Một số bất cập cần sửa đổi trong quy trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy định pháp luật cạnh tranh hiện hành của Việt Nam
Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội
thông qua ngày 3-12-2004, có hiệu lực vào
ngày 01-7-2005, đóng góp rất quan trọng
đối với việc điều chỉnh hầu hết các quan hệ
kinh tế trên thương trường, bảo đảm cho sự
lành mạnh của các quan hệ cạnh tranh vốn
đang diễn biến phức tạp với sự biểu hiện
của rất nhiều hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong một nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều nội dung
quy định trong luật và văn bản hướng dẫn
thi hành luật này đã được ban hành, chủ
yếu tập trung làm rõ, giải thích các quy
định điều chỉnh đối với các hành vi hạn chế
cạnh tranh, mà ít chú ý đến các quy định
điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nói chung và quy trình xử lý các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
riêng. Chính vì thế mà việc điều chỉnh loại
hành vi này đã gặp rất nhiều khó khăn
trong việc triển khai áp dụng vào thực tiễn
suốt 10 năm qua.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số bất cập cần sửa đổi trong quy trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy định pháp luật cạnh tranh hiện hành của Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015 22 Một số bất cập cần sửa đổi trong quy trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy định pháp luật cạnh tranh hiện hành của Việt Nam Proposals for improvement of the law against unfaircompetition in Viet Nam TS. Hồ Xuân Thắng Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Ho Xuan Thang Sai Gon University Tóm tắt Dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, Tác giả phân tích những luận cứ của sự bất cập về quy trình xử lý các hành vi Cạnh tranh không lành mạnh của pháp luật cạnh tranh năm 2004, đồng thời đề xuất những kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, phục vụ đắc lực cho việc hội nhập kinh tế thế giới mà nước ta là thành viên. Từ khóa: sửa đổi, bổ sung quy trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nước ta, những bất cập của pháp luật cạnh tranh hiện hành về quy trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam Abstract In the perspective of jurisprudence, the author analyzes the arguments over the inadequacies of the process of acts of unfaircompetition law in 2004 and proposes recommendations to improve the law against unfaircompetition in Viet Nam, serving effectively the process of global economic integration. Keywords: perspective of jurisprudence, unfaircompetition law Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua ngày 3-12-2004, có hiệu lực vào ngày 01-7-2005, đóng góp rất quan trọng đối với việc điều chỉnh hầu hết các quan hệ kinh tế trên thương trường, bảo đảm cho sự lành mạnh của các quan hệ cạnh tranh vốn đang diễn biến phức tạp với sự biểu hiện của rất nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều nội dung quy định trong luật và văn bản hướng dẫn thi hành luật này đã được ban hành, chủ yếu tập trung làm rõ, giải thích các quy định điều chỉnh đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, mà ít chú ý đến các quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và quy trình xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng. Chính vì thế mà việc điều chỉnh loại hành vi này đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai áp dụng vào thực tiễn suốt 10 năm qua. Do vậy, việc nghiên cứu những quy định về quy trình xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của pháp luật cạnh tranh năm 2004 để sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam là rất cần 23 thiết. Dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những luận cứ liên quan đến quy trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh hiện hành và một số kiến nghị hoàn thiện các quy định đó trên phương diện cùng nhau trao đổi. Thứ nhất: Căn cứ điều tra vụ việc cạnh tranh khiếu nại vụ việc cạnh tranh Theo quy định tại Điều 86 của luật cạnh tranh hiện hành, có hai căn cứ để tiến hành điều tra một vụ việc cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh nói riêng, cụ thể được quy định như sau: “Việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh trong những trường hợp sau đây: 1. Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý; 2. Cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật này.” Như vậy theo nội dung quy định tại Khoản 1, Điều 86, chúng ta có thể thấy trình tự, thủ tục áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được bắt đầu từ khi cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh. Tại Điều 58 Luật Cạnh tranh 2004 chỉ rõ, khi tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của Luật có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời cũng có quyền khiếu nại cả những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng cạnh tranh của các cơ quan và người có thẩm quyền hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó, nếu như tổ chức, cá nhân cho rằng việc vi phạm đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp các vi phạm này không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ thì cũng có quyền làm đơn tố cáo về hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo. Thời hiệu khiếu nại theo quy định của Luật Cạnh tranh là 2 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 74 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh ngày 15/9/2005, có hiệu lực ngày 30/9/2005 thì: Để được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý vụ việc, người khiếu nại phải làm đơn và nộp tiền tạm ứng chi phí cho việc giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đơn khiếu nại có nội dung theo mẫu của cơ quan quản lý cạnh tranh, theo đó phải có: ngày tháng năm làm đơn; tên cơ quan quản lý cạnh tranh; họ tên địa chỉ của bên làm đơn khiếu nại, bên bị khiếu nại và của người có quyền, nghĩa vụ liên quan, những vấn đề cụ thể yêu cầu cơ quan quản lý cạnh tranh giải quyết; họ tên địa chỉ của người làm chứng (nếu có), các thông tin liên quan mà bên khiếu nại xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ việc cạnh tranh. Bên khiếu nại là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu là tổ chức nộp đơn khiếu nại thì đại diện hợp pháp của tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu. Mức tạm ứng chi phí, Điều 53 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh ngày 15/9/2005, có hiệu lực ngày 30/9/2005, đã quy định mức tạm ứng chi phí giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh mà người khiếu nại phải nộp bằng 30% mức phí giải quyết vụ việc cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tức là bằng 30% của 10.000.000 đồng. Chứng cứ phải đảm bảo 24 tính trung thực, Điều 76 Nghị định 116/2005/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật cạnh tranh, có nêu rõ: Bên khiếu nại có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh hành vi bị khiếu nại đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chứng cứ có thể là vật chứng, nhưng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc hoặc là lời khai của người làm chứng, giải trình của tổ chức cá nhân liên quan hay tài liệu gốc, bản sao tài liệu gốc, bản dịch tài liệu gốc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; kết quả giám định hợp pháp. Bên khiếu nại phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho khiếu nại, yêu cầu đó của mình là có căn cứ và hợp pháp. Sau khi nhận được đơn của bên khiếu nại và nộp tạm ứng chi phí cho việc giải quyết vụ việc hợp lệ, trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm xem xét và thông báo cho bên khiếu nại biết về việc có thụ lý hay trả lại hồ sơ cho bên khiếu nại nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền điều tra, giải quyết của cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan cạnh tranh sẽ tiến hành điều tra tiền tố tụng nhằm đánh giá lại hành vi của doanh nghiệp trong trường hợp thông qua rà soát thị trường, cơ quan điều tra tự phát hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp trên thị trường có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Thủ trưởng cơ quan điều tra sẽ quyết định tiến hành điều tra vụ việc theo thủ tục tố tụng cạnh tranh, sau quá trình điều tra tiền tố tụng, nếu xét thấy thực sự có dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh. Kiến nghị: - Sửa lại nội dung quy định tại Điều 58 Luật cạnh tranh theo hướng “Trường hợp các vi phạm này không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ thì cũng có quyền làm đơn tố cáo về hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật tố cáo”. Bởi vì cho đến thời điểm này, luật khiếu nại, luật tố cáo năm 2004 đã hết hiệu lực thi hành và thay vào đó là việc Quốc hội khóa XIII thông qua hai luật khiếu nại và tố cáo riêng biệt làm cơ sở để các cá nhân, cơ quan, tổ chức thể hiện quyền cao nhất của mình, nhất là trong việc giải quyết các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Nếu không sửa đổi bổ sung cụ thể việc áp dụng luật tố cáo năm 2011 trong quy định tại Điều 58 của Luật cạnh tranh hiện hành thì việc khiếu nại, tố cáo trong việc xử lý cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh nói riêng sẽ là những văn bản lỗi thời, không khoa học. - Về Thời hiệu khiếu nại theo quy định của Luật Cạnh tranh là 2 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện, quy định tại Luật cạnh tranh là chưa phù hợp. Đối với lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh, theo ý kiến chúng tôi cần thiết phải nâng thời hiệu khiếu nại từ 24 tháng lên thành 36 tháng là hợp lí. Bởi vì, hậu quả từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia kinh doanh, hoạt động thương mại gây ra cho nhà nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng là rất lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nếu để thời hiệu khiếu nại 2 năm như hiện nay thì rất ngắn không kịp phát hiện và xử lý các vụ việc vi phạm có sự rủi ro lớn, tiêu cực mạnh từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thực tiễn. Kinh nghiệm của Liên bang Nga cho thấy: “Đưa ra các thông tin không chính xác về hàng hóa hoặc nhà sản xuất cũng là hành vi vi phạm quy định pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh” và “thời hiệu xử lý từ 3 năm đếm 5 năm kể từ ngày hành vi đó bị phát hiện”(3). 25 Thứ hai: Xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh Theo quy định của pháp luật cạnh tranh hiện hành, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được xử lý theo những trình tự sau đây: Sau khi kết thúc điều tra, xác định là có hành vi cạnh tranh không lành mạnh vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh, điều tra viên sẽ đề nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết định xử lý. Theo hướng dẫn tại quy định của Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thì: Hình thức xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh gồm các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung như: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Tại Điều 4 Nghị định 120/2005/NĐ- CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thì, ngoài các hình thức xử phạt chính và bổ sung nêu trên, tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc cải chính công khai. Mức phạt tiền đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định cụ thể như sau: Mức phạt tiền thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 20 triệu đồng, đối với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Ngoài việc bị phạt tiền, tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; buộc cải chính công khai. Đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, hành vi ép buộc trong kinh doanh:mức phạt từ thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 20 triệu đồng. Ngoài ra còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Đối với các hành vi quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: mức phạt tiền đối với hành vi này cao hơn các hành vi Cạnh tranh không lành mạnh khác như đã nêu trên là 50 triệu đồng, thấp nhất là 15 triệu đồng. Ngoài ra, hành vi này còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm hoặc buộc cải chính công khai. Đối với hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội thì mức phạt tiền thấp nhất là 15 triệu đồng và cao nhất cũng là 50 triệu đồng. Tuy vậy chủ thể thực hiện hành vi này không bị áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục hậu quả. Xử phạt đối với hành vi bán hàng đa cấp bất chính: mức phạt tiền đối với hành vi này là cao nhất so với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác khác, thấp nhất là 50 triệu đồng và cao nhất là 100 triệu đồng. Bên cạnh đó, còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để 26 thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm và hoặc buộc cải chính công khai. Kiến nghị: Các hành vi vi phạm Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Đài Loan (4), có thể bị phạt án tù đến 10 năm hoặc tiền phạt đến 10 triệu yên, hoặc án tù đến 5 năm và phạt tiền đến 5 triệu Yên. Cần học tập kinh nghiệm để sửa đổi, bổ sung mức xử phạt vi phạm bằng tiền đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30-9-2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Tại vì các mức tiền phạt được quy định trong nghị định này liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh chưa tương xứng với mức độ hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia kinh doanh hoạt động thương mại trong thị trường. Đặc biệt là hành vi bán hang đa cấp bất chính, Luật Cạnh tranh quy định cấm doanh nghiệp yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp. Lập luận mà các doanh nghiệp bán hàng đa cấp đưa ra để bảo vệ cho những yêu cầu của mình là các nghĩa vụ đặt cọc hay trả tiền của người tham gia được coi như biện pháp bảo đảm an toàn, uy tín, bình đẳng trong kinh doanh, là ràng buộc vật chất để bảo đảm người tham gia phải tôn trọng uy tín của doanh nghiệp và của sản phẩm. Tuy nhiên dưới góc độ lý thuyết, sự chiếm dụng của hành vi được lý giải thông qua các căn cứ sau: Thứ nhất: Người tham gia mạng đa cấp chỉ là người tiếp thị để bán lẻ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp. Với tư cách của mình, người tham gia tiến hành tiếp thị sản phẩm đến với khách hàng. Doanh nghiệp không ký gửi hàng hóa cho người tham gia để bán dùm. Khi người tham gia trực tiếp bán lẻ hàng hóa cho khách hàng, họ phải thực hiện theo phương thức mua đi bán lại để hưởng phần chênh lệch. Vì vậy, nghĩa vụ đặt cọc hay trả tiền cho việc tham gia là không có căn cứ. Thứ hai: Thực chất của bán hàng đa cấp là người tham gia tiếp thị sản phẩm giúp doanh nghiệp và được hưởng lợi ích từ kết quả tiếp thị, bán hàng của mình và của mạng lưới do mình tổ chức ra. Do đó, quan hệ qua lại về lợi ích và nghĩa vụ giữa doanh nghiệp với người tham gia thực sự chỉ phát sinh khi người tham gia thực hiện việc tiếp thị sản phẩm. Việc gia nhập mạng lưới chưa đem lại cho người tham gia bất cứ lợi ích gì, nên chưa thể ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với họ; Thứ ba: Việc đặt cọc trong các giao dịch phát sinh trên thị trường là biện pháp bảo đảm vật chất mà các chủ thể phải thực hiện với nhau nhằm đảm bảo cho việc thực hiện một nghĩa vụ; việc trả tiền là nghĩa vụ thanh toán của một chủ thể cho việc được hưởng một lợi ích ngang giá. Vì vậy, việc doanh nghiệp buộc người muốn tham gia phải thực hiện các nghĩa vụ nói trên như một điều kiện để xem xét việc có được tham gia mạng lưới hay không là trái với bản chất của việc đặt cọc hay của nghĩa vụ trả tiền trong các thương vụ. Từ các lý lẽ trên, những khoản tiền mà doanh nghiệp có được từ nghĩa vụ vô lý đã áp đặt cho người muốn tham gia là những khoản tài chính mà doanh nghiệp đã chiếm dụng được.Bản chất của bán hang đa cấp bất chính là chiếm dụng vốn, nếu chỉ quy định mức phạt từ thấp nhất là 50 triệu đồng đến 100 triệu cho việc bán hàng đa cấp bất chính là chưa hợp lý với những tác hại nêu trên. Do vậy, chúng tôi kiến nghị cần phải xây dựng lại mức xử phạt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói 27 chung và đặc biệt là hành vi bán hàng đa cấp bất chính để nhằm đủ sức răn đe,chấm dứt hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình đầu tư kinh doanh hoạt động thương mại của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường của nước ta. Thứ ba: Thẩm quyền của cơ quan xử lý cạnh tranh không lành mạnh Bước vào những năm đầu thế kỷ 21 và cũng là giữa thập niên thứ hai của quá trình đổi mới (kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986), các nhà làm luật nước ta đã đặt ra nhiệm vụ trọng yếu là phải xây dựng một đạo luật cạnh tranh mang tầm vóc của một đạo luật căn bản trong cấu trúc của pháp luật thương mại. Do đó, trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng luật cạnh tranh ở các nước tiêu biểu trên thế giới, Luật Cạnh tranh đầu tiên của Việt Nam đã được ban hành năm 2004. Gắn liền với quá trình hình thành pháp luật cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh của nước ta cũng được ra đời trên tinh thần xây dựng và bảo vệ các thiết chế kinh tế, thúc đẩy, giám sát các hoạt động kinh tế để tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã thành lập Ban Quản lý cạnh tranh. Ngày 26-02-2004, để triển khai Nghị định số 29/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thương mại, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh tranh. Theo Quyết định số 1808/2004/QĐ- BTM ngày 06-12-2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại thì Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vào thời điểm, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày 01-07-2005. Ngày 09-01-2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật này, đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan đến vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan đến vụ việc cạnh tranh thì do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) đảm nhận. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh cũng được Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm trong số thành viên của Hội đồng cạnh tranh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Ngày 09-01-2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh. Ngày 12-06-2006, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg bổ nhiệm 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh. Thành viên Hội đồng cạnh tranh là đại diện của các bộ: Bộ Thương mại, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch có 02 Phó Chủ tịch. Để giúp việc cho Hội đồng, ngày 28-08-2006, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã có Quyết định số 28 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. Ban Thư ký gồm 8 người làm việc chuyên trách. Tháng 01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm thêm 5 thành viên nâng tổng số thành viên Hội đồng cạnh tranh lên 16 người. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 49 Luật cạnh tranh hiện hành thì Cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật này; b) Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Thương mại quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; c) Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; d) Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh; đ) Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, cơ quan này có các nhiệm vụ chính đó là kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế, điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh và điều tra, xử lý xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và thương mại. Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp lý, mô hình Cục quản lý cạnh tranh mà quy định trong pháp luật cạnh tranh hiện hành có những bất cập và hạn chế như sau: Một là, trong điều kiện mới được thành lập chưa lâu, số lượng chuyên gia cạnh tranh còn ít thì việc đào tạo, bồi dưỡng điều tra viên, chuyên gia, chỉ mới đáp ứng được nhu cầu trước mắt và chất lượng vẫn còn hạn chế. Số lượng các điều tra viên của Cục chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng. Hai là, suốt thời gian hoạt động, Cục quản lý cạnh tranh vẫn chưa có nhiều động thái nhằm thể hiện vai trò của mình trong đời sống xã hội và chức năng chuyên biệt của nó trong hệ thống cơ quan nhà nước. Theo một khảo sát của Cục Quản lý cạnh tranh được thực hiện từ 01-11-2008 đến 31-12-2008 mà luận án tiến sỹ của NCS Lê Tuấn Anh năm 2008 đã đề cập, cho thấy hiểu biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh dừng lại ở mức “biết Luật Cạnh tranh mới ra đời và nhận thức về cơ quan quản lý cạnh tranh cũng không khả quan hơn”. Điều này xuất phát từ nguyên do kết quả hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh chưa tạo được con số ấn tượng, đáng chú ý của các giai tầng trong xã hội. Ba là, Cục Quản lý cạnh tranh được quy định quá nhiều chức năng, từ điều tra xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Có một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới được quy định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng thực thi pháp luật về các biện pháp đảm bảo công bằng trong thương mại quốc tế như Việt Nam. Điều này đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh trong thời gian qua, bị nhiều chi phối, chức năng quản lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn khá mờ nhạt, do đó việc góp phần minh bạch thị trường hàng hóa, bảo vệ nhà nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng hiệu quả chưa cao. Chúng tôi kến nghị: - Cần sửa đổi bổ sung một số quy định về cơ quan quản lý cạnh tranh trong Nghị định số 06/2006/NĐ-CP Ngày 09-01-2006, của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ 29 quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Trong đó, chú ý nhiều hơn đến số lượng cán bộ, điều tra viên chuyên trách có đủ trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp để thực hiện các cuộc điều tra xử lý nghiêm minh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại. So với hiện nay, số lượng thành viên Hội đồng cạnh tranh bao quát chung về các hành vi cạnh tranh trong cả nước chỉ có 16 là quá ít, chưa thực sự thúc đẩy việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh trái quy định của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho thấy: Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) là một cơ quan độc lập được thành lập bởi Quốc hội vào năm 1938 để thực thi Đạo luật thương mại liên bang. Tại mục 5 của Đạo luật FTC cấm các phương pháp không lành mạnh và nó đã được sửa đổi vào năm 1941, cấm hành vi thương mại lừa đảo và không lành mạnh, nếu các chủ thể tham gia vi phạm hành vi này thì Ủy ban Thương mại, cơ quan cao nhất sẽ có thẩm quyền xử lý (5). Bên cạnh đó, cần xây dựng luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh riêng biệt với hành vi hạn chế cạnh tranh, để chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lí cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thật sự mạnh mẽ theo yêu cầu thực tiễn phát triển. Hiện tại, chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lí cạnh tranh được quy định tại Khoản 2 Điều 49 Luật cạnh tranh hiện hành theo hướng rất rộng và ôm đồm về hai lĩnh vực hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Vì thế cho nên, các quy định về chức năng thiếu tính chuyên sâu về điều chỉnh hành vi không lành mạnh, thực sự là một rào cản đối với việc bảo vệ người tiêu dung, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Kinh nghiệm của Nhật Bản về ván đề này chúng tôi muốn nêu để tham khảo, cụ thể là Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật ra đời khá sớm, từ những năm 1934, gồm 22 điều và một số điều khoản bổ sung qua các lần sửa đổi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường kinh doanh thương mại. Luật này đã thực sự đóng góp phần quan trọng lớn lao đối với việc điều chỉnh độc lập các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế nước Nhật bản trong suốt nhiều thập kỉ qua. Cuối cùng là việc Cơ quan quản lí cạnh tranh (Cục quản lí cạnh tranh) cần phải tập trung tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh sâu rộng đến tất cả hiệp hội cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân. Đặc biệt phải đẩy mạnh công tác điều tra xử lí và thông tin kịp thời đến công chúng về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trong thị trường để nhằm mục đích khuyến cáo ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể trong tương lai. Theo số liệu thống kê của Cục quản lí cạnh tranh thuộc Bộ Công thương về việc xử lý các vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trong cả nước suốt 10 năm qua chỉ vẻn vẹn có 138 vụ việc được xử lí. Đây là những con số rất khiêm tốn, đó cũng là một trong những nguyên nhân các quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh chưa sự đi vào thực tiễn đời sống xã hội. Nếu làm tốt công tác này, chắc chắn nửa triệu doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay trên cả nước sẽ thực sự đi đúng quỹ đạo của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường để 30 chung tay xây dựng phát triển đất nước ta thật sự công bằng, dân chủ, văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luận án Tiến sỹ, đề tài Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam của NCS Lê Tuấn Anh, năm 2008. 2. Luật cạnh tranh năm 2004. 3. Luật Liên bang số 2300-1 ngày 7 tháng 02 năm 1992 về “Bảo vệ người tiêu dùng”. 4. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Đài Loan “Có thể là đối tượng của các vụ kiện dân sự, tức là lệnh đình chỉ và lệnh bồi thường thiệt hại hoặc đối tượng phạt hình sự sẽ phụ thuộc vào độ nghiêm trọng của vi phạm”. 5. Luật Thương mại Liên bang FTC (USA) năm 1938, sửa đổi năm 1951 và 1992. 6. Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết Một số điều của Luật cạnh tranh. 7. Nghi định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. 8. Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại V/v Thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh tranh. 9. Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày 06/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại. 10. Quyết định số 1378/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại V/v Thành lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. 11. Lê Hoàng Oanh (2005), Bình luận khoa học Luật cạnh tranh. Ngày nhận bài: 27/7/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015
File đính kèm:
- mot_so_bat_cap_can_sua_doi_trong_quy_trinh_xu_ly_cac_vu_viec.pdf