Mối quan hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam

Mục tiêu của bài viết này là nghiên cứu mối quan hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của các

doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Dựa vào “Lý thuyết chi phí giao dịch” của Hennart (1991),

nghiên cứu này giả thuyết rằng, khi khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam và các nước nhập khẩu càng

lớn thì xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng giảm. Dữ liệu trích từ Bộ dữ liệu điều tra của

Tổng cục Thống kê tại 162 doanh nghiệp có xuất khẩu đang hoạt động tại Việt Nam được sử dụng để

kiểm định giả thuyết của nghiên cứu. Kết quả kiểm định mô hình hồi quy không tuyến tính Tobit cho biết

rằng, sau khi kiểm soát các yếu tố thuộc đặc điểm của doanh nghiệp, giả thuyết nghiên cứu được ủng hộ

hoàn toàn. Các hàm ý về quản trị cũng được đề nghị trong bài viết này.

pdf 12 trang kimcuc 15840
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam

Mối quan hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam
Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 
Trang 6 
MỐI QUAN HỆ GIỮA KHOẢNG CÁCH VĂN HÓA VÀ XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 
VIỆT NAM 
THE RELATION BETWEEN CULTURAL DISTANCE AND VIETNAMESE ENTERPRISES’ 
EXPORT INTENSITY 
Võ Văn Dứt 
Khoa Kinh tế & Quản trị kinh doanh - Trường Đại học Cần Thơ - Email: vvdut@ctu.edu.vn 
 (Bài nhận ngày 10 tháng 03 năm 2015, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 27 tháng 05 năm 2015) 
TÓM TẮT 
Mục tiêu của bài viết này là nghiên cứu mối quan hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của các 
doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Dựa vào “Lý thuyết chi phí giao dịch” của Hennart (1991), 
nghiên cứu này giả thuyết rằng, khi khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam và các nước nhập khẩu càng 
lớn thì xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng giảm. Dữ liệu trích từ Bộ dữ liệu điều tra của 
Tổng cục Thống kê tại 162 doanh nghiệp có xuất khẩu đang hoạt động tại Việt Nam được sử dụng để 
kiểm định giả thuyết của nghiên cứu. Kết quả kiểm định mô hình hồi quy không tuyến tính Tobit cho biết 
rằng, sau khi kiểm soát các yếu tố thuộc đặc điểm của doanh nghiệp, giả thuyết nghiên cứu được ủng hộ 
hoàn toàn. Các hàm ý về quản trị cũng được đề nghị trong bài viết này. 
Từ khóa: xuất khẩu, doanh nghiệp, khoảng cách văn hóa. 
ABSTRACT 
This paper aims to study the relation between cultural distance and export volume of Vietnamese 
enterprises. Based on Transaction Cost Theory developed by Hennart (1991), the author hypothesizes 
that the further the cultural distance between Vietnam and its import partner, the lower the export 
intensity is. The survey data of Viet Nam Statistics Office on 162 export firms are used to test the 
proposed hypothesis. Empirical results from Tobit non-linear regression indicate that the hypothesis is 
strongly supported after characteristics of enterprises are controlled. Managerial implications are also 
suggested in this paper. 
Key words: export, enterprise, cultural distance. 
1. GIỚI THIỆU 
Chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp là 
lĩnh vực nhận được nhiều sự quan tâm của 
nhiều học giả bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến 
hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp 
(Filatotchev và cộng sự, 2008). Một trong 
những lý thuyết quan trọng để giải thích vấn đề 
này là Lý thuyết chi phí giao dịch được phát 
triển bởi Hennart (1991). Lý thuyết này tập 
trung lý giải nguyên nhân các doanh nghiệp 
phải gánh chịu các chi phí phát sinh khi gia 
nhập thị trường nước ngoài; cụ thể là các chi 
phí doanh nghiệp phải gánh chịu khi xuất khẩu 
sang thị trường nước ngoài. Trên cơ sở nền 
tảng của Lý thuyết chi phí giao dịch, nhiều 
nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp sẽ 
gặp nhiều khó khăn khi thực hiện các chiến 
lược xuất khẩu đến các nước nhập khẩu bởi sự 
khác biệt nhiều yếu tố. Họ cho rằng, để tăng 
cường xuất khẩu sang các nước, doanh nghiệp 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 
Trang 7 
phải gánh chịu nhiều chi phí phát sinh khi thực 
hiện hoạt động xuất khẩu sang các quốc gia nếu 
các quốc gia này có sự khác biệt về phong tục 
tập quán, môi trường kinh doanh, thể chế, 
v.v và những rào cản về văn hóa (Alaoui và 
cộng sự, 2013; Filatotchev và cộng sự, 2008; 
Franco, 2013; Greenaway và cộng sự, 2004). 
Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào vấn 
đề, làm thế nào các doanh nghiệp thực hiện 
những chiến lược hiệu quả nhất để tồn tại và 
vượt qua khó khăn tại nước nhập khẩu. Theo sự 
hiểu biết tốt nhất của nhóm tác giả bài viết này, 
chưa có một nghiên cứu nào tìm hiểu mối quan 
hệ giữa khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của 
các doanh nghiệp sang thị trường nước ngoài. 
Chính vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là 
tìm hiểu ảnh hưởng của khoảng cách văn hóa 
đến xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. 
Cơ sở phân tích của nghiên cứu này dựa 
trên nền tảng Lý thuyết chi phí giao dịch của 
Hennart (1991) để phát triển những lập luận 
liên quan đến mối quan hệ trên. Nghiên cứu 
này sẽ bổ sung những bằng chứng thực nghiệm 
về tác động của khoảng cách văn hóa đến xuất 
khẩu nhằm giúp doanh nghiệp định hướng 
đúng để đẩy mạnh xuất khẩu góp phần tăng 
kim ngạch xuất khẩu cho nước ta. Đây là một 
trong những yếu tố quan trọng giúp một phần 
trong việc cân đối cán cân thanh toán quốc tế 
của nước ta. Phần còn lại của bài viết này được 
cấu trúc như sau: Mục 2 tóm tắt cơ sở lý thuyết 
và phát triển giả thuyết về mối quan hệ giữa 
khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của doanh 
nghiệp cũng như hình thành mô hình nghiên 
cứu; Mục 3 mô tả số liệu được sử dụng và 
phương pháp nghiên cứu; Mục 4 tóm tắt các 
kết quả nghiên cứu; và cuối cùng, kết luận, 
hàm ý và hạn chế của bài viết được trình bày ở 
Mục 5. 
2. LÝ THUYẾT VÀ GIẢ THUYẾT 
Với mức độ toàn cầu hóa gia tăng, các 
doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế quốc 
tế ngày càng nhanh và sâu rộng thông qua thực 
hiện hoạt động giao thương và xuất khẩu với 
nhiều quốc gia trên Thế giới với tốc độ lớn. 
Trước bối cảnh đó, trong điều kiện văn hóa của 
Việt Nam mang nặng truyền thống, phong kiến 
và hệ thống thể chế, pháp lý đang rất chậm 
thích ứng với Thế giới (Phan Đình Quyền, 
2008a, b). Cho nên, các doanh nghiệp Việt 
Nam sẽ tương tác với nhiều quốc gia (không 
phân biệt nước phát triển hay kém phát triển, 
phương Đông hay phương Tây) có sự khác biệt 
về văn hóa ở nhiều mức độ khác nhau là điều 
không thể tránh khỏi. Thậm chí, sự khác biệt 
trong các khía cạnh văn hóa có thể khác biệt 
giữa những nhóm dân cư trong cùng một quốc 
gia, chẳng có hai cá thể nào giống hệt nhau 
(Nguyễn Đình Trọng và Hứa Kiều Phương 
Mai, 2013). Vì vậy, người ta phải nhận thấy 
rằng hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, nên khác biệt 
lớn về văn hóa là hiển nhiên. Dẫu vậy, nền văn 
hóa giữa hai quốc gia hay giữa hai nhóm người 
trong xã hội có mức độ khác biệt là không 
giống nhau. Từ lập luận này, tác giả bài viết 
biện luận rằng, chính sự khác biệt văn hóa sẽ 
quyết định mức độ dễ dàng cho sự tiếp cận thị 
trường để xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt 
Nam. Nguyên nhân cốt lõi cho biện luận này là 
do sự khác biệt về chi phí trong giao dịch của 
doanh nghiệp (Beugelsdijk và Maseland, 
2011). Do vậy, để tìm hiểu mối quan hệ giữa 
khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của 
doanh nghiệp, Lý thuyết chi phí giao dịch 
(transaction cost theory) của Hennart (1991) 
và chiều hướng văn hóa của Hofstede 
(1980) được vận dụng trong bối cảnh Việt 
Nam là hoàn toàn phù hợp (Nguyễn Đình 
Trọng và Hứa Kiều Phương Mai, 2013; 
Nguyễn Thị Ngân Hoa, 2010; Phan Đình 
Quyền, 2008a). Theo Lý thuyết này, khoảng 
cách văn hóa giữa hai quốc gia có mối quan 
hệ với chiến lược xuất khẩu của các doanh 
nghiệp. Điều này hàm ý rằng, sự khác biệt 
về văn hóa có thể tác động đến hoạt động 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 
Trang 8 
xuất khẩu của các doanh nghiệp sang thị 
trường nước ngoài. Khi xuất khẩu sang thị 
trường nước ngoài các doanh nghiệp thường 
gặp các trở ngại do sự khác biệt về văn hóa. 
Đây là một trong những nguyên nhân chính 
làm tăng chi phí quản lý, chi phí chuyển đổi 
những lợi thế của các doanh nghiệp tại thị 
trường nước ngoài (Dunning, 2000; Hennart và 
Park, 1993). Bên cạnh đó, khi thực hiện chiến 
lược xuất khẩu tại thị trường nước ngoài, các 
doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí quản lý rất 
lớn liên quan đến nghiên cứu về văn hóa của 
người tiêu dùng tại quốc gia đó và phải tổ chức 
lại bộ máy kinh doanh cho phù hợp với đặc 
điểm của quốc gia họ muốn xuất khẩu. Do vậy, 
khi thực hiện xuất khẩu sang quốc gia có nền 
văn hóa quá khác biệt thì doanh nghiệp gặp 
nhiều cản trở. Lý thuyết chi phí giao dịch của 
Hennart (1991) được vận dụng trong nghiên 
cứu này là phù hợp bởi vì khi doanh nghiệp 
Việt Nam - trong bắt đầu xuất khẩu sang nhiều 
thị trường khác nhau. 
Từ những quan điểm của Lý thuyết chi 
phí giao dịch (Hennart, 1991) ở trên, tác giả 
bài viết này lập luận rằng: Khi khoảng cách 
văn hóa giữa Việt Nam và các nước nhập 
khẩu càng lớn thì xuất khẩu của các doanh 
nghiệp Việt Nam sang các quốc gia này 
càng thấp bởi chi phí giao dịch phát sinh. 
Nghĩa là, xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt 
Nam sẽ giảm khi khoảng cách văn hóa giữa hai 
nước càng lớn. Hai lý do được giải thích cho 
lập luận này: Thứ nhất, mỗi quốc gia đều có 
những nét văn hóa riêng biệt, nên khi xuất 
khẩu sang thị trường nước ngoài, các doanh 
nghiệp xuất khẩu thường gặp trở ngại sự 
khác biệt về văn hóa giữa hai quốc gia 
(Beugelsdijk và Maseland, 2011). Chính sự 
khác biệt về văn hóa là nguyên nhân tăng 
chi phí quản lý, chi phí tiếp cận thị trường 
của doanh nghiệp tại nước nhập khẩu 
(Hennart, 1993); Thứ hai, khoảng cách văn 
hóa lớn cũng chính là nguyên nhân dẫn đến 
việc đàm phán giữa hai bên bị cản trở do những 
suy nghĩ và quan điểm khác nhau về văn hóa 
(Slangen và cộng sự, 2011). Khi khoảng cách 
văn hóa giữa hai nước càng lớn thì việc hợp tác 
với các hệ thống phân phối tại nước nhập khẩu 
trở nên khó khăn hơn. Hai lý do giải thích cho 
lập luận này: Một là, về phía nhà phân phối, họ 
không nắm rõ về đặc điểm văn hóa, phong cách 
làm việc, v.v của những doanh nghiệp này 
như thế nào? Bởi vì, một mặt các doanh nghiệp 
xuất khẩu có thể giúp nhà phân phối tăng lợi 
nhuận, mặt khác cũng có thể sẽ lấn át và chi 
phối nhà phân phối bất cứ lúc nào nên nhà phân 
phối không thể mạo hiểm hợp tác trừ khi đã 
biết rõ và có điểm tương đồng về văn hóa với 
những doanh nghiệp này (giả sử các yếu tố 
khác không thay đổi); Hai là, về phía doanh 
nghiệp xuất khẩu, họ cũng không thể mạo hiểm 
hợp tác với những đối tác ở nước nhập khẩu 
trong trường hợp chưa hợp tác trước đây hoặc 
chưa hiểu rõ về nền văn hóa bản địa. Bởi họ 
ngại rủi ro trong quá trình thanh toán hợp đồng, 
thực hiện điều khoản hợp đồng và thủ tục giao 
nhận hàng hóa, v.v (Beugelsdijk và 
Maseland, 2011). Hai lý do trên dẫn đến chi 
phí cho hoạt động xuất khẩu sang nước 
nhập khẩu tăng khi quốc gia nhập khẩu có 
sự khác biệt văn hóa quá lớn so với Việt 
Nam. Tóm lại, khoảng cách văn hóa giữa hai 
quốc gia (Việt Nam và nước nhập khẩu) càng 
lớn làm cản trở những hoạt động xuất khẩu của 
các doanh nghiệp Việt Nam bởi chi phí giao 
dịch tăng. Do đó, bài viết này đề nghị giả 
thuyết như sau: 
Giả thuyết: Khoảng cách văn hóa giữa 
Việt Nam và nước nhập khẩu càng lớn thì xuất 
khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu càng 
thấp. 
Từ các lập luận trên, mô hình nghiên cứu 
được tổng hợp trong Hình 1: 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 
Trang 9 
Hình 1. Mô hình nghiên cứu 
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1. Dữ liệu 
Để kiểm định giả thuyết trên, bài viết này 
sử dụng số liệu từ hai nguồn. Nguồn thứ nhất là 
Bộ dữ liệu từ Tổng cục Thống kê điều tra 
doanh nghiệp từ tháng 06 năm 2009 đến tháng 
01 năm 2010. Bộ dữ liệu này là một phần phục 
vụ cho cuộc điều tra doanh nghiệp khu vực 
Đông Á và Thái Bình Dương năm 2009 của 
Ngân hàng thế giới. Tổng thể điều tra bao gồm 
tất cả các ngành sản xuất phi nông nghiệp theo 
phân loại nhóm của ISIC Revision 3.1: (nhóm 
D), lĩnh vực xây dựng (nhóm F), khu vực dịch 
vụ (nhóm G và H) và lĩnh vực giao thông vận 
tải, lưu trữ và truyền thông (nhóm I). Định 
nghĩa này không bao gồm các lĩnh vực sau: 
trung gian tài chính (nhóm J), bất động sản và 
hoạt động cho thuê bất động sản (nhóm K, 
ngoại trừ nhóm ngành 72, công nghệ truyền 
thông, được thêm vào tổng thể nghiên cứu) và 
tất cả các lĩnh vực công. Trong đó, lĩnh vực sản 
xuất bao gồm 5 nhóm, mỗi lĩnh vực phỏng vấn 
từ 120 đến 145 doanh nghiệp. Tổng số là 1.053 
doanh nghiệp được điều tra, trong số này, 
nhóm ngành sản xuất thực phẩm, dệt may và 
may mặc được khảo sát cao nhất (chiếm 
52,86% tổng thể điều tra). Quy mô doanh 
nghiệp phân thành 3 nhóm: doanh nghiệp nhỏ 
có từ 5 đến 19 lao động, doanh nghiệp vừa có 
từ 20 đến 99 lao động và doanh nghiệp lớn có 
hơn 99 lao động (nhân viên làm việc toàn thời 
gian). Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài được khảo sát bao gồm 14 tỉnh trong 5 
khu vực: Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Hà 
Tây, Hải Dương và Hải Phòng), Bắc Trung Bộ 
(Thanh Hóa và Nghệ An), Đồng bằng sông 
Cửu Long (Cần Thơ, Long An và Tiền Giang), 
Nam Trung Bộ (Khánh Hòa và Đà Nẵng) và 
Đông Nam Bộ (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình 
Dương và Đồng Nai). 
Trong khuôn khổ bài viết này, đối tượng 
nghiên cứu là doanh nghiệp có tham gia hoạt 
động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài (có 
doanh thu xuất khẩu) đang hoạt động tại Việt 
Nam. Trong số doanh nghiệp được điều tra, có 
162 doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu và 
đảm bảo đầy đủ các thông tin phục vụ cho mục 
tiêu của nghiên cứu này, nên tổng số quan sát 
được sử dụng trong nghiên cứu này là 162. 
Trong số 162 doanh nghiệp xuất khẩu, có 58 
doanh nghiệp thuộc ngành thực phẩm (chiếm tỷ 
lệ 35,81%), 54 doanh nghiệp thuộc ngành vải, 
dệt (chiếm 33,33%), 32 doanh nghiệp thuộc 
ngành may mặc quần áo (chiếm tỷ lệ 19,75%), 
18 doanh nghiệp gia công chế tạo và kim loại 
(chiếm tỷ lệ 11,11%). Kiểm định t cho thấy 
không có sự khác biệt giữa các ngành (p = 
0,256 < 0,1). Các doanh nghiệp này xuất khẩu 
sang 29 quốc gia khác nhau trên Thế giới. 
Thông tin này cho phép tác giả của bài viết xác 
định được khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam 
và 29 quốc gia nhập khẩu. 
Nguồn dữ liệu thứ hai là dữ liệu thứ cấp từ 
website của Hofstede (1980) - Nhà nghiên cứu 
về xã hội học nổi tiếng trên Thế giới. Trang 
web của Hofstede cung cấp các chiều hướng 
văn hóa của các quốc gia1. Dựa vào trang web 
này, số liệu về sáu chiều hướng văn hóa của 
Việt Nam và 29 quốc gia nhập khẩu được thu 
thập và tổng hợp. 
1  
Khoảng cách văn hóa giữa Việt 
Nam và các nước nhập khẩu 
Xuất khẩu của 
doanh nghiệp Việt 
Nam 
Các yếu tố 
khác 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 
Trang 10 
3.2. Định nghĩa và đo lường các biến trong 
mô hình nghiên cứu 
Thông tin từ bộ dữ liệu điều tra của Tổng 
Cục Thống kê và dữ liệu thứ cấp cho phép 
nghiên cứu này đo lường các biến trong mô 
hình nghiên cứu như sau: 
Biến phụ thuộc là xuất khẩu của doanh 
nghiệp Việt Nam (Y) được đo lường bằng tỷ lệ 
doanh thu từ hoạt động xuất khẩu trên tổng 
doanh thu của doanh nghiệp, giá trị biến động 
từ 0 đến 100%. Giá trị càng lớn thể hiện doanh 
nghiệp có doanh thu từ xuất khẩu càng cao. 
Biến độc lập khoảng cách văn hóa (X1) là 
khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam và các 
nước nhập khẩu. Văn hóa được định nghĩa là 
“một chương trình điều khiển hoạt động nhận 
thức và lý giải của con người, đươc hình thành 
từ cộng đồng, giúp cho chúng ta có thể phân 
biệt được thành viên của một nhóm này với 
nhóm khác” (Hofstede, 1980: 21). Biến này 
được đo lường bởi sự khác biệt về văn hóa giữa 
Việt Nam và nước nhập khẩu, sự khác biệt này 
được xác định dựa trên 6 khía cạnh về văn hóa 
của Hofstede (1980), đó là: 
- Quyền lực (Power): thể hiện mức độ các 
thành viên của tổ chức ít quyền lực hơn, 
cũng thể hiện sự phân phối quyền lực 
không công bằng trong một xã hội. 
- Chủ nghĩa cá nhân (Individualism): mô 
tả mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể 
phổ biến trong một quốc gia, thể hiện 
mức độ cá nhân trong xã hội chú trọng 
vào họ hơn các thành viên khác trong xã 
hội đó (thường là gia đình). 
- Nam quyền (Masculinity): c ... h hồi quy. Đặc 
điểm các biến độc lập và các biến kiếm soát 
trong mô hình nghiên cứu được tổng hợp trong 
Bảng 1. 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 
Trang 12 
Bảng 1. Tổng hợp các yếu tố tác động đến xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam 
KÝ 
HIỆU 
DIỄN GIẢI PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG KỲ VỌNG 
X1 Khoảng cách văn hóa Sử dụng 6 khía cạnh văn hóa của Hofstede 
(1980) và phương pháp của Kogut và Singh 
(1988) để tính khoảng cách văn hóa giữa 
Việt Nam và các nước nhập khẩu 
X2 Giới tính của nhà quản lý Đo lường bằng biến giả: giá trị 1 nếu người 
quản lý là nam, 0 là nữ 
+ 
X3 Kinh nghiệm quốc tế của 
nhà quản lý 
Đo lường bởi số năm tham gia hoạt động 
xuất khẩu ở nước ngoài của người quản lý 
tính đến năm 2009 
+ 
X4 Quy mô của doanh nghiệp Đo lường bởi giá trị logarit tự nhiên của số 
lượng nhân viên đang làm việc tại doanh 
nghiệp 
+ 
X5 Năm hoạt động của doanh 
nghiệp 
Đo lường bằng số năm từ khi thành lập đến 
năm 2009 
+ 
X6 Nghiên cứu và phát triển 
của doanh nghiệp 
Đo lường bằng tỷ lệ phần trăm giữa chi phí 
bỏ ra để thực hiện nghiên cứu và phát triển 
trên tổng doanh thu của doanh nghiệp 
+ 
Nguồn: Tổng hợp từ tác giả 
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
4.1. Mô tả thống kê và ma trận tương 
quan 
Bảng 2 biểu diễn giá trị trung bình, độ lệch 
chuẩn, hệ số phóng đại phương sai (Variance 
inflation factor - VIF) và mối tương quan giữa 
các biến trong mô hình nghiên cứu. Kết quả 
phân tích ma trận tương quan ở Bảng 2 cho 
thấy hệ số tương quan giữa các biến độc lập 
đều thấp (< 0,8). Hệ số tương quan cao nhất -
0,16 là mối tương quan giữa quy mô của doanh 
nghiệp và kinh nghiệm quốc tế của nhà quản 
lý. Kết quả kiểm định cho thấy rằng, tất cả các 
biến đều có giá trị VIF dưới giá trị ngưỡng 
10,0. Vì vậy, không xảy ra hiện tượng đa cộng 
tuyến (multicollinearity) khi xem xét tất cả các 
biến này đồng thời trong một mô hình nghiên 
cứu (Hair và cộng sự, 2006). Điều này có nghĩa 
rằng, không làm cho giá trị ước lượng các biến 
số trong mô hình nghiên cứu bị chệch 
(unbiased estimation). 
Đối với mối quan hệ giữa các biến độc lập 
và biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu. 
Giới tính của nhà quản lý có mối tương quan 
thuận với xuất khẩu của doanh nghiệp là 0,08. 
Trong khi đó, kinh nghiệm của nhà quản lý 
doanh nghiệp có mối tương quan nghịch với 
mức độ xuất khẩu với hệ số tương quan là -
0,04. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 
Trang 13 
Bảng 2. Trung bình, độ lệch chuẩn và ma trận tương quan của các yếu tố trong mô hình nghiên 
cứu (n = 162) 
VIF 
TRUNG 
BÌNH 
ĐỘ 
LỆCH 
CHUẨN 
1 2 3 4 5 6 
1 Xuất khẩu của DN(%) 1,02 60,84 37,93 
2 Khoảng cách văn hóa 1,23 1,94 0,89** 0,17 
3 Quy mô của DN 1,11 4,46 4,21* 0,19 0,04 
4 Năm hoạt động của 
DN 1,05 2,06 0,58 -0,10 -0,07 0,00 
5 Nghiên cứu và phát 
triển (R&D) 1,78 6,85 6,32* 0,44 0,02 0,04 0,04 
6 Giới tính của người 
quản lý 1,17 0,24 0,43 0,08** -0,09 0,03 -0,03 -0,01 
7 Kinh nghiệm quốc tế 
của nhà quản lý 1,21 19,07 9,22 -0,04* -0,02 -0,16 0,07* 0,05 -0,04 
* và ** lần lượt biểu thị giá trị mức ý nghĩa thống kê tại 5% và 1% 
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ Stata 
4.2. Kết quả và thảo luận 
Kết quả ước lượng mô hình hồi quy không 
tuyến tính Tobit về mối quan hệ giữa khoảng 
cách văn hóa và xuất khẩu của các doanh 
nghiệp Việt Nam được trình bày trong Bảng 3. 
Mô hình 1 cho biết ảnh hưởng của các yếu tố 
kiểm soát đến xuất khẩu của doanh nghiệp. 
Pseudo R
2
 ở Mô hình 1 là 0,081 và giá trị log 
likelihood là -1041,06. Bên cạnh đó, giá trị p là 
0,000, tức là mô hình này có ý nghĩa thống kê 
tại 1%. Kết quả ước lượng cho thấy rằng, giới 
tính của người quản lý và xuất khẩu của doanh 
nghiệp có mối quan hệ đồng biến tại mức ý 
nghĩa thống kê 5% (β2 = 5,60; p < 0,05). Nghĩa 
là nếu người quản lý của doanh nghiệp là nam 
giới thì phần trăm doanh thu từ hoạt động xuất 
khẩu trong tổng doanh thu của doanh nghiệp sẽ 
càng cao. Kết quả ước lượng cũng cho biết, 
nghiên cứu và phát triển (R&D) của doanh 
nghiệp có mối tương quan thuận với xuất khẩu 
của doanh nghiệp tại mức ý nghĩa thống kê tại 
1% (β6 = 2,58; p < 0,01). Kết quả này ngụ ý 
rằng, khi phần trăm doanh thu dành cho hoạt 
động nghiên cứu và phát triển càng nhiều góp 
phần tăng tỷ lệ doanh thu xuất khẩu trong tổng 
doanh thu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quy 
mô của doanh nghiệp càng lớn thì xuất khẩu 
của nó cũng càng cao bởi hệ số ước lượng của 
quy mô có mức ý nghĩa thống kê tại 5% (β4 = 
0,01; p < 0,05). Trong khi đó, các yếu tố kiểm 
soát khác bao gồm: kinh nghiệm quốc tế của 
người quản lý và năm hoạt động của doanh 
nghiệp không ảnh hưởng đến xuất khẩu của 
doanh nghiệp vì hệ số ước lượng của các yếu tố 
này không có ý nghĩa về mặt thống kê (p > 
0,1). 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 
Trang 14 
Bảng 3. Kết quả mô hình Tobit các yếu tố tác động lên xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam 
MÔ HÌNH 1 MÔ HÌNH 2 TÁC ĐỘNG 
BIÊN 
 Hệ số 
Sai số 
chuẩn Hệ số 
Sai số 
chuẩn Hệ số 
Sai số 
chuẩn 
Hằng số 44,09** 11,84 45,72** 13,71 
BIẾN ĐỘC LẬP 
Khoảng cách văn hóa (X1) -7,67** 2,77 -6,54** 2,73 
CÁC BIẾN KIỂM SOÁT 
Giới tính của người quản lý (X2) 5,60* 3,05 6,86* 3,67 5,26* 3,10 
Kinh nghiệm quốc tế của người quản lý (X3) 0,28 0,22 0,25 0,20 0,27 0,21 
Quy mô của doanh nghiệp (X4) 0,01* 0,006 0,01* 0,006 0,01* 0,006 
Năm hoạt động của doanh nghiệp (X5) 4,30 3,58 3,74 3,61 3,85 3,49 
R&D của doanh nghiệp (X6) 2,58** 1,32 2,59** 1,34 1,22** 0,65 
Log likelihood -1041,06 -1022,01 
Pseudo R
2
 0,081 0,093 
 N 162 162 
Giá trị p 0,000 0,000 
* và ** lần lượt biểu diễn các mức ý nghĩa thống kê ở mức 5% và 1% 
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ Stata 
Kết quả ở Mô hình 2 cho biết kết quả ước 
lượng tác động của biến độc lập cùng với các 
biến kiểm soát ở mô hình 1 đến xuất khẩu của 
doanh nghiệp Việt Nam. Ở Mô hình 2, Pseudo 
R
2
 tăng khi xem xét biến độc (khoảng cách văn 
hóa) với các biến kiểm soát, Pseudo R2 của mô 
hình 2 là 0,093. Ngoài ra, giá trị log likelihood 
ở Mô hình 2 cũng tăng từ -1041,06 lên -
1022,01 ở Mô hình 2. Các giá trị này hàm ý 
rằng, khi xem xét tác động của biến độc lập đến 
xuất khẩu của doanh nghiệp cùng với các yếu 
tố kiểm soát, kết quả ước lượng sẽ giải thích tốt 
hơn so với mô hình 1 vì log likelihood ở Mô 
hình 2 đều tăng đáng kể so với Mô hình 1. Kết 
quả tác động của khoảng cách văn hóa và các 
yếu tố kiểm soát đến xuất khẩu của doanh 
nghiệp trong Mô hình 2 - Bảng 3 được phân 
tích chi tiết như sau: 
Khoảng cách văn hóa: Kết quả ở Mô hình 
2 chỉ ra rằng, khoảng cách văn hóa có mối quan 
hệ nghịch biến với xuất khẩu của doanh nghiệp 
Việt Nam tại mức ý nghĩa thống kê 1% (β1 = -
7,67, p < 0,01). Kết quả này được giải thích 
rằng, trong môi trường hội nhập càng sâu, văn 
hóa trở nên đa dạng và hài hòa trong một 
không gian rộng - không gian toàn cầu. Khi các 
doanh nghiệp của nước ta xuất khẩu sang các 
quốc gia có nền văn hóa khác biệt càng lớn thì 
doanh nghiệp rất khó tiếp cận với khách hàng ở 
các quốc gia đó. Điều này làm cản trở hoạt 
động xuất khẩu, dẫn đến doanh thu xuất khẩu 
giảm. Cột cuối cùng của Bảng 3 cho biết tác 
động biên của khoảng cách văn hóa và các yếu 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 
Trang 15 
tố kiểm soát đến xuất khẩu của doanh nghiệp 
Việt Nam. Tác động trung bình của khoảng 
cách văn hóa đến xuất khẩu là -6,54, có nghĩa 
là khi chỉ số khoảng cách văn hóa giữa Việt 
Nam và các nước nhập khẩu tăng lên 1 đơn vị 
thì xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm đi 6,54 
đơn vị. Kết quả này đúng với kỳ vọng của Giả 
thuyết nghiên cứu đặt ra, đó là khoảng cách văn 
hóa giữa Việt Nam và các nước nhập khẩu 
càng lớn thì xuất khẩu của họ càng giảm. Đây 
là bằng chứng thực nghiệm để minh chứng cho 
giả thuyết đã phát triển được dựa trên nền tảng 
của Lý thuyết chi phí giao dịch của Hennart 
(1991) về mối quan hệ nghịch biến giữa 
khoảng cách văn hóa và xuất khẩu của doanh 
nghiệp. Chính vì vậy, Giả thuyết của nghiên 
cứu được ủng hộ hoàn toàn cả về mặt lý thuyết 
và thực tiễn. 
Các biến kiểm soát: Kết quả ở Mô hình 2 
trong Bảng 3 cho biết tác động của các biến 
kiểm soát đến xuất khẩu của doanh nghiệp 
không có sự khác biệt so với kết quả ước lượng 
ở Mô hình 1 cả về dấu ảnh hưởng và mức ý 
nghĩa thống kê. Cụ thể: 
- Giới tính của người quản lý (X2): Mô hình 
2 ở Bảng 3 tiếp tục cho thấy rằng, giới tính của 
người quản lý có mối tương quan thuận với 
xuất khẩu của doanh nghiệp tại mức ý nghĩa 
thống kê 5% (β2 = 6,86; p < 0,05). Giá trị tác 
động biên của yếu tố này đến xuất khẩu là 5,26. 
Kết quả này có nghĩa là, doanh nghiệp với 
người quản lý là nam thì khả năng xuất khẩu sẽ 
cao hơn so với doanh nghiệp có người quản lý 
nữa là 5,26%. 
- Nghiên cứu và phát triển (R&D) của 
doanh nghiệp (X6): Kết quả ở Mô hình 2 cho 
biết rằng, tác động R&D của doanh nghiệp đến 
xuất khẩu của doanh nghiệp là không thay đổi 
so với Mô hình 1. Cụ thể, R&D và xuất khẩu 
của doanh nghiệp có mối tương quan thuận tại 
mức ý nghĩa thống kê tại 1% (β6 = 2,59; p < 
0,01). Hệ số tác động biên của R&D là 1,22. 
Giá trị này có nghĩa rằng, khi phần trăm doanh 
thu dành cho hoạt động nghiên cứu và phát 
triển tăng lên 1% thì xuất khẩu tăng lên 1,22%. 
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với tranh luận 
của Estrin và cộng sự (2008). 
- Quy mô của doanh nghiệp (X4): Tương tự 
kết quả Mô hình 1, quy mô của doanh nghiệp 
có mối tương quan thuận với xuất khẩu tại mức 
ý nghĩa là 5% (β4 = 0,01; p < 0,05). Tác động 
biên của quy mô doanh nghiệp đến xuất khẩu là 
0,01, có nghĩa là khi quy mô doanh nghiệp tăng 
lên 1 đơn vị thì xuất khẩu tăng lên 0,01%. Kết 
quả này tương tự như kết luận của Filatotchev 
và cộng sự (2008). 
- Năm hoạt động của doanh nghiệp (X3) và 
kinh nghiêp quốc tế của người quản lý (X5): 
Mô hình 2 cũng cho thấy, hai yếu này không 
ảnh hưởng đến xuất khẩu của doanh nghiệp vì 
không có ý nghĩa về mặt thống kê (β3 = 0,25, p 
> 0,1; β5 = 3,74, p > 0,1). 
5. KẾT LUẬN, HÀM Ý VÀ HẠN CHẾ CỦA 
BÀI VIẾT 
Nghiên cứu này sử dụng Lý thuyết chi phí 
giao dịch của Hennart (1991) để phát triển giả 
thuyết về mối quan hệ giữa khoảng cách văn 
hóa và xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu 
Việt Nam. Kết quả kiểm định hồi quy không 
tuyến tính Tobit tại 162 doanh nghiệp xuất 
khẩu đang hoạt động tại Việt Nam cho biết 
rằng, khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam và 
các nước nhập khẩu càng lớn thì xuất khẩu của 
doanh nghiệp Việt Nam sẽ giảm sau khi kiểm 
soát các yếu tố thuộc đặc điểm của doanh 
nghiệp. Kết quả này ngầm định rằng, để tăng 
cường xuất khẩu sang các quốc gia có nền văn 
hóa khác biệt so với nước ta, những doanh 
nghiệp xuất khẩu cần nghiên cứu thật kỹ về văn 
hóa của quốc gia đó để hiểu rõ hơn về nhu cầu 
của người tiêu dùng, môi trường kinh doanh, 
những phong tục tập quán của từng vùng, miền 
mà họ dự định xuất khẩu. Từ đó, có thể điều 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 
Trang 16 
chỉnh chiến lược xuất khẩu phù hợp và vận 
dụng phương pháp đàm phán hợp đồng xuất 
khẩu với đối tác hợp lý hơn, giảm tối đa những 
rủi ro tiềm ẩn có thể phát sinh và góp phần tăng 
cường xuất khẩu. 
Tuy nhiên, xuất khẩu của doanh nghiệp có 
thể tăng hoặc giảm qua từng giai đoạn, từng 
thời kỳ, nghiên cứu này chưa bắt kịp được sự 
thay đổi đó theo thời gian. Do vậy, các nghiên 
cứu tiếp theo trong tương lai nên nghiên cứu 
vấn đề này với kiểu dữ liệu chuỗi thời gian 
(time series) hay dữ liệu bảng (panel data) để 
những hàm ý về chính sách và lý thuyết được 
phát triển nhằm phục vụ cho hoạt động xuất 
khẩu hiệu quả và làm nền tảng cho các nghiên 
cứu kế tiếp thuộc lĩnh vực kinh doanh quốc tế. 
Bên cạnh đó, khi xuất khẩu sang các quốc gia 
có nền kinh tế đang phát triển, văn hóa có thể 
thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế. Bài 
viết chưa bắt kịp sự thay đổi này trong phân 
tích. Những nghiên cứu kế tiếp có thể xem xét 
sự thay đổi đó ảnh hưởng như thế nào đến xuất 
khẩu của doanh nghiệp để những hàm ý về 
quản trị được đề nghị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Alaoui, A., and Makrini, H. E. Small firms in a small country: International experience of 
managers and export performance. Journal of WEI Business and Economics, 2, 14 (2013). 
[2]. Beugelsdijk, S. and Maseland, R. Culture in Economics: history, methodological reflections 
and contemporary applications, Cambridge University Press, London, (2011). 
[3]. Dunning, J.H. The eclectic paradigm as an envelope foreconomic and business theories of 
MNE. International Business Review, 9, 163 (2000). 
[4]. Estrin, S., Meyer, K.E., Wright, M. và Foliano. F. Export propensity and intensity of 
subsidiaries in emerging economies. International Business Review, 17, 574 (2008). 
[5]. Filatotchev, I., Stephan, J., và Jindra, B. Ownership structure, strategic controls and exporting 
of foreign-invested firms in transition economies. Journal of International Business 
Studies, 39, 1133 (2008). 
[6]. Franco, C. Exports and FDI motivations: Empirical evidience from U.S. foreign subsidiaries. 
International Business Review, 22, 47 (2013). 
[7]. Greenaway, D., Sousa, N. and Wakelin, K. Do domestic firms learn to export from 
multinationals? European Journal of Political Economy, 20, 1027 (2004). 
[8]. Hair, J.F., Black, W.C., Babin, B.J., Anderson, R.E. and Tatham, R.L., Multivariate Data 
Analysis, Pearson Prentice Hall, Upper Saddle River, NJ, (2006). 
[9]. Hennart, J.-F. The transaction costs theory of joint ventures: An empirical study of Japanese 
subsidiaries in the United States. Management Science, 37, 483 (1991). 
[10]. Hennart, J.-F., and Park, Y.R. Greenfield vs. acquisition: The strategy of Japanese investors in 
the United States. Management Science, 39, 1054 (1993). 
[11]. Hennart, J-F. Down with MNE-centric theories! Market entry and expansion as the bundling of 
the MNE and local assets. Journal of International Business Studies, 40, 1432 (2009). 
[12]. Hofstede, G. H. Culture consequences: International Differences in Work-Related Value. 
London: Sage Publications (1980). 
[13]. Kogut, B. and Singh, H. The effect of national culture on the choice of entry mode. Journal of 
International Business studies, 19, 411 (1988). 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 
Trang 17 
[14]. Nguyễn Đình Trọng và Hứa Kiều Phương Mai. Văn hóa cấp cá nhân và hành vi: Một mô hình 
văn hóa ảnh hưởng trực tiếp lên ý định mua thuốc không toa tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển 
Khoa học và công nghệ, 16, 78 (2013). 
[15]. Nguyễn Thị Ngân Hoa. Các hành vi tìm kiếm sự chữa trị bệnh của người dân nông thôn vùng 
Tây Nam Bộ. Tạp chí Khoa học Xã hội, 10, 146 (2010). 
[16]. Phan Đình Quyền. Những loại hình cơ bản của văn hóa doanh nghiệp. Tạp chí văn hóa doanh 
nhân Việt Nam, số 4 và 5 (2008a). 
[17]. Phan Đình Quyền. Văn hóa doanh nghiệp: động lực cạnh tranh bền vững. Tạp chí văn hóa 
doanh nhân Việt Nam, số xuân Mậu Tý (2008b). 
[18]. Slangen, A.H.L., Beugelsdijk, S., and Hennart, J.F. The impact of cultural distance on bilateral 
arm’s length exports: An international business perspective. Management International 
Review, 51, 875 (2011). 

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_khoang_cach_van_hoa_va_xuat_khau_cua_doanh.pdf