Một cách hiểu về chủ nghĩa siêu thực trong thơ hiện đại
Bài viết hướng đến việc cung cấp một cách hiểu về chủ nghĩa siêu thực trong mối liên hệ với nghệ thuật ý niệm, chủ
nghĩa tượng trưng và trong mối quan hệ giữa tạo tác và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Thông qua việc phân tích
quan điểm về siêu thực của Tristan Tzara1, thực hành nghệ thuật của Marcel Duchamp2 và một số tác phẩm hội họa
siêu thực của René Magritte3, bài viết làm rõ những vấn đề về siêu thực như: ý niệm trong siêu thực, ý nghĩa của tác
phẩm siêu thực, sức sống của một tác phẩm siêu thực Bài viết cũng phân biệt chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa
tượng trưng trong thơ, từ đó xác lập một cách nghĩ mới về thơ siêu thực.
Bạn đang xem tài liệu "Một cách hiểu về chủ nghĩa siêu thực trong thơ hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một cách hiểu về chủ nghĩa siêu thực trong thơ hiện đại
5460(11) 11.2018 Khoa học Xã hội và Nhân văn Mở đầu Nằm trong dòng chảy của thơ ca thế giới, thơ Việt Nam hiện đại đương nhiên chịu sự ảnh hưởng từ các trường phái/ quan niệm nghệ thuật của phương Tây. Để khám phá thơ Việt Nam hiện đại, chúng tôi cho rằng cần bắt đầu bằng việc nghiên cứu những lý thuyết có vai trò tiếp sức cho thơ ca phát triển và góp phần đổi mới văn học nghệ thuật phương Tây. Trong đó, chủ nghĩa siêu thực (Surrealism) cần được nhìn nhận như một trong những lý thuyết quan trọng bên cạnh chủ nghĩa tượng trưng trong tiến trình cách tân thơ hiện đại Việt Nam từ năm 1930 nhằm thay đổi những quan niệm truyền thống về thơ nói riêng và nghệ thuật nói chung. Nội dung nghiên cứu Nhiều bài thơ hiện đại Việt Nam là những thách thức với người tiếp nhận và người nghiên cứu bởi sự khác lạ và đột phá trong nội dung và phương thức biểu hiện cũng như ở những kết hợp vượt ra khỏi những dòng mạch quen thuộc của ý thức thơ. Do đó, dù những nhà thơ như Lê Đạt4 đã quan niệm làm thơ là “làm chữ”, đường thơ là “đường chữ”, hay Dương Tường5 đã mặc định cho mình một “thi pháp” mang tên “âm bồi”, và đưa ra khái niệm: con chữ - con âm thì những bài thơ như Mimôza (Mimôza chiều khép cánh mi môi xa), Tóc phố (Gáy nê ông chiều lả liễu lam bay), Noel 1 (Em về phố lặng Lli/Lluâng/Lloang llưng)6 vẫn đòi hỏi người nghiên cứu phải tìm đến những lý thuyết văn học và nghệ thuật hiện đại để tìm lời giải. Tìm hiểu về chủ nghĩa siêu thực và những dấu ấn của lý thuyết này trong những trường hợp cụ thể của sáng tác thơ hiện đại Việt Nam là một trong những cách thức để mở rộng địa hạt của tiếp nhận và “sáng tạo”7. Không phải bài thơ hiện đại nào có tính đột phá trong hình thức biểu hiện và âm điệu cũng có bóng dáng của chủ nghĩa siêu thực, hoặc có thể coi là thơ siêu thực. Tuy nhiên, việc tìm hiểu lý thuyết siêu thực sẽ góp phần chỉ ra những ranh giới về mặt quan niệm giữa thơ và phi thơ, giữa những cách tân có ý thức và hệ thống với những thể nghiệm nghệ thuật đơn lẻ và giữa những quan niệm vốn có về siêu thực như là một địa hạt kỳ bí, khó tiếp cận với siêu thực như là một hệ thống lý thuyết phương Tây có những tiêu chí và đặc điểm sáng tác riêng, là điều mà bài viết hướng tới. Siêu thực và nghệ thuật ý niệm Trước thế kỷ XX, ở phương Tây, “nghệ thuật” gắn với “giá trị” và tác phẩm nghệ thuật phải được tạo tác từ người nghệ sỹ. Những “giá trị” này gắn với việc tác phẩm được vẽ, tạo dựng bằng kỹ thuật bậc thầy và chuyển tải những ý nghĩa sâu sắc. Tuy nhiên, quan niệm này dần bị thay đổi, và sự đổi thay đột ngột nhất đến từ Marcel Duchamp với hàng loạt tác phẩm thuộc nghệ thuật ý niệm lấy nòng cốt là những Một cách hiểu về chủ nghĩa siêu thực trong thơ hiện đại Đinh Minh Hằng* Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Ngày nhận bài 27/2/2018; ngày chuyển phản biện 14/3/2018; ngày nhận phản biện 20/6/2018; ngày chấp nhận đăng 28/6/2018 Tóm tắt: Bài viết hướng đến việc cung cấp một cách hiểu về chủ nghĩa siêu thực trong mối liên hệ với nghệ thuật ý niệm, chủ nghĩa tượng trưng và trong mối quan hệ giữa tạo tác và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Thông qua việc phân tích quan điểm về siêu thực của Tristan Tzara1, thực hành nghệ thuật của Marcel Duchamp2 và một số tác phẩm hội họa siêu thực của René Magritte3, bài viết làm rõ những vấn đề về siêu thực như: ý niệm trong siêu thực, ý nghĩa của tác phẩm siêu thực, sức sống của một tác phẩm siêu thực Bài viết cũng phân biệt chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa tượng trưng trong thơ, từ đó xác lập một cách nghĩ mới về thơ siêu thực. Từ khóa: chủ nghĩa siêu thực, lý thuyết hiện đại, thơ hiện đại, thơ siêu thực. Chỉ số phân loại: 5.10 *Email: dinhminhhangvn@gmail.com 1Tristan Tzara (1896-1963): nhà thơ, nhà phê bình, nghệ sỹ trình diễn tiên phong Pháp và Rumani. 2Marcel Duchamp (1887-1968): họa sỹ, nhà điêu khắc Pháp - Mỹ theo trường phái: lập thể, nghệ thuật ý niệm và Dada. 3René Magritte (1898-1967): nghệ sỹ siêu thực Bỉ. 4Lê Đạt (2009), Đường chữ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn. 5Dương Tường (2017), Dương Tường - Thơ, Nhà xuất bản Nhã Nam. 6Lê Đạt (1994), Bóng chữ, Nhà xuất bản Hội nhà văn. 7Phương Lựu (2003), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục: “Nó (tinh thần mới của Apôline) đấu tranh cho việc phục hồi lại tinh thần sáng tạo”, tr.579. 5560(11) 11.2018 Khoa học Xã hội và Nhân văn sự vật thông thường trong đời sống. Giá trị của tác phẩm nghệ thuật, do đó, có những đổi thay căn bản trong quá trình đánh giá. Nếu như ở phương Tây trước thế kỷ XX, sự phân định giữa một bức tranh và một đồ vật được coi là rạch ròi, thì sau thế kỷ XX, lý thuyết về nghệ thuật hiện đại cho phép những sự dịch chuyển, thông qua đó, một bức tranh có thể được coi là một sự vật trong sáng tạo, và một sự vật có thể xếp vào địa hạt nghệ thuật. Những tác phẩm của Duchamp và hàng loạt tác phẩm đương đại sau này được trình bày trong Bảo tàng Tate, London cho thấy đã có những sự dịch chuyển được chấp nhận trong quan niệm về sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, thông qua đó, những hệ giá trị mới cho điều vẫn được quen gọi là tác phẩm nghệ thuật được định hình. Tuy nhiên, nghệ thuật chắc chắn không phải là một khái niệm dễ dãi dành cho mọi thứ sản phẩm. Khả thể của những sản phẩm sáng tạo trong hành trình đến với nghệ thuật hiện đại và đương đại là cơ hội cho mọi tác giả, nhưng đồng thời cũng là những thách thức, trước hết, với chính họ. Theo Sol LeWitt8, nghệ thuật hiện đại “Quan tâm tới ý tưởng hơn là kỹ thuật, chất liệu và thẩm mỹ truyền thống” [1], nhưng theo Marcel Duchamp, nó đồng thời cũng không thể làm hài lòng tất cả mọi người. Như vậy, hiểu về nghệ thuật đương đại cũng là một cách tìm đến “những ý niệm” hay “ý tưởng” trong tác phẩm nghệ thuật. Quan điểm này cũng phần nào giúp phân định, trong hàng loạt những thể nghiệm của trào lưu thơ hiện đại Việt Nam, đâu là những tác phẩm được tạo tác từ một ý tưởng xác quyết, đâu là những thể nghiệm được tạo nên một cách không chủ ý. Duy trì quan niệm về một hoặc nhiều “ý tưởng, ý niệm” trong thơ cũng là cách giúp người đọc khám phá ra những chiều kích khác biệt của tác phẩm một cách logic và hợp lý giữa vô vàn những sắp đặt, lắp ghép, hoán đổi của từ ngữ, câu chữ và hình thức thể hiện. Một hoặc nhiều ý niệm cũng cho phép người tiếp nhận tiến đến việc đánh giá các tác phẩm dựa trên một hệ thống tiêu chí, đặc điểm của lý thuyết văn học và nghệ thuật, góp phần nhận định tác phẩm và tác giả ở những vị trí xứng đáng trong tiến trình văn học nói chung. Với bức tranh “Xuyên thời gian” (Time Transfixed)9, René Magritte nói với người đọc về cái siêu thực bằng những điều rất thực: xe lửa, lò sưởi, bức tường, cái đồng hồ tất cả đều là những sự vật hiện hữu có thể tưởng tượng được, thậm chí có thể tiếp xúc được trong đời sống. Nhưng ý niệm được gợi ra chính là khi chiếc xe lửa đâm xuyên qua tường, và từ chính tựa đề bức tranh - một sự xuyên thời gian gợi nhớ rất nhiều tới những biểu tượng xuyên thời gian và không gian khác đã có trong văn học thế giới mà khởi thủy chính là tác phẩm Alice ở xứ sở kỳ diệu (Alice in Wonderland)10. Ngoài ra, tính chất hiện đại của nó còn được mang lại từ quan niệm về “một thế giới khác từ đằng xa” (the faraway land) trong nghệ thuật phương Tây. Ngay cả việc Magritte chọn địa điểm tàu xuyên qua là lò sưởi cũng có thể là một ý tưởng gợi nhớ đến lò sưởi trong tác phẩm kinh điển Bài hát mừng Giáng sinh (A Christmas Carol) của Charles Dickens11. Như vậy, có thể thấy, chủ nghĩa siêu thực không hề “siêu thực” hiểu theo nghĩa phi logic, bí hiểm, cố gắng bóp méo, làm lạ, làm khác. Cũng giống như các lý thuyết nghệ thuật khác, chủ nghĩa siêu thực góp một tiếng nói logic và sáng tạo trong việc nhìn thế giới với một chiều kích khác, ở những mối quan hệ khác. Ở đó, những định hình, định tính của sự vật hầu như không đổi (“Những bức tranh của tôi là những hình ảnh có thể nhìn thấy và không che dấu điều gì” - René Magritte) [2], chỉ có “ý tưởng, ý niệm” là được định hình và không lặp lại. Nói như André Breton, “Khoảng cách (giữa hai thực thể) càng xa, sự có nguyên cớ càng nhiều thì hình ảnh càng mạnh mẽ” [3]. Surrealism in modern poetry Minh Hang Dinh* Hanoi National University of Education Received 27 February 2018; accepted 28 June 2018 Abstract: This article aims to provide an understanding of surrealism in relation to conceptual art, symbolism and the relationship between art-creation and art-reception. By analysing Tristan Tzara’s surrealist ideologies, Marcel Duchamp’s art experiments and some surrealist paintings by René Magritte, the article clarifies surrealistic issues such as concepts in surrealism, the meaning of a surrealist work and its vitality. The article also distinguishes surrealism and symbolism in poetry and contributes a new way of thinking about surrealist poetry. Keywords: modern poetry, modern theory, Surrealism, surrealist poetry. Classification number: 5.10 8Sol LeWitt (1928-2007): nghệ sỹ Mỹ theo nghệ thuật ý niệm và chủ nghĩa tối giản. 9Magritte (1938), Time transfixed, London: Thames & Hudson, pp.108. 10L. Carroll, R.L. Green và J. Tenniel (1971), Alice in wonderland: and, through the looking-glass and what alice found there, London: Oxford University Press. 11C. Dickens (2013), A christmas carol, Cambridge University Press. 5660(11) 11.2018 Khoa học Xã hội và Nhân văn Siêu thực và sáng tạo Mối quan hệ giữa lý thuyết siêu thực và hoạt động sáng tạo - tiếp nhận thể hiện ở hai khía cạnh như sau: Đối với tiếp nhận tác phẩm: Nếu như Dada góp phần tạo ra những “đổi thay mang tính cách mạng trong xã hội và nghệ thuật (Hans Richter) [4] thì siêu thực được nhận định là tạo ra “mối gắn kết bền chặt giữa thơ ca và nghệ thuật hơn tất thảy trước đây” (Anna Balakian) [5]. Một trong những người góp phần lập thuyết cho chủ nghĩa siêu thực - Tristan Tzara - đã khẳng định: “Nó (siêu thực) không liên quan gì tới việc hủy diệt văn chương” [6]. Cái mà những nhà siêu thực thời kỳ đầu quan niệm về sự đổi thay có tính chất mãnh liệt, đó chính là việc làm lu mờ vị trí của người tạo tác/cá nhân. Điều này không nằm ngoài xu hướng của văn học hiện đại và hậu hiện đại là chuyển dịch từ nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nhà văn/tác giả sang coi trọng độc giả, đề cao tính độc lập tương đối của văn bản trong quá trình tiếp nhận. Những xu hướng sáng tác về sau này như thơ ca ngôn ngữ (Language poetry) cũng tiếp biến những đặc điểm của chủ nghĩa siêu thực và vận dụng nó trong địa hạt thơ ca. Suman Chakroborty đã viết: “Đối với độc giả, các nhà văn N=G=Ô=N=N=G=Ữ làm việc như những người khai mở “những cách tạo ra ý nghĩa” - họ là những người lao động của ngôn ngữ, những người buộc người đọc phải tham gia tích cực vào sản xuất ý nghĩa” [7]. Như vậy, những kinh nghiệm và góc nhìn cá nhân sẽ mang lại những diễn dịch khác nhau cho tác phẩm nghệ thuật, đứng từ góc độ người tiếp nhận. Thậm chí, ở những khoảng thời gian khác nhau, tác phẩm sẽ thẩm thấu, hoặc vang vọng đến cùng một độc giả với những thanh âm khác nhau. Việc phối/kết hợp những sự vật xa nhau để tạo ý tưởng, ý niệm, do đó, chỉ là bước khởi đầu cho một hành trình “sống” của một tác phẩm hiện đại nói chung và siêu thực nói riêng sau quá trình tạo tác. Đối với sáng tạo tác phẩm: Mary Ann Caws khi bàn về việc trở thành một nghệ sỹ siêu thực đã đặc biệt quan tâm tới “trạng thái tiếp nhận” và chú tâm đến “những khả năng có thể xảy ra mà trong đó sự vật, khung cảnh và những liên hệ tinh thần kết nối nhau lại với một cường độ cao hơn những khoảnh khắc thông thường” [8]. Những nhà thơ thuộc thơ ca hình tượng (Imagist poetry) khi bàn về sáng tạo cũng đặt yếu tố hình ảnh mãnh liệt đầu tiên (first intensity) [9] làm tiêu chí trong việc chuyển tải và sáng tạo thơ “như nó vốn có”. Quá trình sáng tạo của thơ siêu thực nói riêng và thơ hiện đại nói chung đều được xác lập trên quan điểm tôn trọng sự vật và thực thể, tôn trọng cái bản nguyên của hình tượng và cảm xúc để từ những tiếp nhận ban đầu ấy mà tạo nên những kết hợp có tính chất siêu thực. Gomringer khi nói về chữ và những tạo tác thơ đã dùng hình ảnh chòm sao để miêu tả về một cấu trúc đầy sáng tạo mà cũng rất trật tự: “Chòm sao là một cấu hình đơn giản nhất có thể trong thơ, nó có đơn vị cơ bản là chữ, nó bao gồm một nhóm các chữ giống như đang vẽ những ngôi sao với nhau để tạo thành một cụm” và “Chòm sao là một sự sắp xếp, và đồng thời là một sân chơi có những chiều kích cố định” [10]. Sự sáng tạo “được định hình”, trở thành những nguyên tắc, quy luật của thơ cũng là điều mà George Puttenham đề cập đến với hàng loạt những dạng thức thơ trong hình dáng, hình thức trình bày phong phú (thơ viết theo hình trụ, oval, hình tháp trong sách “Nghệ thuật thơ Anh” (The Arte of English Poesie) xuất bản từ năm 1589 [11]. Siêu thực và tượng trưng Thơ Việt Nam cuối thời kỳ Thơ mới có những tác phẩm hoặc hiện tượng được quen gọi là tượng trưng - siêu thực nhằm lý giải cho sự xuất hiện của những câu thơ trừu tượng, khó đọc, tiếp nối dòng mạch tượng trưng từ những năm 1930. Một số bài thơ của Hàn Mặc Tử, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Xuân Sanh12 cũng được xếp vào địa hạt tượng trưng - siêu thực. Cách gọi này có thể phù hợp trong trường hợp một số bài thơ hoặc hiện tượng thơ có dấu vết của cả tượng trưng và siêu thực. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng, siêu thực là một hình thức tiếp biến của tượng trưng trong dòng chảy của thơ ca hiện đại Việt Nam. Do đó, muốn nhận diện những đặc điểm của siêu thực trong thơ hiện đại Việt Nam, ngoài nội dung biểu đạt, còn cần quan tâm tới các yếu tố về chủ thể sáng tạo, cách thức xây dựng hình ảnh, việc dùng ẩn dụ, biểu tượng và sắp xếp cấu trúc, ngôn ngữ thơ. Giữa hai lý thuyết tượng trưng và siêu thực có những điểm khác biệt cơ bản. Việc phân biệt giữa thơ sáng tác theo khuynh hướng tượng trưng và thơ sáng tác theo khuynh hướng siêu thực sẽ định hướng tính chuyên nghiệp của các nhà thơ hiện đại Việt Nam; mặt khác, cũng giúp người tiếp nhận có cái nhìn khách quan hơn về sự tồn tại của yếu tố siêu thực trong thơ Việt Nam từ thời kỳ Thơ mới, vốn có chỗ đứng độc lập với thơ Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng. Những khác biệt cơ bản giữa tượng trưng và siêu thực trước hết xuất phát từ vấn đề trung gian là mối quan hệ giữa hai lý thuyết này với cái có thực hay chủ nghĩa hiện thực. Khi bàn tới “thế giới lý tưởng” vượt lên trên cảm xúc của chủ nghĩa tượng trưng, Cecil Maurice Bowra13 cho rằng nó hoàn toàn đối lập với hiện thực, chống lại kinh nghiệm và thực chứng. Trong khi đó, người sáng tác theo chủ nghĩa siêu thực như René Magritte chủ trương coi hiện thực và sự vật là đối tượng sáng tác. Hơn thế nữa, nếu như chủ nghĩa tượng trưng đề cao cái tôi, tiếng nói nội cảm của tâm hồn, sự thăng hoa của cảm xúc cá nhân, sự không kiểm soát lý trí trong những giấc mơ thì vấn đề người sáng tạo với tư cách một cá nhân vắng bóng trong thơ siêu thực. Những nhà thơ 12Nhiều tác giả (2004), Thơ mới 1932-1945, tác giả và tác phẩm, Nhà xuất bản Hội Nhà văn. 13Cecil Maurice Bowra (1943), The Heritage of Symbolism ... ạo, quản lý và xã hội nói chung về tôn giáo đã có sự thay đổi mang tính căn bản. Nếu như trước, chúng ta nhìn tôn giáo chủ yếu dưới góc độ như là hình thái ý thức, phản ánh hư ảo đời sống con người, và dường như chỉ liên quan đến đời sống tâm linh, tinh thần của con người, thì bây giờ chúng ta đã nhìn nhận tôn giáo như một thực thể xã hội, có những vai trò đối với các mặt của đời sống cá nhân cũng như đời sống xã hội. Nếu như trước đây, có những lúc chúng ta xem tôn giáo, tín ngưỡng như là những biểu hiện của mê tín dị đoan, lạc hậu, tiêu cực cần xóa bỏ, thì nay chúng ta nhận thấy tôn giáo có nhiều giá trị tốt đẹp cần phát huy. Nguồn lực tôn giáo, như một số quan điểm vừa nêu ở trên có nội hàm khá rộng. Không chỉ là nguồn lực tinh thần, mà còn là nguồn lực vật chất. Từ khía cạnh nguồn lực tinh thần, đó chính là giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị giáo dục, các triết lý nhân văn, hướng thiện... những giá trị này đã và đang tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội. Về nguồn lực vật chất, các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam có một hệ thống cơ sở thờ tự với nhiều di sản có giá trị, là tiềm năng lớn có thể khai thác. Các tôn giáo có thể thu hút được các nguồn lực rất lớn từ xã hội như: nguồn lực kinh tế, nguồn lực con người, nguồn lực văn hóa... từ đây, các tôn giáo lại chuyển những nguồn lực đã thu hút này vào xã hội, vào các lĩnh vực như an sinh xã hội, từ thiện xã hội, y tế, giáo dục... Nói riêng về các di sản tôn giáo, tín ngưỡng, đây chính là nguồn tài nguyên tôn giáo có thể khai thác để phát triển kinh tế, xã hội, phục vụ phát triển du lịch. Trong bối cảnh du lịch tâm linh, du lịch văn hóa phát triển mạnh, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, thì nguồn tài nguyên tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam (mà hạt nhân là các di sản tôn giáo, tín ngưỡng) với những đặc trưng riêng, đặc thù gắn với văn hóa truyền thống, phong tục tập quán Việt Nam sẽ là những sản phẩm có giá trị, chắc chắn sẽ thu hút được sự quan tâm, chú ý của mọi người. Chúng ta đang sở hữu một nguồn tài nguyên di sản tôn giáo, tín ngưỡng vật thể và phi vật thể vô tận, quý giá. Vấn đề ở chỗ: chúng ta khai thác nguồn tài nguyên đó như thế nào? Khai thác các di sản tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ du lịch Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng gần 30.000 cơ sở thờ tự của các tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ cư sỹ Phật hội Việt Nam), đấy là chưa kể hàng chục nghìn cơ sở tín ngưỡng (đình, đền, miếu). Trong số này, chiếm một tỷ lệ không nhỏ là các cơ sở thờ tự đã được công nhận di tích cấp tỉnh, cấp quốc gia, di tích cấp quốc gia đặc biệt. Bên cạnh các di sản tôn giáo, tín ngưỡng vật thể như vừa nêu, ở Việt Nam còn có các di sản tôn giáo, tín ngưỡng phi vật thể như các lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng. Theo thống kê của cơ quan quản lý văn hóa, Việt Nam có khoảng hơn 8.000 lễ hội diễn ra hàng năm, trong số đó có khoảng 600 lễ hội tôn giáo. Tuy nhiên, hầu như trong các lễ hội diễn ra ở Việt Nam đều chứa đựng các yếu tố tôn giáo. Với số lượng cơ sở thờ tự tôn giáo, tín ngưỡng và các lễ hội tôn giáo lớn như vậy, thì đây là nguồn tài nguyên phong phú, dồi dào cho phát triển du lịch. Nguồn tài nguyên này phân bố đều trên khắp cả nước, gắn với các khu vực, vùng miền, gắn với các tộc người, gắn với các loại hình văn hóa, phong tục, tập quán do vậy có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch. Đây là nguồn tài nguyên đặc biệt, không bị cạn kiệt như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Nếu 6260(11) 11.2018 Khoa học Xã hội và Nhân văn như biết khai thác, phát huy gắn với giữ gìn, bảo tồn thì nguồn tài nguyên này còn tiếp tục được củng cố, làm giàu hơn, phong phú hơn, do đó có thể khai thác một cách lâu dài, bền vững. Nguồn tài nguyên tôn giáo, tín ngưỡng dồi dào, phong phú và đặc sắc ở Việt Nam là nguồn nguyên liệu để “chế biến” thành các sản phẩm du lịch. Trong thời đại CMCN 4.0, chúng ta cần tận dụng để đem các sản phẩm này phục vụ khách du lịch trên toàn thế giới một cách nhanh chóng, thuận tiện. Để làm được điều đó, trước tiên cần xây dựng cơ sở dữ liệu về các di sản tôn giáo, tín ngưỡng. Bước tiếp theo là chúng ta cần số hóa các dữ liệu này và tích hợp vào các phần mềm, ứng dụng phần mềm, các website, bản đồ số hóa... Các sản phẩm này có thể là sản phẩm trực tiếp hay hàng hóa trực tiếp (như các ứng dụng chạy trên các thiết bị như điện thoại, máy tính, máy tính bảng; các video, các bộ phim, thực tế ảo...), cũng có thể là công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc tìm kiếm thông tin, cung cấp thông tin, hướng dẫn cho du khách trước khi đi tham quan, du lịch. Khi được cung cấp đầy đủ thông tin về các di sản tôn giáo, tín ngưỡng cùng với các thông tin đi kèm như: các chỉ dẫn về bản đồ, các loại hình dịch vụ, chi phí thì khả năng khách du lịch lựa chọn để đi du lịch sẽ cao hơn. Việc khai thác các di sản tôn giáo, tín ngưỡng như vừa trình bày ở trên không chỉ phục vụ du lịch mà còn có tác dụng quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết của cộng đồng đối với các di sản văn hóa nói chung, di sản tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng, qua đó góp phần xã hội hóa công tác gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản này trong xây dựng và phát triển đất nước. Khai thác các di sản tôn giáo, tín ngưỡng chính là khai thác nguồn lực tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá. Việc khai thác các di sản tôn giáo, tín ngưỡng có thể mang lại nhiều lợi ích như vậy, nhưng trong thời gian qua, việc này chưa được quan tâm một cách thỏa đáng, chưa có cách làm, chưa có những định hướng phát triển lâu dài. Do vậy, việc khai thác mang tính tự phát, mạnh ai nấy làm, khai thác chưa gắn với bảo tồn, mới chỉ chú trọng khai thác những yếu tố bên ngoài, mà chưa chú ý khai thác những giá trị của di sản (giá trị lịch sử, giá trị tôn giáo, giá trị văn hoá). Chính vì cách khai thác mang tính tự phát đã dẫn đến tình trạng xuống cấp của di sản, đánh mất bản sắc của di sản ở Việt Nam hiện nay. Liên kết ngành trong việc xây dựng sản phẩm du lịch gắn với khai thác di sản tôn giáo, tín ngưỡng Khai thác các di sản văn hoá nói chung, di sản tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển du lịch nói riêng là một chức năng, nhiệm vụ của ngành văn hoá, thể thao và du lịch. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ này, một trong những việc mà ngành văn hoá phải làm là giữ gìn, bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các di tích, phục hồi, phục dựng các lễ hội, phục hồi các ngành nghề truyền thống, các sản phẩm, mặt hàng truyền thống, xây dựng các chương trình, sản phẩm du lịch... Tuy nhiên, trong bối cảnh CMCN 4.0 thì việc khai thác, phát huy giá trị di sản văn hoá nói chung, di sản tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng cần phải tiến hành theo những phương thức mới. Đây không phải là công việc của riêng một ngành nào, mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn nói đến sự phối hợp của ngành KH&CN với ngành văn hoá, thể thao và du lịch trong khai thác và phát huy giá trị di sản tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ phát triển du lịch. Đối với ngành KH&CN Trước hết, nói về khía cạnh quản lý nhà nước, ngành này có chức năng định hướng nghiên cứu, tạo ra các cơ chế, chính sách, các điều kiện cần thiết, cũng như tổ chức các hoạt động khoa học, kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học. Ở khía cạnh công nghệ, lĩnh vực này nghiên cứu các sản phẩm khoa học kỹ thuật, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu mà lĩnh vực này đạt được có thể áp dụng với các lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Dường như trong cuộc CMCN 4.0, các lĩnh vực khoa học khác nhau ngày càng phải xích lại gần nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau để tạo ra những sản phẩm đa giá trị. Mỗi một sản phẩm trong thời đại CMCN 4.0 cần phải có sự phối hợp của nhiều ngành, lĩnh vực, một sản phẩm phải chứa đựng hàm lượng của nhiều loại tri thức khác nhau. Lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn có vai trò và chức năng nghiên cứu tìm kiếm, phát hiện giá trị, xác định bản sắc, đặc thù của các di sản văn hoá, di sản tôn giáo, tín ngưỡng; hệ thống hoá những giá trị này, phân loại các di sản, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các di sản này. Giá trị của các sự vật, hiện tượng không phơi bày ra trước mắt chúng ta, mà ẩn sâu trong hình hài của 6360(11) 11.2018 Khoa học Xã hội và Nhân văn các sự vật, hiện tượng đó, nhiệm vụ của khoa học xã hội và nhân văn là tìm kiếm các giá trị đó. Tuy nhiên, đấy mới là khía cạnh thứ nhất. Ở khía cạnh thứ hai, khoa học xã hội và nhân văn phải đi tìm kiếm những giá trị phục vụ cho cuộc sống con người, phục vụ cho xây dựng, phát triển đất nước, mà mỗi một giai đoạn, mỗi một thời kỳ, yêu cầu phát triển đất nước lại khác nhau. Trên phương diện tạo ra các sản phẩm phục vụ du lịch, khoa học xã hội và nhân văn phải nghiên cứu các giá trị. Đây là công việc có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra những sản phẩm phục vụ du lịch có chất lượng, có sức hấp dẫn đối với du khách. Sản phẩm có chất lượng là sản phẩm chứa đựng nhiều giá trị, hay nói cách khác là có giá trị nhiều mặt. Từ các góc độ khác nhau, khoa học xã hội và nhân văn, đã và đang nghiên cứu tìm ra giá trị các mặt của các di sản tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ việc bảo tồn, phát huy các di sản này, mà cụ thể là phục vụ du lịch. Khi khoa học xã hội và nhân văn đã nghiên cứu các giá trị và xây dựng cơ sở dữ liệu về di sản tôn giáo, tín ngưỡng thì lúc này, khoa học công nghệ phát huy vai trò của mình trong nghiên cứu, xây dựng các phần mềm ứng dụng, các công cụ tích hợp, biến các sản phẩm của khoa học xã hội và nhân văn thành những sản phẩm thực sự phục vụ nhu cầu của người dùng, có thể phổ biến và lưu thông trên môi trường số hoá và hoà nhập vào môi trường quốc tế. Vì thế, vai trò của khoa học công nghệ cũng vô cùng quan trọng. Đối với ngành văn hoá, thể thao và du lịch Một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của ngành văn hoá, thể thao và du lịch chính là giữ gìn, bảo tồn các di sản văn hoá nói chung, di sản tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng. Với chức năng của một cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá, ngành văn hoá, thể thao và du lịch có nhiệm vụ xây dựng các chính sách, pháp luật nhằm bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các di sản, quy hoạch vùng bảo vệ di sản, lập hồ sơ di sản, ngăn chặn các yếu tố thiên nhiên, con người xâm phạm di sản. Ngoài ra, ngành còn chức năng quan trọng nữa đó là phát huy di sản. Một trong những cách thức phát huy di sản đó là mang các giá trị di sản như là những sản phẩm du lịch đến với du khách, hay người tiêu dùng sản phẩm du lịch. Ngành văn hoá, thể thao và du lịch thực hiện chức năng tổ chức, giới thiệu, quảng bá các di sản văn hoá, di sản tôn giáo, tín ngưỡng như những sản phẩm du lịch; đưa du khách đến thưởng thức các sản phẩm du lịch đó. Bản thân ngành văn hóa, thể thao và du lịch cũng tạo ra các sản phẩm du lịch, tuy nhiên, ngành này không thể đồng thời nghiên cứu, tìm kiếm, phát hiện giá trị vừa xây dựng các ứng dụng công nghệ để tích hợp các giá trị và cơ sở dữ liệu để tạo ra sản phẩm du lịch. Trong bối cảnh CMCN 4.0, cần phối hợp với các ngành, nhất là ngành KH&CN cũng như với toàn xã hội để tạo ra các sản phẩm và đem các sản phẩm đó vào cuộc sống. Cuộc CMCN 4.0 chắc chắn sẽ làm thay đổi nhiều điều ở ngành du lịch, từ cách thức tạo ra sản phẩm du lịch, cách thức quảng bá đến cách thức tổ chức du lịch... Do vậy, nếu không ý thức được điều này, vẫn cứ làm theo cách cũ, chúng ta không thể tạo ra được những đột phá trong phát triển du lịch, khó đưa ngành này trở thành mũi nhọn như Nghị quyết 08-NQ/TW yêu cầu. Kết luận Chúng ta đang sở hữu nguồn tài nguyên quý giá, vô tận là nguồn tài nguyên văn hoá nói chung, tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng. Cần xem nguồn tài nguyên tôn giáo, các di sản tôn giáo, tín ngưỡng vật thể, phi vật thể là một trong những sản phẩm chủ lực phục vụ phát triển du lịch trong thời đại CMCN 4.0. Nếu biết cách khai thác nguồn tài nguyên này, chúng ta sẽ tạo ra được nhiều loại hình sản phẩm phong phú, đa dạng, mang bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam, góp phần phát triển du lịch, phát triển kinh tế - xã hội, mang lại sự phát triển bền vững của đất nước. Không chỉ phục vụ du lịch, nguồn tài nguyên tôn giáo còn có thể trở thành “nguyên liệu” cho ngành công nghiệp văn hoá, là chất liệu cho sáng tạo nghệ thuật... Như chúng ta đã biết, các nguồn tài nguyên khác có nguồn gốc tự nhiên như dầu khí, than đá, khoáng sản... mang tính hữu hạn, không thể khai thác mãi; chi phí cho việc khai thác nguồn tài nguyên này ngày càng tốn kém; hậu quả để lại về môi trường, biến đổi khí hậu, phá vỡ cảnh quan là rất nặng nề... Trong khi đó, nguồn tài nguyên văn hóa nói chung, tài nguyên tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng có thể khai thác mãi mà không bao giờ cạn kiệt, chi phí để khai thác nguồn tài nguyên này lại ít hơn rất nhiều so với chi phí khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đặc biệt, nếu biết cách khai thác, phát huy nguồn tài nguyên tôn giáo, tín ngưỡng thì nguồn tài nguyên này lại càng được củng cố, càng được bồi đắp phong phú hơn. 6460(11) 11.2018 Khoa học Xã hội và Nhân văn Việc khai thác tài nguyên tôn giáo, tín ngưỡng gồm: nghiên cứu, khảo sát, sưu tầm, hệ thống hóa, phân loại, sắp xếp, đánh giá các di sản tôn giáo, tín ngưỡng... nhằm xây dựng hệ cơ sở dữ liệu về các di sản tôn giáo, tín ngưỡng, trên cơ sở đó tiến hành số hóa các dữ liệu này; bước tiếp theo là xây dựng các phần mềm, các ứng dụng công nghệ thông tin, các website... để đưa các dữ liệu, nguồn tài nguyên này lên môi trường số hóa, phục vụ nhu cầu của khách du lịch. Đây không những có thể trở thành sản phẩm trực tiếp mà còn là sản phẩm trung gian nhưng lại không thể thiếu để có thể kết nối các sản phẩm du lịch khác trong thời đại CMCN 4.0. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, công việc rất quan trọng này lại chưa được tiến hành một cách có hệ thống, hệ cơ sở dữ liệu về các di sản tôn giáo, tín ngưỡng lại chưa được xây dựng. Do vậy, đây là vấn đề cần quan tâm thực hiện trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0. [2] Lê Thị Tình, Đoàn Thị Mai Liên, Về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, van-de-su-kien/2017/46674/Ve-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan- thu-tu.aspx [3] Đỗ Quang Hưng (2010), “Tôn giáo cũng là một nguồn lực trí tuệ”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 5, tr.9. [4] Trương Văn Chung, Tôn giáo ở Việt Nam - Một nguồn lực mới góp phần phát triển xã hội bền vững, ticleId=c67e6c91-3af4-4c32-ba92-f76221b57020. [5] Nguyễn Hồng Dương (2018), “Nguồn lực tôn giáo trong quá trình phát triển đất nước”, Bản tin Lý luận & Thực tiễn, 55, tr.40. [6] ly-kien-nghi-cua-cac-to-chuc-ton-giao/201612/25823.vgp.
File đính kèm:
- mot_cach_hieu_ve_chu_nghia_sieu_thuc_trong_tho_hien_dai.pdf