Mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của mạnh tử
Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trò của nhân
nghĩa trong công việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hóa tư tưởng đức trị của
Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã
đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ không
vì lợi ích. Theo ông, khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì
việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm
xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và có thể mất luôn lợi ích.Có
thể nói, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, có giá trị trong
đường lối chính trị của mạnh tử nói riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của mạnh tử
129 Mối quan hệ giữa . . . MỐI QUAN HỆ GIỮA “NHÂN NGHĨA” VÀ “LỢI ÍCH” TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ Bùi Xuân Thanh * TÓM TẮT Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trò của nhân nghĩa trong công việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hóa tư tưởng đức trị của Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ không vì lợi ích. Theo ông, khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và có thể mất luôn lợi ích.Có thể nói, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, có giá trị trong đường lối chính trị của mạnh tử nói riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung. Từ khoá: nhân nghĩa, lợi ích, đường lối chính trị, Manh Tử THE RELATION BETWEEN “BENEVOLENCE” AND “BENEFIT” OF MENCIUS’ POLITICAL LINE. ABSTRACT With the thought of using benevolence in political, Mencius particularly gives prominence to the role of benevolence in the govern a country of authorities and advocate absolutely the thought of Mencius’ Rule of virtue in the then Chinese Society. To clarify the role of benevolence, Mencius opposed benevolence and benefit and claimed the authorities doing politics for benevolence but not for benefit. According to Mencius, If the authorities have benevolence and carry out the benevolence in the politics, it will bring benefit. By contrast, if they give prominence to benefit, choosing benefit as starting point for their thought and action, it will corrupt benevolence and may be lost benefit. In fact, the theory of relation between “Benevolence” and “Benefit” is the special thought which is very valuable in the Mencius’ political line in particular and political theory in his society in general. Keywords: benevolence, benefit, political line, Mencius (Mạnh Tử) * TS. GV. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 130 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khi nghiên cứu tư tưởng triết lý, chính trị, đạo đức của Nho gia Tiên Tần qua các nhà tư tưởng, với các tác phẩm lớn mà sau này được xếp như là kinh điển của Nho gia, có thể nói một trong những điểm đặc sắc nhất trong học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích”. Thông qua việc bàn về mối quan hệ này, Mạnh Tử đã đặc biệt đề cao vai trò của nhân nghĩa. Xuất phát từ đó, ông vận dụng nhân nghĩa vào công việc chính trị của nhà cầm quyền hình thành nên tư tưởng nhân chính với những nội dung cơ bản: xây dựng đường lối chính trị nhân nghĩa, hoàn thiện đạo đức vua quan, đề cao vai trò của dân theo tinh thần dân bản, dưỡng dân gắn liền với giáo hóa dân, cùng với những quan điểm về kinh tế, chiến tranhmang tính nhân văn sâu sắc. 2. NHÂN NGHĨA VÀ LỢI ÍCH TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ Nhân nghĩa được hiểu theo nghĩa khái quát nhất là dùng nhân nghĩa trong chính trị. Do đó, mặc dù Mạnh Tử không ưa biện luận, nhưng để thuyết phục các vua chư hầu sử dụng học thuyết của mình, và để triển khai những tư tưởng cơ bản trong đường lối nhân nghĩa; trước hết ông tập trung làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa đối với công việc cai trị của nhà cầm quyền. Chính vì thế, lý luận về vai trò của nhân nghĩa trong chính trị trở thành một trong những nội dung mang tính cơ sở trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử nói riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung. Là một nhà Nho có tấm lòng nhân ái, Mạnh Tử rất coi trọng nhân nghĩa. Lập trường nhất quán của ông là khi: “Thiên hạ chìm đắm, muốn tiếp cứu họ, phải dùng đạo lý (nhân, nghĩa, lễ) mới được” [12] Chính vì vậy, trong học thuyết chính trị - xã hội của mình, Mạnh Tử chủ trương nhà cầm quyền phải lấy nhân nghĩa làm gốc trong công việc trị nước. Trong suy nghĩ của ông, các bậc vương giả trị quốc, bình thiên hạ là vì nhân nghĩa chứ không phải vì lợi ích. Ông đề cao tới mức độ tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa, đặt nó lên trên lợi ích nên cho rằng nhà cầm quyền không cần nói tới lợi ích mà chỉ cần nói tới nhân nghĩa là đủ. Chính vì thế, khi Mạnh Tử sang nước Lương, Huệ vương hỏi ông có phương pháp gì để làm lợi cho nước mình. Ông trả lời: Vua cần gì phải nói việc lợi? Hãy nói việc nhân nghĩa mà thôi. Nếu ở trên bậc quốc vương nói rằng: Có cách gì để làm lợi cho đất nước ta? Kế đó, hàng đại phu nói rằng: Có cách gì để làm lợi cho gia tộc ta? Sau đó hạng sĩ và hạng bình dân nói rằng: Có cách gì để làm lợi cho thân phận ta? Như vậy, từ trên tới dưới đều tranh nhau vì mối lợi, ắt vận nước phải lâm nguy đó” [11]. Không phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử coi trọng nhân nghĩa và đặt nhân nghĩa lên trên lợi ích. Theo ông: “Những vị Thiên tử đời trước nhân có lòng chẳng nỡ đối với kẻ khác, thành ra phổ cập lòng thương xót người trong việc chính trị của mình. Bởi có lòng chẳng nỡ ấy, các ngài bèn đem lòng thương xót mà thi hành trong chính sự, cho nên các ngài cai trị thiên hạ dường như có thể xây trở món đồ trên bàn tay” [11]. Trong suy nghĩ của ông, khi nhà cầm quyền “biết làm cho bốn mối thương xót, hổ thẹn, khiêm nhượng và phải quấy được sung túc” nơi mình, họ sẽ đủ sức cai trị thiên hạ. Ngược lại, nếu họ lấy lợi ích 131 Mối quan hệ giữa . . . làm mục đích cho suy nghĩ và hành động của mình thì kẻ dưới sẽ vì lợi mà hại kẻ trên, còn kẻ trên cũng vì lợi ích chiếm đoạt hết của cải của kẻ dưới. Trong một quốc gia và trong cả thiên hạ, nếu tất cả mọi người chỉ biết đuổi theo lợi ích của bản thân mình, gia đình mình và dòng tộc mình, tất sẽ đưa xã hội tới tình trạng loạn lạc, mọi người tranh giành, cướp đoạt của cải của nhau. Chính vì thế, muốn bình trị thiên hạ, nhà cầm quyền không được lấy lợi ích làm điểm xuất phát cũng như mục tiêu hướng tới của đường lối cai trị. Mạnh Tử rất coi thường những ai không coi trọng nhân nghĩa. Trong suy nghĩ của ông, người học theo “Thánh hiền”, nối nghiệp vua Nghiêu, vua Thuấn, sáng vừa thức dậy đã lo việc sửa mình và giúp đời. Còn kẻ theo phường gian trá vừa bừng mắt ra, đã mưu tính việc lợi cho mình. Những ai coi trọng nhân nghĩa và biết làm nhân chính là những kẻ thiện đức. Kẻ nào trong lòng thường sinh ra tư tưởng dục lợi là những kẻ đạo tặc. Ông viết: “Nghe gà gáy rộ mà thức dậy, chăm chăm làm việc thiện, người ấy là phái đồ của vua Thuấn, bậc trí đức vậy. Nghe gà gáy rộ mà thức dậy, chăm chăm là việc lợi, kẻ ấy là môn đồ của người Chích, tay cướp tổ vậy”[12]. Theo đó, nhân nghĩa là phẩm chất không thể thiếu của vua và các bậc quan lại, nói rộng ra là của nhà cầm quyền. Mạnh Tử phê phán gay gắt vua Trụ là kẻ làm hại đức nhân nghĩa nên không xứng đáng làm vua. Vì vậy khi Tề Tuyên vương hỏi ông về trường hợp vua chư hầu Võ vương giết vua Trụ nhà Thương: “Bề tôi mà giết vua có nên chăng?”. Ông trả lời: “ Kẻ làm hại đức nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Võ vương chỉ giết một người thường là Trụ thôi, chứ tôi chưa hề nghe giết vua”[11]. Thông qua việc phê phán vua Trụ, Mạnh Tử muốn khuyến cáo Tề Tuyên vương không được coi thường nhân nghĩa trong đạo trị nước. Theo ông, một vị vua bất nhân và bất nghĩa tất sẽ cai trị bằng “bạo ngược” đẩy nhân dân vào cảnh “nước lửa”. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của dân đối với vua, khiến vua phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Ngược lại, một ông vua biết coi trọng nhân nghĩa, thi hành nhân chính, tất sẽ nhận được sự ủng hộ của dân để làm nên nghiệp lớn. Do đó ông khuyên vua Mục Công nước Trâu: “Nếu vua thi hành nền chính trị nhân đức, ban ân huệ cho dân, khiến các quan chức trông nom dân chúng thì bá tính sẽ thương mến người bề trên của mình và dám liều chết vì kẻ lớn của mình”[11]. Có thể nói, đạo trị nước của Mạnh Tử tóm gọn trong hai chữ nhân chính và hoài bão lớn nhất của ông là làm thế nào cho đức nhân nghĩa trở thành lẽ sống của mỗi người trong xã hội. Để đức nhân nghĩa có thể lan rộng và tỏa sáng, Mạnh Tử bôn ba các nước không mệt mỏi khuyên các vua chư hầu thực hiện đường lối nhân chính. Nếu Khổng Tử khuyên người ta “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẳng hợp lễ thì đừng nghe, lời chi chẳng hợp lễ thì mình đừng nói, việc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng làm”[10], thì nguyên tắc của Mạnh Tử là nghe điều nhân nghĩa, nói điều nhân nghĩa và làm điều nhân nghĩa. Điều đó được thể hiện qua câu nói của ông với Cảnh Sửu: “Ta đây, ngoài cái đạo lý của vua Nghiêu, vua Thuấn, ta chẳng dám đem điều gì khác mà tâu bày trước vua”[11]. Cái đạo lý của vua Nghiêu vua Thuấn mà Mạnh Tử nói tới ở đây chính là đạo nhân nghĩa. Mạnh Tử cho rằng các vị 132 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät “Thiên tử” đời trước là những người có nhân nghĩa, biết “phổ cập lòng thương xót người trong việc chính trị của mình”, nghĩa là biết đem lòng nhân nghĩa thi hành trong chính trị nên sự nghiệp mới bền vững. Nhắc lại lời Khổng Tử: Đạo chỉ có hai đường nhân và bất nhân, Mạnh Tử chỉ ra đạo trị nước cũng chỉ có hai đường nhân và bất nhân. Theo ông, sở dĩ các triều đại trong quá khứ được thiên hạ là nhờ biết làm nhân (đó là các trường hợp vua Vũ lập ra nhà Hạ, vua Thương lập ra nhà Thương và vua Võ vương dựng lên nhà Chu). Ngược lại, các triều đại mất thiên hạ là do làm điều bất nhân (đó là các trường hợp vua Kiệt làm mất nhà Hạ, vua Trụ để mất nhà Thương, vua Lệ và vua U nhà Chu mất ngôi). Chính vì lẽ đó, Mạnh Tử đòi hỏi các vua chư hầu phải trị nước theo pháp tiên vương. Đối với ông, đó là cách duy nhất để đưa xã hội Trung Quốc đương thời ra khỏi cảnh loạn lạc, phân tranh, và đó cũng là phương pháp tốt nhất để một ông vua củng cố sự nghiệp. Cố nhiên, khi lấy nhân nghĩa làm gốc trong đạo trị nước, Mạnh Tử có lý lẽ riêng của ông. Ông tin tưởng rằng: “Hiện nay nếu vua chư hầu chịu hành chính như Văn vương, trong bảy năm ắt nền nhân chính sẽ phổ khắp thiên hạ”[12]. Mặt khác, trong suy nghĩ của ông, “Đức nhân là chỗ an ổn của người đời. Đức nghĩa là con đường chính đại của người đời”[12], nên khi nhà cầm quyền cai trị bằng bạo lực là không biết “ở trong đức nhân và noi theo đức nghĩa”. Như vậy có thể đưa dân vào khuôn khổ nhưng không thể thu phục lòng dân. Từ đó cho thấy, thi hành nhânnghĩa trong chính trị về thực chất là trị nước bằng đắc nhân tâm. Nói cách khác là nhà cầm quyền phải thu phục nhân tâm bằng đức nhân nghĩa của mình. Thế nhưng thời đại của Mạnh Tử là thời đại của chiến tranh và loạn lạc. Trong bối cảnh ấy Mạnh Tử không thể không nhận thấy xã hội Trung Quốc đương thời vẫn xảy ra những trường hợp mặc dù nhà cầm quyền lấy nhân nghĩa làm trọng trong đường lối trị quốc, nhưng họ vẫn không nhận được sự phục tùng, tin yêu của dân nên sự nghiệp không bền vững. Lý giải về những trường hợp ấy, Mạnh Tử cho rằng không phải vì đức nhân nghĩa không thể thu phục nhân tâm mà do lòng nhân của kẻ cai trị chưa đủ để cảm hóa lòng người. Mặt khác, theo ông nhân phải gắn liền với trí. Đã có nhân trong suy nghĩ mà không biết làm nhân là không có trí. Vậy nên “Mình yêu thương người mà người chẳng thân mến, vậy mình nên tự xét coi mình có đủ lòng nhân hay chăng. Mình cai trị người mà người chẳng phục tùng, vậy mình nên xét coi mình có đủ trí sáng hay chăng” [12]. Theo đó, đạo trị nước phải gắn liền nhân với trí. Khi nhà cầm quyền có đủ nhân và trí, tất sẽ biết được điều gì nên làm để làm, điều gì không nên làm để không làm, nên sẽ cảm hóa được lòng dân, thu phục được nhân tâm. Khi đề xuất đường lối nhân chính với nhà cầm quyền, mọi chủ trương, chính sách Mạnh Tử đưa ra chỉ vì nhân nghĩa chứ không vì lợi ích. Thế nhưng, xét tới cùng, bản chất của mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, giữa cá nhân với tập thể, cũng như giữa cá nhân với xã hội lại là mối quan hệ lợi ích. Vậy việc Mạnh Tử kịch liệt phản đối những ai nói tới lợi ích có phải do ông không hiểu rằng lợi ích là động lực cơ bản chi phối mọi hành vi của con người? Chúng tôi cho rằng Mạnh Tử hoàn toàn không phủ nhận lợi ích ngay cả khi ông đối lập nhân nghĩa với lợi ích. Thực ra việc đối 133 Mối quan hệ giữa . . . lập nhân nghĩa với lợi ích chỉ là cái cách mà Mạnh Tử đề cao nhân nghĩa. Phản đối việc người đời lấy lợi ích làm động cơ cho hành động của họ vì Mạnh Tử không tin rằng xuất phát từ lợi ích, người ta lại có thể giữ được nhân nghĩa. Đặt nghĩa và lợi trong mối quan hệ một chiều, ông có dụng ý làm rõ công dụng của nhân nghĩa. Ông tin tưởng rằng khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và có thể mất luôn lợi ích. Chính vì lẽ đó khi Tống Hinh muốn đem điều lợi để khuyên Tần và Sở không nên đánh nhau, Mạnh Tử đã phân tích về sự có hại của việc làm này, qua đó làm nổi bật vai trò của nhân nghĩa. Ông nói: Nếu tiên sinh đem việc lợi mà nói với vua nước Tần và vua nước Sở, hai vua ấy đẹp lòng vì chỗ lợi, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam quân Rồi kẻ làm tôi vì ham lợi nên thờ vua. Kẻ làm con vì ham lợi nên thờ cha. Kẻ làm em vì ham lợi nên thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc đều bỏ hết điều nhân và điều nghĩa; ai nấy đều giao tiếp nhau chẳng qua vì lòng tham lợi mà thôi. Nước nhà như thế mà chẳng diệt vong, thì chưa từng có vậy. Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều nghĩa mà nói với vua nước Tần và vua nước Sở, hai vua ấy đẹp lòng về chỗ nhân và chỗ nghĩa, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam quân Rồi ra, kẻ làm tôi vì mộ nhân nghĩa nên thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa nên thờ cha. Kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa nên thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi, ai nấy đều giao tiếp nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghĩa mà thôi. Cần chi phải nói chuyện lợi?”[12]. Tư tưởng trên đây của Mạnh Tử đượm tinh thần nhân văn sâu sắc. Nó chứng tỏ ông là nhà tư tưởng có tấm lòng nhân ái, luôn đề cao nhân nghĩa. Coi nhân nghĩa là gốc của đạo làm người, Mạnh Tử muốn nới lòng mình lan tỏa tới mọi người để đức nhân nghĩa được phổ cập rộng khắp và khuyến cáo nhà cầm quyền phải biết dùng nhân nghĩa điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đưa thiên hạ trở lại hữu đạo. Tuy nhiên, việc Mạnh Tử đề cao tới mức độ tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa và đòi hỏi con người phải lấy nhân nghĩa đối xử với nhau trong cuộc sống một cách vô điều kiện, cho thấy ông chưa nhìn rõ sức mạnh thực sự của bản năng, của cái phần “động vật” trong con người với vô số nhu cầu cần phải thỏa mãn. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng con người muốn hướng thiện nhưng con người lại không thể chối bỏ bản năng nên ngay trong suy nghĩ của mỗi người luôn luôn tồn tại sự đấu tranh giữa lợi ích và sự thánh thiện. Khi Mạnh Tử kêu gọi mỗi người, cả nước, cả thiên hạ hãy sống vì nhân nghĩa thì lời kêu gọi ấy của ông mang tính giáo dục hơn là tính phương pháp trong công việc trị nước của nhà cầm quyền. Thế nhưng tại sao Mạnh Tử lại đối lập nghĩa với lợi và khuyên nhà cầm quyền phải quên lợi? Xét tới cùng, đó chỉ là cái cách đề cao nghĩa của ông. Nếu như Khổng Tử coi nghĩa là đức tính quan trọng để phân biệt người quân tử với kẻ tiểu nhân nên đặt nghĩa lên trên tư lợi cá nhân và đòi hỏi con người không được vì lợi mà quên nghĩa, thì Mạnh Tử đã đi xa hơn một bước bằng cách tuyệt đối hóa vai trò của nghĩa, đòi hỏi người ta phải quên lợi vì nghĩa. Trong suy nghĩ của Mạnh Tử, lợi là quan tước, bổng lộc, tiền của luôn cám dỗ con người, làm cho con người không còn giữ được nhân nghĩa. Hơn nữa, thời đại 134 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät của ông - thời Chiến quốc, xã hội Trung Hoa đang loạn lạc, các nước chư hầu tranh thành cướp đất của nhau, chỉ biết đuổi theo lợi ích. Thế nhưng các cuộc chiến tranh vì lợi ích ấy chẳng những không mang lại lợi ích mà còn làm tổn hại lợi ích của vua chúa và các tập đoàn vua chúa cũng như tính mạng, tài sản của nhân dân. Để cứu vãn tình trạng đó, Mạnh Tử chủ trương dùng các giá trị chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi con người, và một trong những giá trị chuẩn mực đạo đức ấy là nhân nghĩa. Ông đưa ra lẽ sống: Kẻ nào coi trọng lợi ích tất sẽ nhận được sự đối xử cũng chỉ vì lợi ích của kẻ khác nên dễ mất luôn lợi ích. Ngược lại, những ai coi trọng nhân nghĩa sẽ nhận được sự đối xử có nhân nghĩa của mọi người, từ đó tự nhiên có lợi. Như vậy, không cầu lợi mà tự khắc sẽ có lợi, còn nếu đuổi theo lợi sẽ mất luôn lợi ích. Rõ ràng, đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi người ta phải quên lợi, về thực chất lại là mưu cầu lợi ích. Xét tới cùng, cái trật tự xã hội mà Mạnh Tử phấn đấu xây dựng cũng chỉ là xã hội bảo đảm quyền lợi cho vua, cùng các tập đoàn vua chúa và mục tiêu mà ông đặt ra cho kẻ sĩ cũng là để có danh lợi. Như vậy, Mạnh Tử không phê phán lợi ích nói chung mà chỉ tập trung phê phán cái lợi nào có hại cho nhân nghĩa. Tuy nhiên, xã hội là sự hợp thành của các cá nhân với sự đa dạng về nhân cách. Do hoàn cảnh sống, kinh nghiệm, trường đời, tuổi tác của mỗi cá nhân trong xã hội không giống nhau, nên những quan niệm cùng những trạng thái xúc cảm tâm lý của các cộng đồng người, các cá nhân về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm và về các quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với cá nhân luôn luôn có sự khác biệt. Do đó, không phải bất kỳ cá nhân nào khi thu nhận phạm trù đạo đức nhân nghĩa bằng con đường lý tính đều chuyển hóa nó thành hành vi nhân nghĩa. Đồng thời không phải lúc nào trong cuộc sống đức nhân nghĩa cũng được thực hiện suôn sẻ; không phải bất cứ ai cứ đối xử nhân nghĩa với người khác cũng được đáp trả bằng hành vi nhân nghĩa và lợi ích. Điều ấy cho thấy cách đạt đến lợi ích của Mạnh Tử không mang tính triệt để và thiếu thiết thực nên ông khó có thể thuyết phục được các vua chư hầu làm theo trong bối cảnh “đời suy đạo hỏng”. Có thể nói, nếu điểm cốt lõi mang tính đặc sắc trong học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, thì hạn chế đầu tiên và xuyên suốt của học thuyết ấy cũng bắt đầu từ tư tưởng này. Mạnh Tử chủ trương dùng đạo đức nhân nghĩa trong chính trị, nhưng đó là thứ đạo đức tiên nghiệm, chứ không phải những giá trị, chuẩn mực đạo đức được hình thành trong quá trình phát triển của xã hội. Theo Mạnh Tử, vũ trụ bên ngoài thuần túy là vũ trụ tâm linh. Những nguyên tắc đạo đức của con người đồng thời cũng là những nguyên tắc siêu hình của vũ trụ và bản tính con người chỉ là sự thể hiện đặc biệt những nguyên tắc ấy. Lòng thương xót là đầu mối của đức nhân “mọi người đều có” - điều đó có nghĩa nó mang tính bản năng và phổ biến. Mạnh Tử nói “mọi người đều có lòng chẳng nỡ” nên cố nhiên các ông vua trị vì thiên hạ cũng có lòng “chẳng nỡ”. Chính vì vậy mới có chính trị “chẳng nỡ” đối với mọi người. Đức nhân chỉ là sự phát triển của lòng thương xót, lòng thương xót chỉ phát triển được khi thi hành nhân ái nên thương người và làm những việc thương người là để đức nhân trở nên phổ biến. Vương đạo không có gì khác hơn là sự 135 Mối quan hệ giữa . . . thi hành nhân của vua chúa. Điều đó cho thấy Mạnh Tử lấy đức nhân làm điểm xuất phát để nới lòng mình lan tới người trong đạo trị nước. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội đầy những biến cố phức tạp, đức nhân nghĩa ông đưa ra sẽ gặp rất nhiều lực cản, làm cho nó không thể hiện một cách suôn sẻ và khó trở thành phổ biến. Khi chuẩn mực đạo đức ấy không thể đi vào cuộc sống, không giải quyết được mối quan hệ giữa nó với những hành động bất thiện của con người thì việc thực hiện nhân nghĩa chỉ là sự thể hiện mờ nhạt. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa nhân nghĩa và lợi ích, Mạnh Tử đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh của đạo đức, nên ông không tính đến những rào cản trong việc thi hành nhân nghĩa trong chính trị. Tư tưởng nhân nghĩa nói riêng và tư tưởng đạo đức của ông nói chung xuất phát từ tính tự giác của con người. Khi dùng nó để điều chỉnh hành vi cá nhân, ông đã không nhìn thẳng vào mâu thuẫn giữa lý trí, đạo đức với hiện thực cuộc sống, nên đã không giải quyết được mâu thuẫn ấy. Do đó, sự hy vọng cảm hóa nhân tâm trong đường lối chính trị của ông không tránh khỏi sự mơ hồ, khó thuyết phục đối với những ai đã dày dạn trong trường đời. Điều này cắt nghĩa tại sao các vua chư hầu đã không sử dụng học thuyết của ông trong công việc trị nước của họ. Trước sự xung đột giữa lẽ phải và dục vọng, giữa nhân nghĩa và lợi ích Mạnh Tử cũng chỉ biết đề cao nhân nghĩa để xoa dịu tình hình mà không thực sự giải quyết mâu thuẫn đó. Dùng nhân nghĩa trong chính trị, coi thường lợi ích là để mong con người hướng thiện, nhưng con người có hướng thiện được hay không, không chỉ phụ thuộc vào nhân nghĩa của kẻ cai trị mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sinh lý, hoàn cảnh khách quan, điều kiện sống Mạnh Tử đã không nhận ra điều đó nên ông không biết sử dụng và kết hợp các yếu tố ấy để giảm bớt những sai trái trong hành vi con người. Chính vì thế, mặc dù đã rất cố gắng “hành đạo” nhưng Mạnh Tử và các nhà Nho chủ trương đức trị trong xã hội Trung Quốc đương thời vẫn không thể cứu vãn được tình trạng “đời suy, đạo hỏng”. Cuối cùng, sự bế tắc trên con đường chính trị và sự thất bại trong sự nghiệp “cứu đời, cứu người” đã được ông giải thích bằng “mệnh trời” như Khổng Tử. Mạnh Tử là một nhà triết học duy tâm. Trên nền tảng tư tưởng “Thiên mệnh” của Khổng Tử và một số nhà Nho như Tử Tư, Tăng Sâm ông đã dựng lên một hệ thống triết học duy tâm chủ nghĩa của các nhà Nho và phát triển thế giới quan duy tâm trong triết học Khổng Tử lên đến đỉnh cao. Trong tư tưởng của Mạnh Tử, trời là đấng tối cao chi phối vạn vật và xét tới cùng mọi sự biến đổi của đời sống xã hội, sự thay thế nhau của các vương triều cũng như quyền hành, chức tước của mỗi cá nhân đều do “Thiên mệnh” chi phối. Ông nói: “Tự mình là vua nước lớn mạnh mà giúp vua các nước nhỏ yếu, đó là mình vui thuận Mạng Trời. Tự mình là vua nước nhỏ yếu mà thờ phụng vua nước lớn mạnh, đó là mình kính sợ Mạng Trời. Bậc Thiên tử vui thuận Mạng Trời thì có thể bảo tồn cuộc cai trị thiên hạ một cách bền vững. Bậc quốc trưởng kính sợ Mạng Trời thì đủ sức gìn giữ nước nhà mình một cách miên trường.”[11]. Theo ông: “Phàm việc gì mình không cố ý làm mà tự nhiên mình làm, đó là ý Trời; mình không mong cầu mà tự nhiên tới, đó là Mạng Trời vậy”[12]. Vậy nên: “Mình bảo tồn lòng dạ mình, lương tâm mình, mình 136 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät tưởng dưỡng bản tính mình là để thờ Trời vậy. Dẫu mình có chết yểu hay sống dai; hai việc ấy mình vẫn coi như nhau; mình cứ bền chí mà tu tập lấy mình, bình tĩnh đối với giờ phút cuối cùng của mình; đó là cách mình lập vững cái Mạng do Trời ban cho mình vậy”[12]. Rõ ràng, đạo đức nhân nghĩa là do trời phú, và suy cho cùng mọi suy nghĩ, hành vi, địa vị của mỗi người là do trời quy định. Trời quy định tất cả, vậy sự lu mờ của kỷ cương phép nước, sự đảo lộn của luân thường đạo lý và cả sự tham lợi của con người lẽ nào lại không do trời quy định? Từ đó cho thấy, việc quá đề cao mệnh trời lại làm giảm đi vai trò của nhân nghĩa, làm cho đạo đức nhân nghĩa bị bao bọc bởi cái vỏ duy tâm thần bí nên khó có thể phát huy tác dụng mà chỉ thể hiện ra một cách yếu ớt. Thế nhưng, học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử với những quan điểm về mối quan hệ giữa nhân nghĩa và lợi ích đã đề cập trên đây thấm đẫm tinh thần nhân bản, dân bản của ông. Chủ trương đạt đến lợi ích bằng cách làm điều nhân nghĩa của Mạnh Tử không chỉ thể hiện một tinh thần nhân văn sâu sắc mà còn thể hiện sự khát khao của ông về sự hướng thiện của con người. Nó cũng chứng tỏ rằng ngay cả lúc tình trạng suy đồi đạo đức lên đến đỉnh điểm, Mạnh Tử vẫn thể hiện một lập trường nhất quán và một niềm tin sắt đá vào sự thức tỉnh lương tri của con người. Với những lập luận đặc sắc về tâm tính và với niềm tin ấy ông đã dành gần trọn cả cuộc đời, chuyên tâm, bền chí giáo dục đạo đức cho đồng loại. 3. KẾT LUẬN Nhìn chung, trong quá trình mở rộng nhân nghĩa đến chính trị, Mạnh Tử đã đưa ra những lập luận sắc sảo về vai trò của nghĩa trong tương quan giữa nghĩa với lợi, cũng như vai trò của nhân nghĩa trong mối quan hệ giữa nhân nghĩa với sự hưng vong của các vương triều và sự bền vững của ngôi vua. Tiếp tục kế thừa tư tưởng của Khổng Tử: “Quân tử hiểu rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi”, nhưng Mạnh Tử tuyệt đối hóa vai trò của nghĩa, đòi hỏi nhà cầm quyền phải vì nghĩa quên lợi. Mặc dù đề cao nghĩa xét tới cùng cũng là để mưu cầu lợi ích, nhưng cái cách đạt đến lợi ích trên cơ sở nhân nghĩa trong đường lối chính trị của Mạnh Tử đã thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc. Có thể nói việc đề cao nhân nghĩa chính là chủ ý của Mạnh Tử nhằm cụ thể hóa đường lối đức trị của Khổng Tử thành nhân chính và hiện thực hóa tư tưởng ấy trong đời sống xã hội. Nó thực sự là một trong những tinh hoa của tư tưởng loài người nói chung và tư tưởng Trung Quốc nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. [2] Tào Thượng Bân (2005), Tư tưởng nhân bản của Nho học Tiên Tần, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. [3] Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1960), Đại cương triết học Trung Quốc. Cảo Thơm, Sài Gòn. 137 Mối quan hệ giữa . . . [4] Doãn Chính (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5] Doãn Chính, Trương Giới, Trương Văn Chung (1994), Giải thích các danh từ triết học sử Trung Quốc, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. [6] Vũ Khiêu (chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. [7] Vũ Khiêu (1995), Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. [8] Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo, Trung tâm Học liệu, Sài Gòn. [9] Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [10] Luận ngữ, (bản dịch của Đoàn Trung Còn) (1950), Trí Đức Tòng thơ, Sài Gòn. [11] Mạnh Tử-Quyển thượng, (bản dịch của Đoàn Trung Còn).;1950, Trí Đức Tòng thơ, Sài Gòn. [12] Mạnh Tử – Quyển hạ, (bản dịch của Đoàn Trung Còn) (1950), Trí Đức Tòng thơ, Sài Gòn. [13] Mạnh Tử quốc văn giải thích, (Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục dịch thuật) (1992), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. [14] Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học tại Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. [15] Tứ thư tập chú (Chu Hy, do Nguyễn Đức Lân chú dịch)(1998), Nxb. Văn hóa -Thông tin. [16] Nguyễn Khắc Viện (1996), Bàn về đạo Nho, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_nhan_nghia_va_loi_ich_trong_duong_loi_chinh.pdf