khắc	phục	thiệt	hại”.	Tuy nhiên, 
thực tiễn cho thấy người bị thiệt hại chỉ mong 
nhận được khoản bồi thường đối với những 
thiệt hại trước mắt đã khá khó khăn trong 
việc thu thập chứng cứ cũng như tìm được sự 
ủng hộ, bảo vệ của cơ quan chức năng, còn 
những khoản được hình thành từ việc khai 
thác, sử dụng tài sản hay chi phí để khắc phục 
thiệt hại dường như là điều không tưởng. 
Thứ	 hai,	 thay	 đổi	 mức	 bồi	 thường, tại 
khoản 3 Điều 585 BLDS 2015: “Khi	mức	bồi	
thường	không	còn	phù	hợp	với	thực	tế	thì	bên	
bị	thiệt	hại	hoặc	bên	gây	thiệt	hại	có	quyền	
yêu	 cầu	 tòa	 án	 hoặc	 cơ	 quan	 nhà	 nước	 có	
thẩm	quyền	khác	thay	đổi	mức	bồi	thường”. 
Tuy nhiên, mức bồi thường có thể thay đổi 
có khả năng được thực hiện trong trường hợp 
bồi thường nhiều lần (hàng tháng hoặc hàng 
năm). Nếu bồi thường thiệt hại trong trường 
hợp bồi thường toàn bộ một lần thì có được áp 
115
dụng thay đổi mức bồi thường không? Trên 
thực tế, người bị thiệt hại thường yêu cầu 
tăng mức bồi thường và thời hạn bồi thường.
Chủ thể bị thiệt hại mắc những bệnh do ô 
nhiễm môi trường gây nên của người bị hại 
tái phát dẫn đển phải chi phí cho việc phẫu 
thuật lại và sau đó sức khỏe của người bị hại 
suy giảm hơn so với trước (có cơ sở chứng 
minh) thì người bị hại có quyền đề nghị tăng 
mức bồi thường, hoặc tại thời điểm người bị 
thiệt hại yêu cầu bồi thường chưa xuất hiện 
những di chứng, chưa được phát hiện do hậu 
quả của việc gây ô nhiễm môi trường thì có 
được thay đổi mức bồi thường khi đã giải 
quyết xong. 
Thứ	ba,	đối	với	quy	định	về	giám	định	thiệt	
hại	môi	 trường, Điều 150 Luật Bảo vệ môi 
trường (BVMT) 2014 quy định: “Nhà	nước	
khuyến	 khích	 tổ	 chức,	 cá	 nhân	 thành	 lập	
doanh	nghiệp	dịch	vụ	môi	trường	thông	qua	
hình	thức	đấu	thầu,	cơ	chế	hợp	tác	công	tư	
trong	các	lĩnh	vực:	Giám	định	về	môi	trường	
đối	 với	 hàng	 hóa,	 máy	 móc,	 thiết	 bị,	 công	
nghệ;	 giám	 định	 thiệt	 hại	 về	 môi	 trường;	
giám	định	sức	khỏe	môi	trường”. Luật BVMT 
2014 mới chỉ quy định về giám định thiệt 
hại về môi trường (đối với máy móc, hàng 
hoá, sức khoẻ môi trường) mà chưa có quy 
định về giám định thiệt hại về tính mạng, sức 
khỏe, tài sản của người bị thiệt hại. Vì vậy, 
doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường chỉ 
áp dụng các biện pháp chuyên môn nghiệp 
vụ, phương tiện kỹ thuật, kinh nghiệm thực 
tiễn để nghiên cứu, xem xét, đánh giá mức độ 
chính xác của các thiệt hại về môi trường (môi 
trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích). 
Còn đối với những thiệt hại từ suy giảm chức 
năng, tính hữu ích của môi trường ảnh hưởng 
đến sức khỏe, tính mạng của con người, tài 
sản đó là những thiệt hại mà người bị thiệt 
hại phải gánh chịu lại không có cơ quan chức 
năng thực hiện việc giám định này. 
Thứ	tư,	đối	với	quy	định	về	phương	thức	chi	
trả	tiền	bồi	thường, đối với những người bị thiệt 
hại khi xác định được tổng mức thiệt hại và 
doanh nghiệp chấp nhận bồi thường với mức đã 
thỏa thuận hoặc đã được giải quyết thì phương 
thức chi trả tiền bồi thường mà doanh nghiệp áp 
dụng là phương thức nào, trình tự áp dụng ra sao 
để vừa thoả mãn được tính công bằng, chính xác 
cũng như đảm bảo quyền lợi của chủ thể bị thiệt 
hại nếu có di chứng về sau hay đối với trường 
hợp có thể có di chứng về sau. 
Thứ	năm,	đối	với	cơ	chế	bảo	hiểm	trách	nhiệm	
về	môi	trường, Nghị định 19/2015-NĐ/CP hướng 
dẫn Luật Bảo vệ môi trường có quy định về vấn 
đề này. Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ bảo hiểm 
trách nhiệm về môi trường chưa thực sự được 
phổ biến, áp dụng và thực hiện rộng rãi đối với 
doanh nghiệp cũng như người dân nói chung hay 
những chủ thể bị thiệt hại, có thể bị thiệt hại nói 
riêng nhằm chia sẻ trách nhiệm của người gây 
thiệt hại và đảm bảo tính kịp thời nhanh chóng có 
đủ khả năng tài chính để bồi thường. 
2.3. Kiến nghị hoàn thiện 
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong 
đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính 
và xử lí hình phạt phải thực sự đủ mạnh để đủ sức 
răn đe doanh nghiệp. 
Thứ	nhất, cách thức xác định thiệt hại về sức 
khoẻ, tinh thần, tài sản: Cần ban hành nghị định 
hướng dẫn chi tiết về hình thức xác định thiệt hại 
về sức khoẻ, tinh thần, tài sản, tính mạng đối với 
những thiệt hại mà doanh nghiệp gây ô nhiễm 
môi trường đối với người bị thiệt hại. Bởi, thiệt 
hại về môi trường là thiệt hại mang tính chất đặc 
thù, không dễ xác định thiệt hại, thiệt hại không 
phải được biểu hiện một cách trực tiếp, tức thì mà 
qua thời gian mới có biểu hiện. 
Thứ	hai,	 thay đổi mức bồi thường, quy định 
về vấn đề thay đổi mức bồi thường cần được cụ 
thể hóa, chỉ rõ đối với những phương thức bồi 
thường (một lần, nhiều lần), cũng như phương 
thức thể hiện những mức bồi thường đó, nhằm 
116
đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại và nâng 
cao trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh 
nghiệp gây thiệt hại. 
Thứ	ba,	đối với quy định về giám định thiệt 
hại đối với sức khoẻ, tinh thần, tài sản môi 
trường, phương thức chi trả tiền bồi thường, cơ 
chế bảo hiểm trách nhiệm về môi trường, cơ chế 
trách nhiệm cần có quy định rõ ràng về trình tự, 
phương thức, cơ chế cũng như cơ quan thực hiện 
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho những người bị thiệt 
hại bảo vệ quyền lợi của mình.
Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống 
quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu 
công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng 
thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới 
một môi trường tốt đẹp và thân thiện. 
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng, phổ biến nội 
dung của Luật và các Nghị định hướng dẫn thi 
hành trong toàn hệ thống chính trị xã hội từ 
trung ương đến địa phương. Ban hành các văn 
bản hướng dẫn Luật, rà soát, chuyển đổi và xây 
dựng mới các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về 
môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi 
trường, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, 
giúp người dân cũng như doanh nghiệp nhận 
thức được vị trí của mình tầm quan trọng của môi 
trường để ngăn chặn việc xâm hại đối với môi 
trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh [5].
Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và 
địa phương với nhiều hình thức để lắng nghe 
phản hồi về các quy định được ban hành, tổng 
hợp, có kế hoạch sửa đổi bổ sung cho phù hợp...
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác 
tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn 
xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận 
thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi 
trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh 
nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường, 
xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người 
nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối 
quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã 
hội, giữa kinh tế - môi trường.
3. Kết luận
TNBTTH của doanh nghiệp gây ONMT là 
loại trách nhiệm pháp lý dân sự đặc thù, được 
áp dụng đối với những doanh nghiệp có hành vi 
gây ONMT dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức 
khỏe của con người trong cộng đồng và xã hội, 
nhằm bảo vệ môi trường cũng như quyền và lợi 
ích hợp pháp của những cá nhân, tổ chức bị xâm 
hại. Việc áp dụng trách nhiệm dựa trên những 
quy định của pháp luật BTTH là vấn đề bức thiết 
đối với môi trường và toàn xã hội. Vì vậy, pháp 
luật về TNBTTH đối với doanh nghiệp cần được 
quan tâm nhiều hơn bằng những quy định pháp 
luật nghiêm khắc, nhằm giảm thiệt hại thông qua 
những hình phạt có tính chặt chẽ và tính thi hành 
sát với thực tế. 
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Minh Oanh, Trách nhiệm dân sự do tài sản 
gây thiệt hại - vấn đề lý luận và thực tiễn, đề tài 
nghiên cứu khoa học cấp trường, trường đại học luật 
Hà Nội, Hà Nội, 2009.
[2] Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế, NXB 
Đại học quốc gia Hà Nội, 2004, tr249.
[3] Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế, NXB 
Đại học quốc gia Hà Nội, 2004, tr50.
[4] Giáo trình Luật bảo vệ môi trường 2014, NXB Công 
an nhân dân Hà Nội 2014, tr63.
[5] Hoàng Xuân Cơ, Cấn Anh Tuấn, Phạm Thị Việt Anh, 
Phạm Thị Thu Hà. Những vấn đề về thiệt hại và bồi 
thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường không khí, 
Tạp chí Môi trường, tháng 9/2011, tr56.
[6] Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Hoàng Bích Hồng, Yêu cầu 
giám định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu 
ích của môi trường, Tạp chí Môi trường, số 2/2018, 
Tr30.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_bat_cap_cua_phap_luat_ve_trach_nhiem_boi_thuong_thiet.pdf