Mối quan hệ giữa năng lực tài chính và hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam - Ứng dụng của mô hình đường bao sản xuất ngẫu nhiên
Vận tải biển luôn là một ngành công nghiệp trọng điểm ở Việt Nam được sự quan tâm
của các cấp chính quyền và các nhà đầu tư. Vì thế phân tích hiệu quả của các doanh
nghiệp cảng biển luôn là một chủ đề mà các nhà nghiên cứu kinh tế đặc biệt quan tâm.
Trong bài viết dưới đây, bằng việc sử dụng một phương pháp phân tích định lượng tiên
tiến (mô hình đường bao sản xuất ngẫu nhiên của Battese và Coelli), nhóm tác giả đã
tính toán hiệu quả kỹ thuật tại một số cảng biển trọng điểm Việt Nam giai đoạn 2010 –
2015 cũng như đánh giá sự tác động của các yếu tố năng lực tài chính đến hiệu quả kỹ
thuật của các cảng biển này.
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa năng lực tài chính và hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam - Ứng dụng của mô hình đường bao sản xuất ngẫu nhiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa năng lực tài chính và hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam - Ứng dụng của mô hình đường bao sản xuất ngẫu nhiên
CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/2017 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 50 - 4/2017 93 Ngoài ra qua đồ thị hình 2, dễ dàng nhận thấy xu hướng mùa vụ trong giai đoạn những tháng sắp tới lại tiếp tục xuất hiện trong chuỗi số liệu về sản lượng hàng hóa thông qua. Tổng sản lượng hàng hóa thông qua tiếp tục giảm mạnh vào những tháng đầu năm (tháng 1, tháng 2, tháng 3) và phục hồi đáng kể vào những tháng cuối năm (tháng 11, tháng 12). Kiểm nghiệm bằng thực tế qua so sánh kết quả của dự báo với sản lượng thông qua các chi nhánh thuộc Công ty cổ phần cảng Hải Phòng trong tháng 1 và tháng 2 năm 2017 (đạt lần lượt là 2.214 nghìn tấn và 1.778 nghìn tấn), ta thấy những sai số này là rất nhỏ (sai số của kết quả dự báo so với thực tế tháng 1 là 0,2% và tháng 2 là 0,1%), trong khi phạm vi cho phép của các mô hình dự báo sai lệch so với thực tế là dưới 10%. 4. Kết luận Bài báo đã trình bày tóm tắt cơ sở lý luận về dự báo và các mô hình dự báo trong ngắn hạn, đồng thời đã vận dụng các mô hình trên để dự báo ngắn hạn sản lượng hàng hóa thông qua các chi nhánh thuộc Công ty cổ phần cảng Hải Phòng đến năm 2017. Sau khi đo lường mức độ chính xác của các mô hình thông qua sai số dự báo, nhóm tác giả từ đó đã lựa chọn được ra mô hình phù hợp nhất là mô hình san mũ Winters để tiến hành dự báo. Từ đó cho ra các kết quả dự báo đáng tin cậy về sản lượng hàng hóa thông qua các bến cảng thuộc Công ty cổ phần cảng Hải Phòng cho tháng năm 2017. Như vậy, các kết quả dự báo này có thể được xem như là một nguồn tài liệu tham khảo, một gợi ý để Ban lãnh đạo Cảng cùng các phòng ban liên quan lấy đó làm cơ sở để có những kế hoạch ngắn hạn đối với việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất và đề ra những phương án xếp dỡ hiệu quả, từ đó tránh được tình trạng ùn tắc hàng, không đáp ứng được lượng hàng đến cảng, gây ra những lãng phí không đáng có. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. PGS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Dự báo và phân tích dữ liệu trong kinh tế và tài chính, Nhà xuất bản Thống kê, 2009. [2]. PGS.TS Nguyễn Quang Dong, Bài giảng Kinh tế lượng, Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2007. [3]. ThS. Bùi Hải Đăng, Luận văn thạc sĩ, Dự báo ngắn hạn sản lượng hàng hóa thông qua các bến cảng thuộc Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng đến năm 2017. Ngày nhận bài: 30/12/2016 Ngày phản biện: 23/3/2017 Ngày duyệt đăng: 27/3/2017 MỐI QUAN HỆ GIỮA NĂNG LỰC TÀI CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CẢNG BIỂN VIỆT NAM - ỨNG DỤNG CỦA MÔ HÌNH ĐƯỜNG BAO SẢN XUẤT NGẪU NHIÊN THE RELATIONSHIP BETWEEN FINANCIAL ABILITY AND TECHNICAL EFFICIENCY OF VIETNAM SEAPORT ENTERPRISES - AN APPLICATION OF STOCHASTIC FRONTIER APPROACH NGUYỄN HỒNG VÂN, HOÀNG THỊ PHƯƠNG LAN Trường Đại học Hàng hải Việt Nam Tóm tắt Vận tải biển luôn là một ngành công nghiệp trọng điểm ở Việt Nam được sự quan tâm của các cấp chính quyền và các nhà đầu tư. Vì thế phân tích hiệu quả của các doanh nghiệp cảng biển luôn là một chủ đề mà các nhà nghiên cứu kinh tế đặc biệt quan tâm. Trong bài viết dưới đây, bằng việc sử dụng một phương pháp phân tích định lượng tiên tiến (mô hình đường bao sản xuất ngẫu nhiên của Battese và Coelli), nhóm tác giả đã tính toán hiệu quả kỹ thuật tại một số cảng biển trọng điểm Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015 cũng như đánh giá sự tác động của các yếu tố năng lực tài chính đến hiệu quả kỹ thuật của các cảng biển này. Từ khóa: Hiệu quả kỹ thuật, đường bao ngẫu nhiên, năng lực tài chính CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/2017 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 50 - 4/2017 94 Abstract Sea transportation is always a key industry in Vietnam and it is concerned by the authorities and investors. Therefore, analyzing the efficiency of port enterprises has always been a topic that economic researchers particularly interested. In this paper, by using an advanced quantitative analytical method (the Stochastic Production Frontier proposed by Battese and Coelli), the authors estimated the technical efficiency at a number of crucial Vietnamese seaport enterprises in the period of time from 2010 to 2015 as well as assessing the impact of financial capability factors on their technical efficiency. Keywords: Technical efficiency, stochastic frontier, financial ability. 1. Đặt vấn đề Theo số liệu báo cáo của Liên Hiệp Quốc (UNTCAD, 20131), trong vòng hai thập kỷ qua, tỷ lệ tăng trưởng của thương mại hàng hải đạt xấp xỉ 5%, gấp đôi tỷ lệ tăng trưởng GDP toàn cầu. Sự phát triển này đã đặt ra câu hỏi cho các học giả: Liệu rằng các cảng biển có thực sự đạt năng suất cao đến như vậy không? Trong các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả kỹ thuật (hiệu quả do sử dụng hợp lý các nguồn lực hiện có) đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thêm vào đó, các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng hiệu quả kỹ thuật của các cảng biển phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như phương pháp đánh giá, các yếu tố khách quan, các yếu tố chủ quan trong đó có năng lực tài chính (Odeck và Brathen, 20122) Kể từ khi Farrell (1957)3 giới thiệu “Hàm Giới Hạn” (Frontier Function), rất nhiều học giả đã sử dụng khái niệm này để lượng hóa hiệu quả và năng suất. Tính đến thời điểm hiện tại, có ba phương pháp tiếp cận chính đang được khai thác sử dụng đó là hướng tiếp cận “phi tham số”, “bán tham số” và “tham số”. Mỗi phương hướng tiếp cận trên được sử dụng cho những tình huống nghiên cứu cụ thể, do đó người nghiên cứu cần xem xét cân nhắc nhiều yếu tố trước khi đưa ra lựa chọn cho hướng tiếp cận. Trong bài báo này, tác giả chỉ tập trung giải thích và phân tích phương hướng thứ ba. Hướng nghiên cứu này sử dụng phương pháp thống kê định lượng để xác định “hàm giới hạn sản xuất”. Meeusen, Van den Broeck (1997)4 là một trong những người đầu tiên đề xuất “hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên” (Stochastic frontier production function). Sau đó, đã có rất nhiều nghiên cứu giá trị tìm cách mở rộng và ứng dụng mô hình này. Hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên này đòi hỏi sự tồn tại yếu tố phi hiệu quả kỹ thuật trong quá trình sản xuất một yếu tố đầu ra nhất định. Bởi lẽ đối với phương pháp này, phần sai số của hàm sản xuất bao gồm hai phần: phần nhiễu (không giải thích được) và phần phi hiệu quả kỹ thuật. 2. Lựa chọn mô hình và phương pháp phân tích Trong quá trình phát triển các mô hình theo phương pháp này, một số học giả còn tìm hiểu về các yếu tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật. Trước đây, việc đánh giá tác động của các yếu tố ngoại sinh đến hiệu quả kỹ thuật được ước lượng thông qua việc ước lượng hai mô hình riêng lẻ: mô hình hàm sản xuất và mô hình các yếu tố tác động đến hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên một số nghiên cứu (Battese & Coelli, 19955; Wang, 20026) đã chỉ ra rằng, cách làm này sẽ dẫn đến hiện tượng “phương sai thay đổi” (heteroskedasticity) cũng như sự sai lệch trong kết quả ước lượng ở cả hàm sản xuất lẫn phương trình đánh giá tác động của các yếu tố ngoại sinh. Vì vậy Battese và Coelli (1995) đã đề xuất một mô hình ước lượng hiệu quả kỹ thuật và các yếu tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật một cách đồng thời. Mô hình này cũng tính toán đến sự biến thiên hiệu quả kỹ thuật theo thời gian Mô hình này được Battese và Coelli mô tả cụ thể như sau: Giả sử chúng ta có hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên: 𝑌𝑖𝑡 = exp (𝑥𝑖𝑡𝛽 + 𝑉𝑖𝑡 − 𝑈𝑖𝑡); (1) Trong đó: 𝑌𝑖𝑡: đầu ra tại thời điểm t của doanh nghiệp I; 𝑥𝑖𝑡: tập hợp các yếu tố đầu vào tại thời điểm t của doanh nghiệp I; 𝛽: hệ số của hàm sản xuất cần được ước lượng; 𝑉𝑖𝑡: phần sai số (random errors) với giả định phân bố đồng nhất độc lập dưới dạng 𝑁(0, 𝜎𝑣 2), đồng thời phân bố độc lập với 𝑈𝑖𝑡; 𝑈𝑖𝑡: là một biến không âm, đại diện cho sự phi hiệu quả kỹ thuật. Nó cũng được giả định phân bố độc lập theo dạng nón 𝑁(𝑧𝑖𝑡𝛿, 𝜎𝑢 2); 𝑧𝑖𝑡: tập hợp các biến giải thích đại diện cho các yếu tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật; CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/2017 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 50 - 4/2017 95 𝛿: các hệ số chưa biết cần ước lượng. Yếu tố phi hiệu quả kinh tế, 𝑈𝑖𝑡, trong mô hình (1) còn có thể được xác định dưới dạng sau: 𝑈𝑖𝑡 = 𝑧𝑖𝑡𝛿 + 𝑊𝑖𝑡; (2) Trong đó biến ngẫu nhiên, 𝑊𝑖𝑡, được xác định bởi phân phối dạng nón, với điểm chóp là−𝑧𝑖𝑡𝛿. Giả định này phù hợp với giả định về phân phối của 𝑈𝑖𝑡 dưới dạng 𝑁(𝑧𝑖𝑡𝛿, 𝜎𝑢 2). Để xác định các hệ số của (4) và (5) một cách đồng thời, Battese và Coelli (1995) sử dụng phương pháp “Ước lượng hợp lý cực đại” (Maximum Likelihood Estimation). Hàm hợp lý này được thể hiện dưới hai tham số phương sai là 𝜎𝑠 2 = 𝜎𝑢 2 + 𝜎𝑣 2và 𝛾 = 𝜎𝑢 2/𝜎𝑠 2. Hiệu quả kỹ thuật của hoạt động sản xuất đối với doanh nghiệp i tại thời điểm t được xác định bởi phương trình sau: 𝑇𝐸𝑖𝑡 = exp(−𝑈𝑖𝑡) = exp (−𝑧𝑖𝑡𝛿 − 𝑊𝑖𝑡); (3) 3. Lựa chọn hàm sản xuất và các biến số Để sử dụng mô hình BC (1995), việc đầu tiên chúng ta phải làm là xác định một hàm sản xuất cụ thể. Ở đây, tác giả lựa chọn sử dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas và dạng Translog của hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên sẽ được viết dưới dạng: 𝐿𝑛𝑌𝑖𝑡 = 𝐵0 + 𝐵1𝑙𝑛𝑋1𝑖𝑡 + 𝐵2𝑙𝑛𝑋2𝑖𝑡 + 𝐵3𝑙𝑛𝑋3𝑖𝑡 + 1 2 𝐵11(𝑙𝑛𝑋1𝑖𝑡) 2 + 1 2 𝐵22(𝑙𝑛𝑋2𝑖𝑡) 2 + 1 2 𝐵33(𝑙𝑛𝑋3𝑖𝑡) 2 + 𝐵12(𝑙𝑛𝑋1𝑖𝑡 ∗ 𝑙𝑛𝑋2𝑖𝑡) + 𝐵13(𝑙𝑛𝑋1𝑖𝑡 ∗ 𝑙𝑛𝑋3𝑖𝑡) + 𝐵23(𝑙𝑛𝑋2𝑖𝑡 ∗ 𝑙𝑛𝑋3𝑖𝑡) + 𝑉𝑖𝑡 − 𝑈𝑖𝑡; (4) Trong đó: Y: tổng lượng hàng hóa thông qua cảng (triệu tấn); X1: Số lượng xe nâng hàng (chiếc); X2: Số lượng cần trục (chiếc); X3: Chiều dài cầu bến (mét). Các giả định về phần sai số (𝑉𝑖𝑡) và yếu tố phi hiệu quả kỹ thuật (𝑈𝑖𝑡)vẫn tương tự như phân tích bên trên, cụ thể 𝑉𝑖𝑡~𝑁(0, 𝜎𝑣 2) và 𝑈𝑖𝑡 = 𝑁 +(𝑧𝑖𝑡 𝛿, 𝜎𝑢 2). Hàm số hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến phi hiệu quả kỹ thuật được xác định cụ thể như sau: 𝑈𝑖𝑡 = 𝛿0 + 𝛿1𝑧1𝑖𝑡 + 𝛿2𝑧2𝑖𝑡 + 𝛿3𝑧3𝑖𝑡 + 𝛿4𝑧4𝑖𝑡 + 𝑊𝑖𝑡; (5) Trong đó: 𝑧1𝑖𝑡: quy mô của cảng i tại thời điểm t; 𝑧2𝑖𝑡: tỷ suất tự tài trợ của cảng i tại thời điểm t; 𝑧3𝑖𝑡: hệ số thanh toán ngắn hạn của cảng i tại thời điểm t; 𝑧4𝑖𝑡:tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có của cảng i tại thời điểm t. 4. Mối quan hệ giữa năng lực tài chính và hiệu quả kỹ thuật - Kết quả phân tích thực nghiệm các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015 Bảng 1. Thống kê mô tả các biến số sử dụng trong mô hình nghiên cứu Biến số Định nghĩa Thống kê mô tả Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Đầu ra Tổng lượng hàng thông qua Y( triệu tấn) Tổng hàng hóa ra vào cảng cả năm 7.815.916 6.184.874 880.865 21.230.586 Đầu vào Số lượng xe nâng hàng X1(chiếc) Tổng số xe nâng hàng cuối năm 23,25 24,25 2 76 Số lượng cần trục X2(chiếc) Tổng số cần trục cuối năm 32,27 40,55 6 153 Chiều dài cầu bến X3(mét) Chiều dài cầu bến cuối năm 1.368,25 1.130,44 425 3.534 Năng lực tài chính của doanh nghiệp Quy mô doanh nghiệp (Z1) Logarit nepe tổng tài sản 27,30 1,15 24,77 29,39 Tỷ suất tự tài trợ Z2(%) Vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản 63,43 32,79 -109,46 96,84 Hệ số thanh toán ngắn hạn Z3(lần) Tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn 2,69 1,86 0,76 7,33 Tỷ suất LN trên vốn tự có Z3(%) Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu 5,57 31,44 -146,27 38,55 Cơ sở dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm tám trong số các cảng biển lớn nhất tại Việt Nam trải dọc từ Bắc vào Nam (Ba cảng miền Bắc, hai cảng miền Trung và ba cảng miền Nam) trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến 2015. Dựa trên hai tiêu chí là tổng tài sản và lượng hàng hóa thông qua, tổng tài sản của tám cảng nghiên cứu chiếm trên 80% giá trị của toàn bộ hệ thống cảng CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/2017 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 50 - 4/2017 96 biển Việt Nam (Theo số liệu từ Hiệp hội Cảng biển Việt Nam). Số liệu sử dụng để áp dụng vào mô hình của hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên được chia thành 2 thành phần. Thành phần thứ nhất bao gồm số liệu về các biến số liên quan đến đầu ra và đầu vào của quy trình kinh doanh của các cảng biển chính ở Việt Nam. Thành phần thứ hai liên quan đến các biến số thể hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp. Để đại diện cho năng lực tài chính của doanh nghiệp, tác giả đã thu thập số liệu về các biến số: quy mô doanh nghiệp, tài sản của doanh nghiệp (tài sản ngắn hạn, dài hạn), nguồn vốn (nợ phải trả, vốn chủ sở hữu), doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất nợ, hệ số thanh toán ngắn và dài hạn, các hệ số sinh lời. Nói một cách tổng quát, thành phần này được chia thành bốn nhóm chính: đặc điểm chung, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Để tránh hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình tuyến tính, tác giả đã sử dụng phần mềm thống kê Stata để phân tích ma trận hệ số tương quan giữa tất cả các biến. Các biến số được xem là đạt tiêu chuẩn nếu hệ số tương quan của nó với các biến số khác nằm trong khoảng từ 0.2 đến 0.9. Qua bước sàng lọc này, tác giả cuối cùng đã chọn bốn biến số đại diện cho bốn nhóm nói trên bao gồm: quy mô doanh nghiệp, tỷ suất tự tài trợ, hệ số thanh toán ngắn hạn, và tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và yêu cầu của mô hình áp dụng trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn sử dụng phần mềm Frontier 4.1, một phần mềm được cung cấp miễn phí bởi giáo sư Tim Coelli. Các hệ số ước lượng trong mô hình (1) được thể hiện qua bảng 2. Khác với các phương pháp hồi quy khác (chẳng hạn phương pháp hồi quy tuyến tính), “Ước lượng hợp lý cực đại” không thể được giải thích bằng hệ số R2. Thay vào đó, ở đây chúng ta sử dụng kiểm định LR (Likehood - ratio test). Giá trị của tham số này tuân theo quy tắc phân phối Chi bình phương (trong mô hình nghiên cứu, số bậc tự do bằng 10). Khi so sánh chúng ta thấy kết quả giá trị tham số LR=21.0495 lớn hơn giá trị so sánh của phân phối Chi bình phương ở mức 5% (𝑋0.05 2 = 18.3070). Vì vậy chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết H0 (mô hình áp dụng không phù hợp) và kết luận rằng việc áp dụng mô hình Cobb-Douglas cho hàm giới hạn sản xuất trong trường hợp này là hoàn toàn phù hợp. Bên cạnh tham số LR, hệ số sigma - squared (𝜎2 = 𝜎𝑢 2 + 𝜎𝑣 2) và Gamma (𝛾 = 𝜎𝑢 2/𝜎2) đều mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy tối thiểu 5%. Điều đó có nghĩa là sự biến thiên (phương sai) của cả yếu tố ngẫu nhiên (v) và yếu tố “phi hiệu quả” (u) của mô hình nghiên cứu đạt được tiêu chuẩn ý nghĩa thống kê cần thiết. Hay nói một cách khác, việc áp dụng yếu tố “phi hiệu quả” ở đây là đúng đắn. Bảng 2. Hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên (Frontier 4.1) Biến số Hệ số ước lượng Sai số chuẩn t-value Hằng số 84,3921*** 0,9854 85,6463 LnX1 12,1586*** 1,7962 6,7691 LnX2 23,8767*** 1,2331 19,3637 LnX3 15,2381*** 2,1796 6,9912 (½)(LnX1) 2 -5,4042*** 0,3163 -17,0868 (½)(LnX2) 2 -6,5073*** 0,7837 -8,3036 (½)(LnX3) 2 4,8187*** 0,3484 13,8305 (LnX1)(LnX2) 6,6312*** 0,4686 14,1499 (LnX1)(LnX3) 0,6902** 0,2746 2,5130 (LnX2)(LnX3) -3,0085*** 0,3292 -9,1384 Sigma-squared: 𝜎2 0,0330** 0,0129 2,5617 Gamma: 𝛾 0,9023*** 0,0138 65,3834 Log Likelihood 20,0632 LR test 21,0495** Giải thích bảng: 1. Biến phụ thuộc: lnY 2. Cột biến số thể hiện các biến số sử dụng trong mô hình (4); cột Hệ số ước lượng thể hiện giá trị ước lượng của các hệ số hồi quy (các hệ số β); Sai số chuẩn thể hiện sai số của hệ số ước lượng; t-value được xác định bằng hệ số ước lượng chia độ lệch chuẩn; 3. ***, **, * thể hiện sự “đủ độ tin cậy thống kê” tương ứng lần lượt ở các mức 1%, 5% và 10% CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/2017 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 50 - 4/2017 97 Cuối cùng có thể thấy rằng, tất cả các hệ số ước lượng của các biến đầu vào (lnX1, lnX2, và lnX3) đều mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê. Điều này thể hiện sự phù hợp của hàm giới hạn sản xuất mà chúng ta lựa chọn so với đặc điểm cơ bản của một hàm sản xuất. Đó là, sự ảnh hưởng cận biên cùng chiều của các yếu tố đầu vào sản xuất đối với đầu ra. Hay nói một cách tổng quát tương đối, khi chúng ta tăng một trong yếu tố đầu vào lựa chọn trong mô hình (hoặc cả ba) thì đầu ra chắn chắn sẽ cùng tăng lên. Sau khi phân tích hàm giới hạn sản xuất ngẫu nhiên, việc phân tích hiệu quả kỹ thuật của các cảng cũng rất quan trọng. Bảng 3 thể hiện yếu tố hiệu quả kỹ thuật của 8 cảng nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2015. Bảng 3. Hiệu quả kỹ thuật của các Cảng qua các thời kỳ (Frontier 4.1) TT Tên cảng 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Mean 1 Cảng Hải An Phòng 0,94 0,95 0,96 0,96 0,95 0,94 0,95 2 Cảng Đình Vũ 0,69 0,79 0,80 0,75 0,7, 0,61 0,73 3 Cảng Cái Lân 0,96 0,93 0,97 0,99 0,99 - 0,97 4 Cảng Đà Nẵng 0,96 0,96 0,94 0,92 0,90 0,72 0,90 5 Cảng Sài Gòn 0,97 0,97 0,97 0,96 0,96 - 0,96 6 Cảng Nha Trang 0,58 0,54 0,52 0,60 0,66 0,92 0,64 7 Cảng Quy Nhon 0,85 0,88 0,89 0,90 0,78 0,78 0,84 8 Cảng Đồng Nai 0,89 0,91 0,90 0,91 0,91 0,96 0,92 Toàn bộ 0,86 0,87 0,87 0,87 0,86 0,82 0,86 Thông qua kết quả về hiệu quả kỹ thuật của các cảng biển Việt Nam, có thể thấy rằng trong 8 cảng nghiên cứu, cảng Sài Gòn và cảng Cái Lân là hai cảng đạt hiệu quả trung bình cao nhất và ổn định nhất (~96%). Hai cảng kém hiệu quả nhất là cảng Nha Trang và cảng Đình Vũ với chỉ số hiệu quả bình quân lần lượt tương ứng là 64% và 73%. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, hiệu quả bình quân của các cảng biển Việt Nam đang thể hiện một xu hướng đi xuống sau một thời gian phát triển. Cụ thể, vào thời điểm năm 2010, hiệu quả của cảng biển Việt Nam ở vào mức 85,67%, tăng dần đều và đạt đỉnh cao vào năm 2013 với mức 87,3%, rồi sau đó giảm dần xuống gần mức 82% vào năm 2015. Hình 1. Hiệu quả của hệ thống cảng biển Việt Nam qua các thời kỳ Mục đích của mô hình này giúp giải thích mối liên hệ giữa năng lực tài chính với các hiệu quả kỹ thuật để từ đó tìm ra các nguyên nhân làm cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao năng lực tài chính một cách thuyết phục nhất. Mối liên hệ giữa các yếu tố năng lực tài chính với hiệu quả kỹ thuật được thể hiện thông qua phương trình (1). Việc ước lượng tham số của (1) và (2) theo phương pháp “Ước lượng hợp lý cực đại” phải được tiến hành một cách đồng thời. Kết quả ước lượng các tham số của phương trình (4) được trích xuất từ kết quả chạy mô hình bằng phần mềm Frontier 4.1 như sau: 0.78 0.8 0.82 0.84 0.86 0.88 2010 2011 2012 2013 2014 2015 CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/2017 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 50 - 4/2017 98 Bảng 4. Năng lực tài chính và hiệu quả kỹ thuật Biến số Hệ số ước lượng Sai số chuẩn t-value Hằng số 0,8266 2,2040 0,3750 Quy mô doanh nghiệp -0,5196*** 0,0650 -7,9905 Tỷ suất tự tài trợ 0,0482*** 0,0098 4,9184 Hệ số thanh toán ngắn hạn 0,0888* 0,0507 1,7522 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có -0,0639*** 0,0213 2,9812 Giải thích bảng: 1. Biến phụ thuộc: phi hiệu quả kỹ thuật u (inefficiency) 2. Cột biến số thể hiện các biến số sử dụng trong mô hình (4); cột Hệ số ước lượng thể hiện giá trị ước lượng của các hệ số hồi quy (các hệ số β); Sai số chuẩn thể hiện sai số của hệ số ước lượng; t-value được xác định bằng hệ số ước lượng chia độ lệch chuẩn. ***, **, * thể hiện sự “đủ độ tin cậy thống kê” tương ứng lần lượt ở các mức 99%, 95% và 90% Kết quả hồi quy mối quan hệ giữa năng lực tài chính yếu tố phi hiệu quả giúp chúng ta nhận diện nhiều xu hướng khác nhau: Thứ nhất, về quy mô doanh nghiệp: Biến số này được đo bằng cách lấy giá trị logarit cơ số tự nhiên của tổng tài sản. Hệ số ước lượng của biến số này có giá trị - 0,52 với độ lệch chuẩn 0,065, do đó có ý nghĩa thống kê trong mô hình ngay cả ở độ tin cậy 1%. Giá trị của hệ số này có thể được giải thích như sau: Khi tổng tài sản của doanh nghiệp tăng lên 0,0052%, yếu tố phi hiệu quả sẽ giảm đi 1 đơn vị. Điều đó có nghĩa là quy mô của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật. Trong phạm vi nghiên cứu, nếu một cảng biển có quy mô càng lớn thì hiệu quả đạt được càng cao. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với rất nhiều công trình nghiên cứu trước, giải thích rằng những doanh nghiệp lớn có nhiều ưu thế cạnh tranh nhất định như thương hiệu, công nghệ, khả năng đối phó với các biến cố bất thường...và do đó đạt hiệu quả kỹ thuật cao. Thứ hai, hệ số tự tài trợ: Đây là một hệ số thể hiện cơ cấu vốn của một doanh nghiệp và được tính bằng vốn chủ sở hữu chia cho tổng nguồn vốn (hay tài sản). Hệ số này thông thường sẽ nằm trong khoảng từ 0 đến 1 (trừ trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ liên tiếp trong nhiều năm liền và lợi nhuận âm lũy kế đã khấu trừ hết vào vốn chủ sở hữu). Một doanh nghiệp có hệ số tự tài trợ lớn thể hiện khả năng tự chủ tài chính cao. Tuy nhiên khả năng tự chủ tài chính không phải lúc nào cũng đi đôi với hiệu quả. Cụ thể trong nghiên cứu này, hệ số tự tài trợ có hệ số ước lượng 0,048 và cũng có ý nghĩa thống kê tại mức tin cậy 1%. Điều này có nghĩa rằng nếu hệ số tự tài trợ tăng lên 1 đơn vị, yếu tố hiệu quả cũng tăng lên 1 đơn vị. Nói một cách khác, một cảng nào đó có tỷ lệ vốn chủ sở hữu càng cao thì càng hoạt động kém hiệu quả. Điều này thể hiện rằng, trong giai đoạn nghiên cứu, các cảng biển Việt Nam đang quản lý và sử dụng vốn chủ sở hữu kém hiệu quả và chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu có thể sẽ là gánh nặng tài chính trong tương lai gần. Thứ 3, hệ số thanh toán ngắn hạn: Hệ số này đại diện cho nhóm khả năng thanh toán (hay tính lỏng của tài sản) của doanh nghiệp. Hệ số này cho thấy với mỗi một đồng nợ ngắn hạn, doanh nghiệp có bao nhiều tiền mặt để sẵn sàng chi trả. Nói cách khác, hệ số này giúp đo lường khả năng đối phó của doanh nghiệp với các biến động tài chính trong tương lại gần. Tương tự như hệ số tự tài trợ, hệ số này cũng mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Như vậy, một cảng biển có khả năng thanh toán ngắn hạn càng cao sẽ càng kém hiệu quả. Kết quả này có thể được giải thích bằng cách hiểu tiền và các khoản tương đương tiền là các khoản tài sản không mang lại hiệu quả kinh tế. Vì vậy việc các doanh nghiệp không tính toán được tỷ lệ dự trữ tiền mặt hợp lý (bao gồm cả quá ít và quá nhiều) đều gây ra những thiệt hại nhất định cho doanh nghiệp và qua đó làm giảm hiệu quả của doanh nghiệp đó. Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực trạng đó của các cảng biển Việt Nam. Biến số cuối cùng được sử dụng trong mô hình là tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có (ROE). Tỷ suất này đại diện cho nhóm khả năng sinh lời của doanh nghiệp và được đo bằng lợi nhuận sau thuế chia cho vốn chủ sở hữu. Thông thường đối với người bỏ vốn đầu tư, đây sẽ là một trong những chỉ tiêu được quan tâm nhiều nhất. Xét về mặt logic kinh tế, nếu một doanh nghiệp làm ăn có càng nhiều lãi và tỷ suất này càng lớn đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó làm ăn hiệu quả. Logic này cũng được chứng minh qua rất nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm. Kết quả nghiên
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_nang_luc_tai_chinh_va_hieu_qua_ky_thuat_cua.pdf