Mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ
Nghiên cứu này kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ với dữ liệu gồm 2.572 quan sát của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán VN từ 2008 đến 2013.
Nghiên cứu này sử dụng cả hai mô hình ước lượng dữ liệu bảng tĩnh và động để
kiểm định mối quan hệ này. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại mối quan hệ hình
“U ngược” giữa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt trên tổng
tài sản tại các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, khác với các nghiên cứu khác, nghiên
cứu này cho thấy tồn tại mối quan hệ hình chữ N giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ
lệ tiền mặt nắm g
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 58 1. giới thiệu Tiền và các khoản tương đương tiền là một trong những yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp quan tâm. Theo nghiên cứu của Kelcheva và Lins (2003), tiền và các khoản tương đương tiền thường chiếm khoảng 16% tổng tài sản của các công ty Mỹ. Guney và các cộng sự (2003) tìm ra tỷ lệ tiền bình quân của các doanh nghiệp Pháp chiếm 12,35% tổng tài sản, và tỷ lệ này chiếm khoảng 10,3% trên tổng tài sản tại các doanh nghiệp Anh quốc. Tại VN, tỷ lệ tiền và các khoảng tương đương tiền trên tổng tài sản chiếm khoảng hơn 9%. Như vậy, nhìn chung, tỷ lệ tiền và các khoản tương đương tiền của các doanh nghiệp trên thế giới cũng như tại VN chiếm một tỷ lệ tương đối cao so với các tài sản ngắn hạn khác. Hơn nữa, trong một thị trường không hiệu quả, nắm giữa tiền mặt và đưa các quyết định liên quan đến tài sản tài chính có tính thanh khoản sẽ ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp huy động nguồn tài trợ từ bên ngoài, sự hiện diện của bất cân xứng thông tin giữa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp sẽ tăng lên. Do đó, giá trị doanh nghiệp sẽ tăng khi doanh nghiệp nắm giữ một lượng lớn tiền mặt (Myers và Majluf, 1984). Tuy nhiên, Jensen (1986) cho rằng sự mâu thuẫn giữa các cổ đông và nhà quản lý sẽ gia tăng khi doanh nghiệp nắm giữ một lượng lớn tiền mặt. Gần đây có nhiều nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố tác động đến tiền mặt của doanh nghiệp như Ozkan và Ozkan (2004), Hofmann (2006), Hardin, Highfeild, Hill và Kelly (2009), Megginson và Wei (2010) hay Ogundipe, Ogundipe và Ajao (2012). Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu về mối quan hệ giữa lượng tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Cụ thể, Harford (1998) cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa nắm giữ tiền mặt và giá trị doanh nghiệp; Saddour (2006) Mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ NguyễN Thị LiêN hoa NguyễN Lê NgâN TraNg Lê Thị PhươNg Vy Đại học Kinh tế TP.HCM Nghiên cứu này kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ với dữ liệu gồm 2.572 quan sát của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán VN từ 2008 đến 2013. Nghiên cứu này sử dụng cả hai mô hình ước lượng dữ liệu bảng tĩnh và động để kiểm định mối quan hệ này. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại mối quan hệ hình “U ngược” giữa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản tại các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, khác với các nghiên cứu khác, nghiên cứu này cho thấy tồn tại mối quan hệ hình chữ N giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ. Từ khóa: Tỷ lệ tiền mặt nắm giữ, giá trị doanh nghiệp, sàn chứng khoán Việt Nam. Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 59 và Naoka (2012) đưa ra mối quan hệ nghịch chiều giữa giá trị doanh nghiệp và lượng tiền mặt nắm giữ. Nghiên cứu gần đây nhất về chủ đề này nghiên cứu của Martinez-Sola và cộng sự (2013). Trong nghiên cứu của mình, các tác giả cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa lượng tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp. Nhìn chung, các nghiên cứu này đưa ra kết luận tồn tại mối quan hệ giữa lượng tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp và các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh lượng tiền mặt tối ưu dựa vào mối quan hệ giữa các yếu tố này. Mặc dù có sự gia tăng trong số lượng nghiên cứu về chủ đề tiền mặt của doanh nghiệp, nhưng tại VN, những nghiên cứu về mối quan hệ lượng tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp vẫn chưa nhiều. Trên cơ sở đó, trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện kiểm định mối quan hệ giữa lượng tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, với mục tiêu kiểm định rằng liệu doanh nghiệp có giữ lượng tiền mặt tối ưu hay không, nghiên cứu này tập trung vào kiểm định mối quan hệ giữa hai yếu tố này để xác định lượng tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp thông qua mô hình phi tuyến bậc hai và bậc ba. Phần còn lại của nghiên cứu được trình bày như sau: Phần 2 sẽ đưa ra thảo luận về cơ sở lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm liên quan mối quan hệ giữa tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp; phần 3 sẽ miêu tả về phương pháp nghiên cứu; phần 4 trình bày về dữ liệu và phương pháp nghiên cứu; cuối cùng, kết luận và hàm ý chính sách sẽ được trình bày trong phần 5. 2. Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu Đưa ra quyết định nắm giữ một lượng tiền mặt trong doanh nghiệp hoặc các quyết định liên quan đến tài sản tài chính có tính thanh khoản cao sẽ ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp, trong một thị trường không hiệu quả. Ngoài ra, nắm giữ tiền mặt và tài khoản thanh khoản cao có sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí. Những cơ sở lý thuyết học thuật và những bằng chứng thực nghiệm đã cho thấy mối quan hệ quan hệ giữa lượng tiền mặt nắm giữ sẽ ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp thông qua sự đánh đổi này. 2.1. Cơ sở lý thuyết Hầu hết các nghiên cứu gần đây đều cho thấy nắm giữ tiền mặt và các sản thanh khoản đều có sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí nắm giữ. Opler và cộng sự (1999); Okzan và Okzan (2004) và hầu hết các nghiên cứu đưa ra hai lý do cơ bản để nắm giữ tiền mặt, đó là động cơ chi phí giao dịch và động cơ phòng ngừa. Thứ nhất, đối với động cơ chi phí giao dịch, nắm giữ một lượng tiền mặt nhất định sẽ giúp cho doanh nghiệp đáp ứng được các hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Dựa trên ý tưởng của Keynes (1936), động cơ chi phí giao dịch được hình thành dựa trên chi phí phát sinh khi doanh nghiệp phải đối mặt với những giao dịch trong chuyển đổi tài sản thành tiền mặt cho những hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp mình. Khi doanh nghiệp thiếu nguồn vốn nội bộ hoặc tài sản thanh khoản, doanh nghiệp sẽ huy động vốn từ thị trường bên ngoài, bán những tài sản hiện hữu, hạn chế lượng cổ phiếu chi trả và bỏ qua những cơ hội đầu tư tốt. Hơn nữa, những quá trình huy động tiền cho doanh nghiệp đều tốn chi phí đáng kể. Theo Opler và cộng sự (1999), chi phí giao dịch khi huy động vốn bên ngoài rất cao bởi vì các chi phí cố định để tiếp cận nguồn vốn từ thị trường thường cao hơn chi phí nắm giữ tiền mặt. Nói cách khác, doanh nghiệp sẽ nắm giữ tiền mặt để tránh trường hợp chi phí chuyển đổi từ tài sản phi tiền mặt sang tài sản tiền mặt cao hơn chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt. Từ khía cạnh này, trữ lượng tiền mặt và tài sản thanh khoản cao được coi như là tấm đệm cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp thiếu tiền và hạn chế được nguy cơ mất cơ hội đầu tư trong trường hợp chi phí giao dịch cao. Hơn nữa, dựa trên việc bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư bên ngoài, Myers và Majluf (1984) biện luận những quyết định tài trợ cho các dự án bằng nguồn tiền từ lợi nhuận giữ lại có thể giúp doanh nghiệp quản lý được những hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp thông qua việc tối thiểu hóa chi phí huy động từ bên ngoài do bất cân xứng thông tin và các vấn đề về phát tín hiệu. Theo lý thuyết trật tự phân hạng, nguồn tài trợ nội bộ bằng tiền mặt sẽ được ưu tiên sử dụng đầu tiên, sau đó là nợ và cuối cùng là vốn cổ phần. Trong trường hợp khoảng cách về bất cân xứng thông tin giữa người huy động và người tài trợ rộng, doanh nghiệp sẽ sử dụng những tài sản thanh khoản thay vì sử dụng nợ hoặc vốn cổ phần. Do đó, theo Myers và Majluf (1984), doanh nghiệp không có mức tiền mặt tối ưu, nhưng tiền mặt là tấm đệm cho doanh nghiệp thông qua lợi nhuận giữ lại. Thứ hai, động cơ phòng ngừa là nguyên nhân để doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt. Giải thích cho động PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 60 cơ phòng ngừa, các nhà nghiên cứu dựa trên những nguyên nhân chính đó là kiệt quệ tài chính và mục tiêu giảm thiểu rủi ro cho những tình huống bất ngờ không dự đoán được. Opler và cộng sự (1999) đã xây dựng mô hình ước tính mức nắm giữ tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp. Trong kết quả nghiên cứu, các tác giả cho thấy doanh nghiệp có mức nắm giữ tiền mặt tối ưu nhằm giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro do không đủ tiền mặt dẫn đến đầu tư dưới mức. Tương tự, Almeida và cộng sự (2004) cũng cho thấy đối với những doanh nghiệp hạn chế tài chính, động cơ phòng ngừa chính là nguyên nhân chính khiến doanh nghiệp giữ lại tiền mặt. Thực hiện nghiên cứu dựa trên động cơ giảm thiểu rủi ro, Liu và Mauer (2010) kết luận khi động cơ giảm rủi ro tăng thì doanh nghiệp có xu hướng nắm giữ càng nhiều tiền mặt. Hai tác giả lý giải khi động cơ giảm rủi ro tăng, các trái chủ sẽ yêu cầu doanh nghiệp gia tăng tỷ lệ tiền mặt nắm giữ. Các tác giả còn cho rằng khi doanh nghiệp nhận thấy mức độ rủi ro khi tiếp cận với nguồn vốn có chi phí cao, các nhà quản trị sẽ gia tăng tiền mặt nắm giữ để giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Đồng thời, cùng dựa trên động cơ phòng ngừa của doanh nghiệp, Lins, Servaes và Tufano (2010) đã thực hiện kiểm định về mức độ nắm giữ tiền mặt và các tài sản phi hoạt động tùy theo các yếu tố đặc trưng của doanh nghiệp ở 29 quốc gia khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp nắm giữ khoảng 9% tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản, và phần tiền mặt phi hoạt động chiếm khoảng 40%. Các tác giả cũng giải thích nắm giữ tiền mặt vượt mức là một dạng bảo hiểm cho vấn đề kiệt quệ tài chính, và lượng tiền mặt phi hoạt động được nắm giữ được phục vụ chủ yếu dành cho mục đích phòng ngừa rủi ro khỏi những nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai. Ngoài ra, các nghiên cứu của Faulkender và Wang (2006), Sola và cộng sự (2013) cũng nhận định nắm giữ một trữ lượng tiền mặt và tài sản thanh khoản nhiều cũng sẽ giảm xác suất kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên, mặc dù nắm giữ tiền mặt đem lại lợi ích trong trường hợp doanh nghiệp thiếu tiền hoặc có cơ hội đầu tư với dự án NPV dương, các nghiên cứu của Opler và cộng sự (1999) hay Martinez-Sola và cộng sự (2013) cho thấy có hai chi phí chính phát sinh nếu doanh nghiệp nắm giữ quá nhiều tiền mặt. Một mặt, chi phí cơ hội xuất hiện khi nắm giữ tiền mặt. Martinez- Sola và cộng sự (2013) giải thích rằng tỷ suất sinh lợi nắm giữ tiền mặt và tài sản thanh khoản thường thấp hơn tỷ suất sinh lợi vào những đầu tư khác. Cụ thể, các doanh nghiệp có thể phải từ bỏ những dự án có NPV dương để nắm giữ lượng tiền mặt, từ đó những doanh nghiệp này sẽ bỏ qua cơ hội đầu tư tốt nhằm tối đa hóa tài sản cho các cổ đông. Mặt khác, dự trữ quá nhiều tiền mặt cũng làm tăng chi phí đại diện giữa nhà quản lý và người chủ trong doanh nghiệp. Chi phí đại diện này xuất hiện trong trường hợp mục tiêu của nhà quản lý và cổ đông không đồng nhất. Theo Jensen (1986), nhà quản lý sẽ nắm giữ tiền mặt và không đầu tư vào các dự án tối ưu bởi vì tâm lý e ngại rủi ro, hay là đầu tư vào những dự án đem lại lợi nhuận riêng cho bản thân, hoặc tích lũy tiền mặt, gia tăng tài sản kiểm soát. Vì vậy, cho đến nay, các quan điểm về việc nắm giữ lượng tiền mặt ở trong doanh nghiệp vẫn trái chiều. Myers và Majluf (1984) cho rằng doanh nghiệp nên nắm giữ một lượng lớn tiền mặt từ lợi nhuận giữ lại nhằm giúp linh hoạt được tình hình tài chính. Tuy nhiên, Jensen (1986) lại tranh luận doanh nghiệp nên tối thiểu lượng tiền mặt nắm giữ để tránh chi phí đại diện xuất hiện trong doanh nghiệp. Do đó, DeAngelo (2007) đã lập luận dự trữ quá nhiều tiền mặt sẽ không đem lại lợi ích cho doanh bởi vì tích lũy tiền mặt có thể đem lại sự linh hoạt trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng gây ra chi phí đại diện. Từ đó, nhà đầu tư sẽ gây áp lực làm doanh nghiệp đưa ra mức dự trữ tiền mặt hợp lý để phục vụ cho hoạt động thường xuyên, dự phòng cho các rủi ro trong tương lai, nhưng đồng thời giảm bớt chi phí đại diện. 2.2. Bằng chứng thực nghiệm Dựa vào những lợi ích và chi phí khi nắm giữ tiền mặt, những nghiên cứu gần đây đã mở rộng mối quan hệ giữa giá trị doanh nghiệp và lượng tiền mặt nắm giữ. Tác động thật sự của tiền mặt nắm giữ lên giá trị của doanh nghiệp vẫn còn đang được tranh luận trên cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm Một mặt, có những lập luận cho rằng dự trữ tiền mặt sẽ làm giảm giá trị doanh nghiệp. Harford (1998) kiểm định mối quan hệ giữa những doanh nghiệp có hoạt động mua lại và lượng tiền mặt nắm giữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp có nhiều tiền mặt thông thường sẽ thực hiện việc mua lại nhiều hơn. Tuy nhiên, hoạt động mua lại của những doanh nghiệp này lại có xu hướng làm giảm giá trị của doanh nghiệp. Bằng chứng Nghiên Cứu & Trao Đổi Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 61 thực nghiệm này được giải thích dựa trên lý thuyết về dòng tiền tự do. Cụ thể là, những nhà quản lý của doanh nghiệp có dự trữ tiền mặt nhiều thông thường sẽ có tham vọng muốn gia tăng quyền lực của của mình. Từ đó, nhà quản lý sẽ sử dụng tiền không hiệu quả, thực hiện những dự án hoặc mua lại những doanh nghiệp không đem lại lợi ích cho cổ đông. Do đó, doanh nghiệp nắm giữ tỷ lệ tiền mặt cao sẽ có thành quả doanh nghiệp hoặc giá trị doanh nghiệp thấp. Theo chiều hướng khác, Saddour (2006) thực hiện nghiên cứu trên mẫu quan sát của thị trường Pháp từ giai đoạn 1998 đến 2002 về giá trị doanh nghiệp và tiền mặt nắm giữ. Sử dụng giá trị Tobin Q làm chỉ số đo giá trị doanh nghiệp, Saddour (2006) phát hiện mối quan hệ đồng biến giữa giá trị doanh nghiệp và tiền mặt nắm giữ. Trong nghiên cứu của mình, tác giả giải thích nắm giữ một lượng lớn tiền mặt sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện được những đầu tư tốt mà không cần phải huy động từ nguồn tài trợ bên ngoài với chi phí cao. Do đó, doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt như là tấm đệm giữa lợi nhuận giữ lại và nhu cầu đầu tư (Saddour, 2006). Ngoài ra, nắm giữ nhiều tiền mặt, doanh nghiệp có xu hướng sẽ trả nhiều cổ tức hơn hoặc khả năng trả nợ cao hơn. Hơn nữa, cùng tư tưởng, Fresad (2010) đã dựa trên cách tiếp cận dựa trên áp lực cạnh tranh của các công ty niêm yết của Pháp từ năm 1976 đến năm 2006 và cho thấy các công ty có mức dự trữ tiền mặt cao sẽ có giá trị doanh nghiệp cao. Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng giải thích dự trữ tiền mặt cao giúp doanh nghiệp có cơ hội tăng trưởng cao hơn so với đối thủ. Ngoài ra, có những nghiên cứu cho thấy tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa nắm giữ tiền mặt và giá trị doanh nghiệp. Jang và Sueng (2012) cho thấy nếu doanh nghiệp giữ lượng tiền mặt nhiều thì giá trị doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, mối quan hệ nghịch biến này trong nghiên cứu của Jang và Sueng (2012) không mạnh bởi vì mối quan hệ này sẽ thay đổi theo chiều ngược lại tùy thuộc vào thành quả tương lai của doanh nghiệp. Nói cách khác, mối quan hệ giữa tiền mặt và giá trị doanh nghiệp sẽ thay đổi theo thời gian. Cụ thể là trong giai đoạn này, mối quan hệ này có thể dương, nhưng qua giai đoạn khác mối quan hệ này lại chuyển t ... m đánh đổi giữa lợi ích và chi phí khi nắm giữ tiền mặt. Khi doanh nghiệp có tiền mặt ít, chi phí nắm giữ tiền mặt sẽ ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Từ đó, nếu doanh nghiệp giữ càng nhiều tiền, giá trị doanh nghiệp sẽ càng tăng. Tuy nhiên, sau khi mức độ tiền mặt đạt đến mức tối ưu, giá trị doanh nghiệp sẽ giảm nếu lượng tiền mặt nắm giữ tăng. Do đó, từ cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm đưa ra, nghiên cứu này đưa ra giả thuyết: Ho: Tỷ lệ tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp có mối quan hệ phi tuyến với nhau. 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các 669 công ty niêm yết PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 62 trên sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội từ giai đoạn 2008 đến 2013 dựa trên báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của các công ty công bố. Dữ liệu không bao gồm các công ty sáp nhập, công ty tài chính, bảo hiểm và ngân hàng. Những công ty không đầy đủ số liệu kế toán, hoặc thiếu số liệu giao dịch của các chứng khoán đều bị loại bỏ. Để tăng tính chính xác của bộ dữ liệu, những công ty bị hủy niêm yết cũng được sử dụng với giai đoạn đủ số liệu tài chính. Do đó, số liệu còn lại của dữ liệu còn 2.572 quan sát. Để kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa tỷ lệ tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp, nghiên cứu này sử dụng cả hai hàm bậc hai và bậc ba để kiểm định. Mô hình được sử dụng để kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa tỷ lệ tiền mặt nắm giữ và giá trị doanh nghiệp được sử dụng như sau: TobinQ i,t = α + β 1 CASH i,t + β 2 CASH i,t 2 + β 3 GRO + β 4 CF + β 5 PROF + u it + v i (1) Trong đó: TobinQ i, là chỉ số đo lường giá trị doanh nghiệp hoặc hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Giá trị này thể hiện cho giá trị tài sản doanh nghiệp điều chỉnh theo giá trị thị trường. Tobin Q được tính dựa trên tỷ lệ giá trị thị trường của tài sản và nợ trên giá trị sổ sách của tài sản và nợ. Tuy nhiên, do dữ liệu thị trường nợ không có số liệu chính thức nên nghiên cứu này sử dụng giá trị sổ sách. CASH i,t đại diện cho tỷ lệ tiền mặt doanh nghiệp nắm giữ, được đo bằng tỷ lệ tiền và khoản tương đương tiền trên tổng tài sản. Ngoài ra, để kiểm soát vấn đề sai lệch do thiếu biến, các biến kiểm soát được cho vào mô hình hồi quy. Các biến quy mô, cơ hội tăng trưởng, thanh khoản, đòn bẩy, dòng tiền, tăng trưởng thực, lợi nhuận là những yếu tố tác động đến giá trị của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Kim và cộng sự (1999), Opler và cộng sự (1999), Ozkan và Ozkan (2004), quy mô doanh nghiệp, cơ hội tăng trưởng, đòn bẩy, thanh khoản là những biến tác động đến tỷ lệ tiền mặt nắm giữ. Do đó, để kiểm soát vấn đề nội sinh, các biến này không được cho vào mô hình. Cuối cùng, tăng trưởng thực (GRO), dòng tiền (CF) và lợi nhuận (PROF) là những biến kiểm soát của mô hình. Để thực hiện kiểm định giả thuyết đặt ra, nghiên cứu này chạy hồi quy tuyến tính bình phương nhỏ nhất tổng quát (Pooled OLS) trước. Tuy nhiên, với dữ liệu bảng, mô hình hồi quy ảnh hưởng cố định (Fixed Effects) và mô hình hồi quy ảnh hưởng ngẫu nhiên (Random Effects) được sử dụng. Mục đích sử dụng hai mô hình sau này nhằm tránh sự thiếu sót các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp và dẫn đến việc đưa ra kết quả các hệ số hồi quy bị sai lệch. Ngoài ra, những nghiên cứu của Love và Zicchino (2006), Wikinto (2012) hay Sum (2014) cho thấy biến độ trễ của TobinQ i,t có thể là một biến giải thích cho biến TobinQ i,t . Ngoài ra, chuyển đổi sai phân bậc nhất của biến TobinQ i,t có thể kiểm soát được tính không đồng nhất không quan sát được và giảm đi vấn đề nội sinh tiềm tàng do có thể có những cú sốc hay những nhân tố khác không quan sát được tác động đến biến giá trị doanh nghiệp và đồng thời cũng tác động các biến độc lập khác. Ngoài ra, ước lượng hệ số hồi quy bằng dữ liệu chéo có thể dẫn đến hiện tượng sai lệch do sự tương quan phát sinh giữa các biến và sai số. Do đó, dựa trên phương pháp của Arellano và Bond (1991), phương pháp ước lượng tổng quát hóa thời điểm (Generalised Method of Moments – GMM) được sử dụng. Ngoài ra, theo Nickell (1981), khi sử dụng dữ liệu bảng với chuỗi thời gian ngắn (5 năm) và số lượng công ty nhiều (642 công ty) có thể dẫn đến sai lệch ước lượng. Do đó, sử dụng phương pháp GMM có thể kiểm soát được sai lệch này (Arellano và Bond, 1991). Theo phương pháp ước lượng này, tương quan giữa biến công cụ và sai số không tồn tại. Do đó, để kiểm định tính phù hợp của mô hình, kiểm định Sargan đối với việc xác định quá mức được thực hiện. Ngoài ra, kiểm định sự không tồn tại tương quan chuỗi bậc hai trong mô hình cũng được thực hiện. 4. Kết quả và thảo luận Tóm tắt về thống kê mô tả của các biến sử dụng trong mô Biến Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Giá trị doanh nghiệp TobinQ 1.0201 0.46 0.2610 11.9215 Tiền nắm giữ CASH 0.0918 0.11 0.00 0.94 Lợi nhuận PROF 0.07 0.10 -0.65 0.65 Dòng tiền CF 0.11 0.77 -22.9 16.35 Tăng trưởng GRO 0.34 5.72 -0.99 228.65 Bảng 1: Thống kê mô tả Nguồn: Tính toán của tác giả Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 63 hình được trình bày trong Bảng 1. Giá trị TobinQ nằm trong khoảng từ 0,261 đến 11,9215 với độ lệch chuẩn 46%. Tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản của các doanh nghiệp VN nằm từ 0% đến 94,34%, với giá trị trung bình bằng 9,18%. Như vậy, nhìn chung, tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản khoản 9,18% của các doanh nghiệp VN tương đương các doanh nghiệp trên thế giới, chẳng hạn như nghiên cứu của Ozkan và Ozkan (2004) cho các công ty tại Anh (9,9%). Hệ số tương quan giữa các biến được trình bày trong Bảng 2 không có cặp nào lớn hơn 0,8. Do đó, khi sử dụng mô hình hồi quy sẽ ít có khả năng gặp hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến. Bảng 3 trình bày kết quả hồi quy mối quan hệ giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ dựa trên phương trình bậc hai theo phương pháp ước lượng OLS, ước lượng ảnh hưởng cố định (FEM), ước lượng ngẫu nhiên (REM) và ước lượng GMM. Kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và lượng tiền mặt nắm giữ dựa trên hàm bậc hai khi sử dụng ước lượng REM và FEM; tuy nhiên, mối quan hệ này không tồn tại với mô hình ước lượng OLS. Nguyên nhân giải thích cho hiện tượng này có thể do sai lệch do các biến không quan sát được trong mô hinh OLS, và ước lượng FEM và REM có thể dùng đề điều chỉnh vấn đề này. Hơn nữa, kiểm định Hausman cũng cho thấy mô hình FEM là mô hình tĩnh phù hợp nhất. Kết quả hồi quy dựa trên mô hình ước lượng FEM cho thấy hệ số CASH dương và có ý nghĩa thống kê tại mức 1% (hệ số ước lượng 1,0678), trong khi hệ số CASH2 âm và có ý nghĩa thống kê tại 1% (hệ số -2,1951). Kết quả này hàm ý tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ. Hơn nữa, Bảng 3 cũng cho thấy kết quả hồi quy dữ liệu bảng động giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ. Kết quả kiểm định tính phù hợp của mô hình dựa trên AR(1) và AR(2) cũng như kiểm định Sargan cho thấy mô hình ước lượng GMM hệ thống phù hợp. Kiểm định tương quan chuỗi bậc hai cho thấy kết quả AR (2) không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, kiểm định Sargan về việc xác định quá mức chứng minh không tồn tại mối tương quan giữa các biến công cụ và sai số. Đây là điều kiện cần thiết khi số biến công cụ nhiều hơn biến trong mô hình. Do đó, mô hình ước lượng GMM hệ thống sử dụng phù hợp trong nghiên cứu này. Kết quả ước lượng GMM cho thấy biến độ trễ Tobin Q dương và có ý nghĩa TobinQ CASH SIZE GRO PROF CFLOW TobinQ 1 CASH 0.1889* 1 SIZE 0.0839* -0.1153* 1 GRO 0.0166 0.0197 0.0373 1 PROF 0.4241* 0.4308* -0.0688* 0.0200 1 CFLOW 0.0864* 0.0429* 0.0256 0.0185 0.1885* 1 Biến Dấu kỳ vọng Pooled OLS REM FEM GMM CASH + -0.1432 (0.1793) 0.525*** (0.1857) 1.0678*** (0.224) 16.841*** (4.38) CASH2 - 0.4102 (0.363) -0.937*** (0.3595) -2.1951*** (0.4133) -48.374*** (-4.16) GRO + 0.0040 (0.0109) 0.001 (0.001) 0.002 (0.0014) -2.128** (-1.97) CFLOW + 2.0381*** (0.0978) 0.0122*** (0.0527) 0.0165 (0.0134) 0.473 (0.72) PROF + 0.000 (0.001) 2.067*** (0.1105) 1.9222*** (0.1421) 4.470* (1.49) CONST + 0.8848*** (0.0132) 0.7028*** (0.0355) 0.5330*** (0.0617) TobinQi,t-1 + 0.420* (1.67) Hausman test Chi2 55.81 Pro > Chi2 0.000 AR (1) 0.005 AR (2) 0.213 Sargan test 6.86 p-value Sargan test 0.334 Bảng 2: Ma trận tương quan giữa các biến Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 3: Kết quả hồi quy mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm với hàm bậc hai PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 64 thống kê ở mức 10%. Đồng thời, hệ số hồi quy CASH và CASH2 đều có ý nghĩa tại 1% và có dấu dương, âm lần lượt. Bằng chứng này cho thấy giá trị doanh nghiệp hiện tại bị ảnh hưởng bởi giá trị doanh nghiệp ở quá khứ và giải quyết được vấn đề nội sinh liên quan đến tỷ lệ nắm giữ tiền mặt. Nhìn chung, mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ dựa trên phương trình bậc hai tồn tại ở các doanh nghiệp VN và kết quả này đồng nhất với nghiên cứu Martinez-Sola (2013). Nói cách khác, mối quan hệ hình chữ U ngược giữa tỷ lệ tiền mặt và giá trị doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp đánh đổi giữa chi phí và lợi ích của việc nắm giữ tiền mặt nhằm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt thấp hơn mức tối ưu, chi phí nắm tiền mặt sẽ chiếm ưu thế. Do đó, doanh nghiệp sẽ gia tăng mức nắm giữ này nhằm tối đa hóa. Ngược lại, khi vượt qua mức tối ưu, càng giữ nhiều tiền mặt, giá trị doanh nghiệp càng giảm. Bảng 4 cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản với hàm bậc ba sử dụng ước lượng OLS, ước lượng REM, FEM và GMM hệ thống. Kết quả kiểm định Hausman chỉ ra mô hình ước lượng FEM là mô hình dữ liệu bảng dạng tĩnh phù hợp nhất. Hệ số hồi quy của biến CASH dương và có ý nghĩa thống kê tại 1% (hệ số bằng 1,495). Hệ số hồi quy của biến CASH2 âm và có ý nghĩa thống kê tại 1% (hệ số bằng 4,289). Hệ số hồi quy của biến CASH3 dương (2,1283) và có ý nghĩa thống kê tại 10%. Ngoài ra, kiểm định tính phù hợp của mô hình GMM cũng cho thấy GMM hệ thống là ước lượng có thể sử dụng trong nghiên cứu này. Cũng giống như kết quả dựa trên phương trình bậc hai, biến độ trễ TobinQ dương và có ý nghĩa thống kê tại 10%. Kết quả này cũng đồng nhất với kết quả của Love và Zicchino (2006) và Sum (2014). Từ đó, nghiên cứu này kết luận thành quả doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại sẽ bị ảnh hưởng bởi thành quả doanh nghiệp trong quá khứ. Các hệ số của tỷ lệ nắm giữ tiền mặt đều có ý nghĩa thống kê và có dấu như kỳ vọng. Điều này chứng tỏ, kết quả của mô hình này vững, và mối quan hệ phi tuyến giữa tiền mặt và giá trị doanh nghiệp tồn tại ở các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán VN. Mối quan hệ “hình N” này hàm ý các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh tỷ lệ nắm giữ tiền mặt qua ba mức độ nắm giữ khác nhau để gia tăng được giá trị doanh nghiệp. Ở mức độ thấp, doanh nghiệp sẽ giữ tiền mặt nhằm gia tăng thanh khoản. Khi đạt đến mức tối ưu lần thứ nhất, doanh nghiệp sẽ bắt đầu điều chỉnh lượng tiền mặt để giảm đi chi phí đại diện. Tuy nhiên, đến một mức nào đó, doanh nghiệp VN sẽ gia tăng lại mức tiền mặt để tăng giá trị doanh nghiệp. Hơn nữa, hệ số hồi quy của biến lợi nhuận PROF có ý nghĩa thống kê ở các mô hình. Kết quả này tương tự như kết quả trong nghiên cứu của Haugen và Baker (1996), Yang và cộng sự (2010) và Chen và Chen (2011). Trong khi tỷ lệ tăng trưởng không ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp ở mô hình FEM, thì tỷ lệ tăng trưởng này có tác động đến giá trị doanh nghiệp trong ước lượng GMM ở cả hai phương trình bậc hai và bậc ba. 5. Kết luận và hàm ý Nghiên cứu này kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền nắm giữ của các doanh nghiệp VN từ giai đoạn 2008 đến 2013. Kết quả cho thấy tồn tại Hình 1: Mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tiền mặt nắm giữ dựa trên hàm bậc hai TobinQ = 0.9251+ 1.6059CASH- 2.6344CASH2 Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 65 mối quan hệ phi tuyến bậc hai và bậc ba giữa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản của các doanh nghiệp. Ở mức độ nắm giữ tiền mặt thấp, doanh nghiệp sẽ gia tăng tỷ lệ nắm giữ này để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, gia tăng tính thanh khoản. Tuy nhiên, khi mức nắm giữ này tăng, giá trị doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nhưng do tâm lý e ngại rủi ro và vẫn muốn nắm giữ tiền mặt, các doanh nghiệp vẫn nắm giữ đến một tỷ lệ nhất định. Từ đó, giá trị doanh nghiệp lại gia tăng. Kết quả nghiên cứu có một số hàm ý như sau: Một là, đối với các doanh nghiệp dựa trên sự đánh đổi giữa chi phí và lợi ích của việc nắm giữ tiền mặt, các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh lượng tiền mặt dựa trên tỷ lệ tiền mặt tối ưu. Ở mức độ thấp, chi phí nắm giữ tiền mặt chiếm ưu thế và đóng vai trò quan trọng. Nếu các doanh nghiệp không giữ nhiều tiền, khả năng thanh khoản thấp, và thể hiện tình trạng thiếu tiền cho các hoạt động trong tương lai. Do đó, càng nhiều tiền, giá trị doanh nghiệp càng tăng. Tuy nhiên, vượt quá mức tối ưu, giá trị doanh nghiệp sẽ giảm, bởi vì tình trạng bất cân xứng thông tin giữa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Càng giữ nhiều tiền sau mức tối ưu, các nhà đầu tư cảm thấy lo lắng vì việc sử dụng tiền của doanh nghiệp, từ đây gia trí doanh nghiệp sẽ giảm. Do đó, các doanh nghiệp nên xác định mức nắm giữ tối ưu để điều chỉnh tỷ lệ nắm giữ phù hợp với doanh nghiệp mình. Biến Dấu kỳ vọng Pooled OLS REM FEM GMM CASH + -0.4566 (0.3171) 0.3195 (0.3252) 1.495*** (0.3950) 24.085*** (5.607) CASH2 - 1.9072 (1.3014) -0.4424 (1.2896) -4.289*** (1.5017) -114.169*** (39.113) CASH3 + -1.5806 (1.3194) 0.3679 (1.258) 2.8312* (1.4113) 80.910* (45.964) GRO + 0.0007 (0.0014) 0.0012 (0.0013) 0.0018 (0.0014) -2.364** (1.079) CFLOW + 0.0041 (0.01087) 0.0111 (0.0113) 0.0193 (0.0134) 0.525 (0.6536) PROF + 2.0507*** (0.0.0985) 1.890*** (0.1059) 1.6912*** (0.1375) 6.323** (3.1513) CONST + 0.8937 (0.0152) 0.8695*** (0.0178) 0.8344*** (0.0193) TobinQi,t-1 + 0.423* (0.249) Hausman test Chi2 48.36 Pro > Chi2 0.000 AR (1) 0.022 AR (2) 0.176 Sargan test 3.88 p-value Sargan test 0.567 Hình 2: Mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tiền mặt nắm giữ dựa trên hàm bậc ba TobinQ = 0.8344+ 1.945CASH– 4.289CASH2 +2.8312CASH3 Bảng 4: Kết quả hồi quy mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ tiền mặt nắm giữ với hàm bậc ba (Tiếp theo trang 77)
File đính kèm:
- moi_quan_he_phi_tuyen_giua_gia_tri_doanh_nghiep_va_ty_le_tie.pdf