Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt nước biển và cường độ bão tiềm năng cực đại trên khu vực biển Đông

Nhiệt độ bề mặt nước biển (SST) là một trong những nhân tố nhiệt lực quan trọng ảnh hưởng

đến cường độ bão. Bài báo này sử dụng phương pháp hàm phân bố thực nghiệm để nghiên cứu mối quan

hệ giữa SST và cường độ bão hoạt động trên khu vực Biển Đông dựa trên tập số liệu 35 năm (1982-2016)

của bão và SST. Kết quả cho thấy, tại khu vực Biển Đông, cường độ bão cực đại tăng nhanh tại các nhóm

nhiệt độ dưới 26°C, sau đó tăng chậm hơn ở các nhóm từ 27-30°C và giảm ở nhóm nhiệt độ 31°C. Do đó,

hàm thực nghiệm logarit tự nhiên (ln) được xây dựng để biểu diễn mối quan hệ thống kê giữa cường độ bão

tiềm năng cực đại và nhiệt độ bề mặt nước biển với giới hạn nhiệt độ nhỏ hơn 30,5°C. Kết quả nghiên cứu

giúp đưa ra những nhận định nhanh về giới hạn trên của cường độ bão có khả năng đạt được khi có những

thông tin về SST trên khu vực Biển Đông.

pdf 6 trang kimcuc 18520
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt nước biển và cường độ bão tiềm năng cực đại trên khu vực biển Đông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt nước biển và cường độ bão tiềm năng cực đại trên khu vực biển Đông

Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt nước biển và cường độ bão tiềm năng cực đại trên khu vực biển Đông
 MỐI QUAN HỆ GIỮA NHIỆT ĐỘ BỀ MẶT NƯỚC BIỂN VÀ
 CƯỜNG ĐỘ BÃO TIỀM NĂNG CỰC ĐẠI TRÊN KHU VỰC BIỂN ĐÔNG
 Nguyễn Thị Thanh(1), Hoàng Đức Cường(2), Nguyễn Xuân Hiển(1), Phạm Tiến Đạt(1)
 (1)Viên Khoa hoc Khi tương Thuy văn va Biên đôi khi hâu
 (2)Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương
 Ngày nhận bài 26/5/2017; ngày chuyển phản biện 31/5/2017; ngày chấp nhận đăng 15/6/2017
 Ttom ăt: Nhiệt độ bề mặt nước biển (SST) là một trong những nhân tố nhiệt lực quan trọng ảnh hưởng 
đến cường độ bão. Bài báo này sử dụng phương pháp hàm phân bố thực nghiệm để nghiên cứu mối quan 
hệ giữa SST và cường độ bão hoạt động trên khu vực Biển Đông dựa trên tập số liệu 35 năm (1982-2016) 
của bão và SST. Kết quả cho thấy, tại khu vực Biển Đông, cường độ bão cực đại tăng nhanh tại các nhóm 
nhiệt độ dưới 26°C, sau đó tăng chậm hơn ở các nhóm từ 27-30°C và giảm ở nhóm nhiệt độ 31°C. Do đó, 
hàm thực nghiệm logarit tự nhiên (ln) được xây dựng để biểu diễn mối quan hệ thống kê giữa cường độ bão 
tiềm năng cực đại và nhiệt độ bề mặt nước biển với giới hạn nhiệt độ nhỏ hơn 30,5°C. Kết quả nghiên cứu 
giúp đưa ra những nhận định nhanh về giới hạn trên của cường độ bão có khả năng đạt được khi có những 
thông tin về SST trên khu vực Biển Đông. 
 Từ khóa: Nhiệt độ bề mặt nước biển, SST, bão, cường độ bão, Biển Đông.
1. Đặt vấn đề 2007) đã xác định mối quan hệ thống kê giữa 
 Bão được hình thành ở vùng đại dương tương cường độ bão tiềm năng cực đại và SST tương 
đối ấm (Fisher, 1958), nó trao đổi động lượng, ứng. Cường độ bão tiềm năng cực đại của một 
nhiệt và ẩm với lớp xáo trộn đại dương thông qua cơn bão thể hiện giới hạn trên của cường độ 
lớp bề mặt đại dương - khí quyển. Nhiều nghiên bão ở một SST nhất định, hay sự biến thiên của 
cứu cho thấy, nhiệt độ bề mặt nước biển (SST) cường độ bão tiềm năng cực đại theo SST.
là một trong những nhân tố đóng vai trò quan DeMaria và Kaplan (1994) cho thấy mối quan 
trọng trong việc hình thành và tiến triển của bão hệ giữa cường độ bão cực đại đặc trưng bởi vận 
(Palmén, 1948; Miller, 1958). Palmén (1948) chỉ tốc gió cực đại vùng tâm bão (V) và SST trên khu 
ra rằng bão hình thành trong những vùng biển có vực Bắc Đại Tây Dương là một hàm mũ có dạng: 
 CTT()− 0
SST lớn hơn 26°C. Tuy nhiên, chỉ riêng SST không V= A + B ∗ e (1)
phải là điều kiện đủ để có thể dự báo sự tiến Trong đó, V là cường độ bão tiềm năng cực 
triển của một cơn bão. Còn nhiều những nhân tố đại (m/s), T là nhiệt độ bề mặt nước biển (oC); 
 o
khác ảnh hưởng đến sự hình thành và tiến triển T0 là nhiệt độ tham chiếu và chọn T0 = 30 C; các 
của bão như lực Coriolis, xoáy tương đối ở mực hằng số A = 28,2; B = 55,8 và C = 0,1813.
thấp, độ ẩm ở tầng giữa đối lưu, độ đứt gió thẳng Whitney và Hobgood (1997) chỉ ra rằng 
đứng tại mực thấp, (Gray, 1975). Miller (1958) cường độ bão tiềm năng cực đại là một hàm
đã tìm thấy mối quan hệ giữa SST và áp suất nhỏ tuyến tính của SST đối với những cơn bão hoạt 
nhất tại tâm bão. Emanuel (1978, 1988) cho thấy động trên khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương, 
cường độ bão cực đại là một hàm của SST, nhiệt cụ thể:
 EPMPI= C + C ∗ SST (2)
độ không khí ở khu vực dòng đi ra của bão, độ 0 1 
ẩm không khí ở mực thấp. Những nghiên cứu này Trong đó, EPMPI là cường độ bão tiềm năng 
chỉ ra rằng cường độ cực đại của bão tăng nhanh cực đại đặc trưng bởi vận tốc gió cực đại vùng 
chóng khi SST tăng. tâm bão trên khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương 
 Các nghiên cứu (DeMaria và Kaplan, 1994; (m/s); SST là nhiệt độ bề mặt nước biển (oC); các 
Whitney và Hobgood, 1997; Zeng và cộng sự, hằng số C0 = - 79,17262; và C1 = 5,36181.
 70 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
 Số 2 - Tháng 6/2017
 Zeng và cộng sự (2007) cũng chỉ rõ cường độ năm 1982-2016. Nghiên cứu này chỉ xem xét các 
bão tiềm năng cực đại trên khu vực Tây Bắc Thái trường hợp bão có cường độ từ cấp 8 trở lên, 
Bình Dương là một hàm mũ có dạng: các trường hợp áp thấp nhiệt đới hoạt động 
 C() SST− T
 MPI= A + B ∗ e 0 (3) trên khu vực Biển Đông được loại bỏ.
 Trong đó, MPI là cường độ bão tiềm năng Số liệu nhiệt độ bề mặt nước biển được sử 
cực đại đặc trưng bởi vận tốc gió cực đại vùng dụng trong nghiên cứu này được cung cấp bởi 
tâm bão trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương Phòng Nghiên cứu vật lý thuộc NOAA. Đây là số 
 o liệu nhiệt độ bề mặt nước biển trung bình tuần 
(m/s); SST là nhiệt độ bề mặt nước biển ( C); T0 
 o được nội suy tối ưu từ các số liệu vệ tinh và số liệu 
là nhiệt độ tham chiếu và chọn T0 = 30 C; các 
hằng số A = 15,69; B = 98,03 và C = 0,1806. truyền thống (trạm phao, tàu), có độ phân giải 
 Kotal và cộng sự (2009) đã xây dựng hàm không gian là 1 x 1 độ kinh vĩ (OISST). Số liệu OISST 
thực nghiệm tuyến tính liên hệ giữa cường độ được lưu trữ theo định dạng NetCDF và cung cấp 
bão cực đại với nhiệt độ bề mặt nước biển trên miễn phí tại địa chỉ: https://www.esrl.noaa.gov/
khu vực Ấn Độ Dương, cụ thể: psd/data/gridded/data.noaa.oisst.v2.html. 
 MPI= A ∗ SST + B (4) Với những cơn bão hình thành ở khu vực 
 Trong đó, MPI là cường độ bão tiềm năng ngoài khơi Tây Thái Bình Dương di chuyển đi vào 
cực đại đặc trưng bởi vận tốc gió cực đại vùng Biển Đông, số liệu bão và SST chỉ được tính khi 
tâm bão trên khu vực Ấn Độ Dương (knot); SST cơn bão hoạt động ở phía Tây của kinh tuyến 
 o
là nhiệt độ bề mặt nước biển (oC); các hằng số: 120 E và dữ liệu cũng loại bỏ các trường hợp 
A = 29,33; và B = 718,44. bão đổ bộ vào đất liền (bao gồm cả hải đảo).
 Các nghiên cứu trên cho thấy thông tin về Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của 
SST có thể đưa ra giới hạn trên của cường độ nhiệt độ bề mặt nước biển đến cường độ bão 
bão, nhưng mối quan hệ giữa SST và cường độ ở khu vực Biển Đông được dựa trên phương 
bão tiềm năng cực đại tại các khu vực biển khác pháp do DeMaria và Kaplan (1994) và Whitney 
nhau được thể hiện theo các hàm khác nhau. và Hobgood (1997) đề xuất. Cụ thể, bài báo sử 
 Hiện tại, chưa có một nghiên cứu về mối dụng phương pháp hàm phân bố thực nghiệm 
quan hệ giữa SST và cường độ bão tiềm năng có phân nhóm trị số đại lượng để phân tích hai 
cực đại tại khu vực Biển Đông được thực hiện. chuỗi số liệu cường độ bão (đại diện là vận tốc 
Do đó, mục đích của nghiên cứu này là tìm ra gió cực đại tại vùng gần tâm bão) và SST tại vị 
mối quan hệ giữa giữa SST và cường độ bão trí tương ứng và sử dụng hàm thực nghiệm có 
tiềm năng cực đại tại khu vực Biển Đông. phân nhóm giá trị đại lượng nhằm nghiên cứu 
 mối quan hệ giữa cường độ bão và SST. Các 
2. Số liệu và phương pháp nghiên cứu bước thực hiện trình bày dưới đây:
 Bão hoạt động trên khu vực Biển Đông được + Bước 1: Trích xuất số liệu SST trung bình 
xác định là những cơn bão hình thành ngay trên tuần ứng với vị trí tâm bão cách nhau khoảng 
Biển Đông hoặc di chuyển từ ngoài khơi Tây Bắc thời gian 6 giờ cho tất cả các cơn bão xảy ra 
Thái Bình Dương vào khu vực được giới hạn bởi trong 35 năm từ 1982-2016. 
dải vĩ độ 0oN đến 23oN, và dải kinh độ 100oE đến + Bước 2: Lập bảng dữ liệu gồm hai chuỗi 
120oE và phía Đông đường phân ranh giới dọc dữ liệu: Cường độ bão (ký hiệu là TC) và SST. Vẽ 
bờ biển Việt Nam. đồ thị phân tán TC tương ứng với SST của chuỗi 
 Trong nghiên cứu này, các dữ liệu về bão bao số liệu 35 năm (1982-2016), từ đó xác định dải 
gồm vận tốc gió cực đại vùng gần tâm, vị trí tọa nhiệt độ tương ứng với mức độ tập trung của 
độ tại tâm được khai thác từ “quĩ đạo phân tích” cường độ bão. 
(Best Track) của cơ quan Dịch vụ thời tiết quốc + Bước 3: Phân nhóm dải nhiệt độ đã xác 
gia (National Weather Service), NOAA thông định ở bước 2 thành các nhóm cách nhau 1OC. 
qua trang web:  Xác định các giá trị cường độ bão ứng với mỗi 
ricane/. Để nghiên cứu mối quan hệ giữa cường nhóm, sau đó, xác định giá trị cường độ bão cực 
độ bão và nhiệt độ bề mặt nước biển, bài báo đại (ký hiệu là TCmax), bách phân vị thứ 99, 95, 
đã sử dụng số liệu bão xảy ra trong 35 năm từ 90 và 50 cho từng nhóm.
 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 71
 Số 2 - Tháng 6/2017
 + Bước 4: Xây dựng hàm thực nghiệm thích Hình 1 biểu diễn phân tán cường độ bão theo 
hợp với phân bố cường độ bão cực đại. phân bố SST của 2.876 quan trắc. Theo đó, SST nhỏ 
3. Kết quả và thảo luận nhất mà bão hoạt động là 23,86°C và lớn nhất là 
 30,93°C, tuy nhiên, phần lớn bão hoạt động trong 
3.1. Phân bố cường độ bão theo SST khu vực có nhiệt độ từ 26,5-29,5°C. Trong đó, 
 Nghiên cứu được thực hiện với 2.876 số liệu nhiều quan trắc có cường độ bão nhỏ xảy ra trong 
vận tốc gió cực đại tại khu vực tâm bão của các khu vực có nhiệt độ bề mặt nước biển cao cho thấy 
cơn bão trong 35 năm (1982-2016) và 2.876 số trong giai đoạn đầu, rất nhiều cơn bão hình thành 
liệu SST tương ứng. và bắt đầu phát triển từ những vùng biển ấm.
 Hình 1. Đồ thị phân tán cường độ bão theo Hình 2. Phân bố tần suất 2.876 quan trắc 
 SST của 2.876 quan trắc theo các nhóm SST
 Để nghiên cứu mối quan hệ giữa cường độ cường độ mạnh thường hoạt động ở khu vực 
bão và SST, số liệu quan trắc SST được phân nước tương đối ấm hơn so với kết quả nghiên 
thành 8 nhóm từ 23,5-31,5°C, mỗi nhóm cách cứu của Whitney và Hobgood (1997) trên 
nhau 1°C. Bảng 1 biểu diễn các đặc điểm của vùng biển Đông Bắc Thái Bình Dương (xảy ra 
cường độ bão theo từng nhóm SST. Theo đó, ở nhóm 26°C) và nghiên cứu của DeMaria và 
hầu hết các quan trắc tập trung ở các nhóm Kaplan (1994) trên vùng biển Đại Tây Dương 
từ 27-30°C, chiếm 93,7% tổng số quan trắc, (xảy ra ở nhóm 25°C và nhóm 27°C). Do một 
chỉ có 6,05% tổng số quan trắc được phân số lượng lớn cơn bão trên các khu vực này 
bố trong các nhóm nhiệt độ từ 24-26°C và tăng cường độ khi di chuyển hướng Bắc đến 
0,25% tổng số quan trắc được phân bố trong vùng có nhiệt độ tương đối thấp, đặc biệt, 
nhóm 31oC (Hình 2). Cường độ bão trung bình các cơn bão hoạt động trên khu vực Đại Tây 
lớn nhất xảy ra ở nhóm 28°C với giá trị bằng Dương di chuyển hướng Bắc ngang qua dòng 
32,48 m/s. Như vậy, ở vùng Biển Đông, bão có Gulf Stream (DeMaria và Kaplan, 1994). 
 Bảng 1. Các đặc điểm cường độ bão theo các nhóm SST
 SST giữa nhóm SLQT SSTtb TCtb TCmax
 24 3 24,00 22,30 28,30
 25 30 25,13 28,72 43,73
 26 141 26,11 31,07 56,59
 27 471 27,05 30,53 59,16
 28 862 28,08 32,48 66,88
 29 1140 29,00 30,70 69,45
 30 222 29,80 30,00 69,45
 31 7 30,70 31,20 41,20
 (Chú thích: SST giữa nhóm: Giá trị SST trung tâm của mỗi nhóm; SLQT: Số lượng quan trắc trong mỗi 
nhóm; SSTtb: Giá trị SST trung bình của mỗi nhóm; TCtb: Giá trị cường độ bão trung bình của mỗi nhóm; 
TCmax: Giá trị cường độ bão cực đại của mỗi nhóm).
 72 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
 Số 2 - Tháng 6/2017
 Hình 3 biểu diễn các biến trình cường độ ở các nhóm từ 27-30°C và giảm ở nhóm nhiệt độ 
bão cực đại và các phân vị thứ 99, 95, 90 và 50 31°C. Các đường cong phân vị thứ 95 và 90 lại 
theo các nhóm SST. Đường cong phân vị thứ 50 có xu hướng tăng dần đến nhóm nhiệt độ 28°C 
biến thiên rất nhỏ theo SST cho thấy khoảng rồi giảm dần. Kết quả trên tương tự với kết quả 
50% cường độ bão không phụ thuộc vào SST, được tìm thấy trong nghiên cứu của DeMaria 
tuy nhiên, các đường cong phân vị 90, 95, 99 và và Kaplan (1994), Whitney và Hobgood (1997), 
cường độ bão cực đại là một hàm không tuyến Zeng và cộng sự (2007). Điều đó có thể giải thích 
tính của SST, điều này tương đối phù hợp với lý rằng cơn bão thường hình thành và phát triển tại 
thuyết về cường độ bão cực đại của Emanuel khu vực có nhiệt độ cao nhất, sau đó di chuyển 
(1986, 1988). Các đường cong cường độ bão cực đến vùng có nhiệt độ bề mặt nước biển lạnh 
đại và phân vị thứ 99 có xu thế tăng nhanh tại các hơn. Do đó, nhiều cơn bão có cường độ bão lớn 
nhóm nhiệt độ dưới 26°C, sau đó tăng chậm hơn nhất không xảy ra ở vùng nước ấm nhất. 
 Hình 3. Cường độ bão cực đại và các phân vị thứ 99, 95, 90 và 50
 3.2. Xây dựng hàm thực nghiệm liên hệ giữa của Zeng và cộng sự (2007); TH3 đường cong 
cường độ bão tiềm năng cực đại và nhiệt độ bề được xây dựng như TH1, tuy nhiên, các hệ số 
mặt nước biển A, B, C được thay đổi (A = 24,8; B = 63,9 và C 
 Như nhận xét ở phần trên, cường độ bão =0,185); TH4 đường cong thực nghiệm được 
cực đại có xu thế tăng không tuyến tính theo xây dựng dựa theo công thức logarit tự nhiên 
SST, ngoại trừ nhóm 31°C. Do đó, để biểu diễn (ln) dưới đây: 
 MPI = AB+ ) ln SST 5
mối quan hệ giữa cường độ bão cực đại và ]g]g
SST, các đường cong thực nghiệm được xây Trong đó, MPI là cường độ bão tiềm năng cực 
dựng theo 4 trường hợp như Hình 4. Trong đại đặc trưng bởi vận tốc gió cực đại vùng tâm 
đó, TH1 đường cong dựa trên công thức (1) bão hoạt động trên khu vực Biển Đông (m/s); 
 o
của DeMaria và Kaplan (1994); TH2 đường SST là nhiệt độ bề mặt nước biển ( C); các hằng 
cong thực nghiệm dựa trên công thức (3) số A = - 426,8 và B = 148,2.
 Hình 4. Phân bố cường độ bão cực đại theo SST (TCmax) và các đường hàm thực nghiệm
 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 73
 Số 2 - Tháng 6/2017
 Theo Hình 4, đường cong TH2 có giá trị lớn cực đại hơn so với TH1 và TH3.
hơn nhiều so với phân bố cường độ bão cực Để kiểm nghiệm sự phù hợp của phương trình 
đại (TCmax), ba đường cong còn lại tương đối (5) và các hệ số hồi quy với độ tin cậy cho phép, ta 
bám sát nhau và gần với phân bố TCmax. Theo đặt, z=ln(SST) phương trình (5) được chuyển về 
phân bố TCmax, cường độ bão tăng nhanh theo phương trình hồi quy tuyến tính 1 biến:
SST trong các nhóm nhiệt độ dưới 26°C, sau đó MPI= A + B ∗ z (6)
tăng chậm hơn ở các nhóm từ 27-30°C. Như vậy, Kết quả kiểm nghiệm Fisher (F) và kiểm 
đường cong TH4 xây dựng dựa trên công thức nghiệm Student (T) với mức ý nghĩa α = 0,05, 
(5) sẽ phù hợp với xu thế tăng của cường độ bão n = 8 được trình bày ở Bảng 2.
 Bảng 2. Kết quả kiểm nghiệm F và T của phương trình hồi quy
 Loại kiểm nghiệm Tiêu chuẩn kiểm định Phân phối F (hoặc T) Kết luận
 F (hoặc T)
 Kiểm định F F = 5186,3 Fα = 5,99 F> Fα, bác bỏ gia thiêt H0, phương 
 trình hồi quy phù hợp
 Kiểm định T TA = - 39,6 Tα = 2,45 >Tα, bác bỏ gia thiêt H0, các hệ số 
 TB = 72,01 A = - 426,8; B = 148,2 có ý nghĩa về 
 mặt thống kê
 Như vậy, theo kết quả kiểm nghiệm trên, cực đại tiềm năng và SST với độ tin cậy 95% là 
phương trình hồi quy giữa mức cường độ bão phù hợp và có ý nghĩa thống kê.
 Hình 5. Đường hàm thực nghiệm (đường cong có điểm hình tròn) 
 và phân bố cường độ bão theo SST của 2.876 quan trắc
 Hình 5 biểu diễn đường cong hàm thực hoạt động trên khu vực Biển Đông xảy ra ở khu 
nghiệm được xác định bởi công thức (5), và tất vực nước tương đối ấm, có nhiệt độ từ 26,5 
cả các quan trắc bão trong 35 năm (1982-2016). đến 30,5°C, trong đó, bão có cường độ mạnh 
Theo đó, toàn bộ các quan trắc bão nằm dưới thường hoạt động ở khu vực nước có nhiệt độ 
đường cong thực nghiệm. Giống như các nghiên từ 28°C trở lên. Nhiều quan trắc có giá trị cường 
cứu của DeMaria và Kaplan (1994), Whitney độ bão nhỏ được phân bố tại những khu vực có 
và Hobgood (1997) Zeng và cộng sự (2007), do SST cao, điều này phù hợp với thực tế, trong giai 
phương trình thực nghiệm theo phương trình đoạn đầu, bão thường hình thành và bắt đầu 
(5) biểu diễn cường độ bão cực đại luôn tăng tăng cường trên khu vực nước rất ấm, sau đó 
theo SST, do đó, phương trình (5) được giới hạn di chuyển vào vùng nước lạnh hơn nên tốc độ 
 gió lớn nhất không xảy ra ở vùng nước ấm nhất. 
sử dụng là SST không vượt quá 30,5°C.
 Mặc dù 50% cường độ bão hoạt động không 
4. Kết luận và kiến nghị phụ thuộc vào SST nhưng cường độ bão cực 
 Kết quả nghiên cứu trên tập số liệu bão 35 đại tiềm năng của bão là một hàm không tuyến 
năm (1982-2016) cho thấy hầu hết các cơn bão tính của SST. Hàm thực nghiệm logarit tự nhiên 
 74 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
 Số 2 - Tháng 6/2017
(ln) đã được xây dựng để biểu diễn mối quan đó, có thể sử dụng hàm thực nghiệm ở trên 
hệ thống kê giữa cường độ bão tiềm năng cực để nhận định sơ bộ về cường độ bão cực đại 
đại và nhiệt độ bề mặt nước biển với giới hạn hoạt động trên Biển Đông thông qua nhiệt độ 
sử dụng là SST không vượt quá 30,5°C. Theo bề mặt nước biển.
 Tài liệu tham khảo
1. Demaria M. and Kaplan J. (1994), “Sea Surface Temperature and the Maximum Intensity of Atlantic 
 Tropical Cyclones”, Journal of Climate, (7), 1324-1334. 
2. Emanuel K.A. (1986), An air-sea interaction theory for tropical cyclones, Part I: steady-state main-
 tenace, J. Atmosphere Sciences, (43), 585-604.
3. Emanuel K.A. (1988), The maximum intensity of hurricanes, J. Atmos. Sci., (45), 1143-1155. 
4. Gray, M. W. (1975), Tropical cyclone genesis, Atmos.Sci., Colo. State Univ., Ft. Collins, CO, (234), 
 121pp.
5. Fisher E. L. (1958), Hurricane and the sea surface temperature field, J. Meteor., (15), 328-333.
6. Kotal S. D., Kundu P. K., Roy Bhowmik S. K. (2009), An analysis of sea surface temperature and 
 maximum potential intensity of tropical cyclones over the Bay of Bengal between 1981 and 2000, 
 Meteorol. Appl., (16) 169-177.
7. Miller B.I. (1958), “On the maximum intensity of hurricane”, Journal of Meteorology, (15), 184-185.
8. Palmén E.N. (1948), On the formation and structure of the tropical hurricane, Geophysical, (3), 26-38.
9. Whitney L. D. and Hobgood J. S. (1997), “The relationship between sea surface temperatures and 
 maximum intensities of tropical cyclones in the Eastern North Pacific”, Journal of Climate, (10), 
 2921-2930.
10. Zeng Z., Wang Y. and Wu C.C. (2007), Environmental dynamical control of tropical cyclone intensity 
 - an observational study, Monthly Weather Review, (135), 38-59.
11. 
12. https://www.esrl.noaa.gov/psd/data/gridded/data.noaa.oisst.v2.html
 RELATIONSHIP BETWEEN SEA SURFACE TEMPERATURE 
 AND MAXIMUM POTENTIAL INTENSITY OF TROPICAL CYCLONES OVER 
 THE EAST SEA
 Nguyen Thi Thanh(1), Hoang Duc Cuong(2), Nguyen Xuan Hien(1), Pham Tien Đat(1)
 (1)Viet Nam Institute of Meteorology Hydrology and Climate Change
 (2)The National Centre for Hydro-Meteorological Forecastings
 Abstract: Sea surface temperature (SST) is one of the most important thermal factors affecting tropical 
cyclones intensity. This paper develops an empirical distribution function to study relationship between SST 
and intensity of tropical cyclones over the Viet Nam East Sea based on a 35-year dataset (1982-2016). The 
results show that the maximum intensity of tropical cyclones rapidly increase below the 25oC-group, then 
slowly increases to the highest value in the 30oC-group and finally, significantly reduces in the 31oC-groups. 
The natural logarithm function (ln) is constructed to represent the statistical relationship between the 
maximum potential intensity tropical cyclone and the surface water temperature with a temperature limit of 
less than 30.5°C. This results could provide a quick identification of the upper limit of tropical cyclone 
potential intensity when having information about SST in the Viet Nam East Sea.
 Keywords: Sea surface temperature, SST, tropical cyclone, the intensity of a tropical cyclone, the Viet 
Nam East Sea.
 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 75
 Số 2 - Tháng 6/2017

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_nhiet_do_be_mat_nuoc_bien_va_cuong_do_bao_t.pdf