Mối quan hệ giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công dân ở Việ

Giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công

dân có những nét tương đồng. Điều đó thể

hiện cụ thể ở chỗ, bất cứ ai (dù thuộc giai

cấp, tầng lớp nào, dù giữ chức vụ gì) cũng

đều là công dân. Mọi người sinh sống trong

một quốc gia đều có quyền và trách nhiệm

công dân theo quy định được ghi nhận

trong hiến pháp và pháp luật của quốc gia

đó. Đảng viên (đảng viên Đảng Cộng sản

Việt Nam) cũng không phải là ngoại lệ, bởi

vì đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

cũng là một công dân Việt Nam, có tất cả

quyền và trách nhiệm của một người công

dân Việt Nam, trong đó có trách nhiệm phải

thi hành nghĩa vụ đạo đức của một người

công dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là

nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân

dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm

chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận

công dân, giữ đúng đạo đức công dân” 5.

Tuy cùng thực hiện đạo đức công dân,

nhưng đảng viên và công dân bình thường

(không phải đảng viên) vẫn có sự khác biệt.

Điều đó thể hiện ở những điểm sau.

Một là, yêu cầu về chuẩn mực đạo đức

đối với đảng viên cao hơn so với công dân

bình thường. Đối với chuẩn mực đạo đức

của con người mới Việt Nam xã hội chủ

nghĩa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trời có

bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/ Đất có bốn

phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/ Người có

bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/ Thiếu

một mùa, thì không thành trời/Thiếu một

phương, thì không thành đất/ Thiếu một

đức, thì không thành người”. Trong đó, cần

tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo

dai; kiệm tức là tiết kiệm, không xa xỉ,

không hoang phí, không bừa bãi; liêm tức

là trong sạch, không tham lam; chính nghĩa

là không tà, nghĩa là ngay thẳng, đứng đắn

1, t.5, tr.632-643.

pdf 7 trang kimcuc 5000
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công dân ở Việ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công dân ở Việ

Mối quan hệ giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công dân ở Việ
 10
Mối quan hệ giữa đạo đức đảng viên 
và đạo đức công dân ở Việt Nam 
Trần Văn Phòng1, Hoàng Thu Trang1 
1 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
Email: tvphong61@gmail.com 
Nhận ngày 2 tháng 10 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 12 năm 2017. 
Tóm tắt: Ở Việt Nam, đạo đức đảng viên và đạo đức công dân có sự khác biệt. Bởi vì, yêu cầu về 
chuẩn mực đạo đức đối với đảng viên cao hơn so với công dân bình thường; một số chuẩn mực đạo 
đức buộc phải có đối với đảng viên nhưng không bắt buộc đối với công dân bình thường. Tuy 
nhiên, đạo đức đảng viên và đạo đức công dân có sự tương tác lẫn nhau ở chỗ, đạo đức công dân 
càng hoàn thiện thì đạo đức đảng viên càng được nâng cao, ngược lại, đạo đức đảng viên càng 
được nâng cao thì đạo đức công dân càng tiến tới sự hoàn thiện hơn. 
Từ khóa: Đạo đức, đảng viên, công dân, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: In Vietnam, there exist differences between the Party members’ revolutionary ethics and 
the citizen’s ethics, as the requirements in terms of ethical standards for the former are higher than 
those for the latter. A number of ethical standards are required of Party members but not mandatory 
for ordinary citizens. However, the revolutionary ethics of the former and the ethics of the latter 
interact with each other: the higher the ethics of the citizen, the more elevated the revolutionary 
ethics, and vice versa, the more and more elevated revolutionary ethics brings the citizen’s ethics 
closer and closer to perfection. 
Keywords: Revolutionary ethics, Party members, citizens, Vietnam. 
Subject classification: Philosophy 
1. Giới thiệu 
Thực trạng xuống cấp nghiêm trọng về đạo 
đức ở nước ta hiện nay đã khiến cho vấn đề 
đạo đức trở thành một trong những lĩnh vực 
được nhiều người quan tâm, nghiên cứu, 
bàn luận. Khi bàn về đạo đức, người ta 
thường bàn đến đạo đức công dân, đạo đức 
Trần Văn Phòng, Hoàng Thu Trang 
 11
cán bộ, đạo đức đảng viên, đạo đức nhà 
báo, đạo đức thầy thuốc Trong các loại 
đạo đức đó, đạo đức công dân (đạo đức của 
công dân) là đạo đức của mọi người, đạo 
đức đảng viên (đạo đức của đảng viên, đạo 
đức cách mạng của đảng viên) là đạo đức 
của một tầng lớp cụ thể trong xã hội, hơn 
nữa là đạo đức của tầng lớp tiên phong 
trong xã hội. Vậy, giữa đạo đức công dân 
và đạo đức đảng viên có sự tương tác với 
nhau như thế nào, điểm giống và khác biệt 
của chúng là gì? Trả lời câu hỏi này sẽ góp 
phần lý giải lý do tại sao đạo đức đảng viên 
thường được đề cao và việc nâng cao đạo 
đức đảng viên lại trở thành một trong 
những giải pháp quan trọng nhằm khắc 
phục sự xuống cấp đạo đức của toàn xã hội 
nói chung. 
2. Sự tương đồng và khác biệt giữa đạo 
đức đảng viên và đạo đức công dân 
Giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công 
dân có những nét tương đồng. Điều đó thể 
hiện cụ thể ở chỗ, bất cứ ai (dù thuộc giai 
cấp, tầng lớp nào, dù giữ chức vụ gì) cũng 
đều là công dân. Mọi người sinh sống trong 
một quốc gia đều có quyền và trách nhiệm 
công dân theo quy định được ghi nhận 
trong hiến pháp và pháp luật của quốc gia 
đó. Đảng viên (đảng viên Đảng Cộng sản 
Việt Nam) cũng không phải là ngoại lệ, bởi 
vì đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 
cũng là một công dân Việt Nam, có tất cả 
quyền và trách nhiệm của một người công 
dân Việt Nam, trong đó có trách nhiệm phải 
thi hành nghĩa vụ đạo đức của một người 
công dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là 
nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân 
dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm 
chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận 
công dân, giữ đúng đạo đức công dân” 5. 
Tuy cùng thực hiện đạo đức công dân, 
nhưng đảng viên và công dân bình thường 
(không phải đảng viên) vẫn có sự khác biệt. 
Điều đó thể hiện ở những điểm sau. 
Một là, yêu cầu về chuẩn mực đạo đức 
đối với đảng viên cao hơn so với công dân 
bình thường. Đối với chuẩn mực đạo đức 
của con người mới Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trời có 
bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/ Đất có bốn 
phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/ Người có 
bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/ Thiếu 
một mùa, thì không thành trời/Thiếu một 
phương, thì không thành đất/ Thiếu một 
đức, thì không thành người”. Trong đó, cần 
tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo 
dai; kiệm tức là tiết kiệm, không xa xỉ, 
không hoang phí, không bừa bãi; liêm tức 
là trong sạch, không tham lam; chính nghĩa 
là không tà, nghĩa là ngay thẳng, đứng đắn 
1, t.5, tr.632-643. Cần, kiệm, liêm, chính 
rõ ràng là những chuẩn mực đạo đức mang 
tính phổ quát mà bất cứ ai cũng cần phải có 
cho dù là công dân bình thường hay là đảng 
viên. Muốn tạo dựng cuộc sống ấm no, tốt 
đẹp, hạnh phúc cho bản thân và gia đình thì 
ai ai cũng cần phải siêng năng, chăm chỉ, cố 
gắng trong lao động và phải tiết kiệm, 
không tiêu xài phung phí, bừa bãi. Cần mà 
không kiệm thì “làm chừng nào xào chừng 
ấy”; còn kiệm mà không cần thì không tăng 
thêm, không phát triển được. Không những 
phải cần, kiệm, mà còn phải liêm và chính. 
Những người không bị lòng tham chi phối, 
luôn giữ vững được sự ngay thẳng trong bất 
kỳ khó khăn nào thì mới trở thành con 
người theo nghĩa đích thực và được mọi 
người xung quanh tôn trọng. Tuy đều cần 
có các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018 
 12
nhưng giữa công dân bình thường và người 
đảng viên vẫn có sự khác biệt ở chỗ những 
yêu cầu trong việc thực hiện cần, kiệm, 
liêm, chính ở đảng viên phải cao hơn người 
bình thường. Đảng viên là chiến sĩ cách 
mạng trong đội tiên phong của giai cấp 
công nhân Việt Nam; suốt đời phấn đấu cho 
mục tiêu, lý tưởng của Đảng; đặt lợi ích của 
Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân 
dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; là 
người tiên tiến nhất trong nhân dân lao 
động; là đại diện tiêu biểu cho những con 
người mới, con người xã hội chủ nghĩa. Do 
đó, đảng viên phải là người tiên phong, 
gương mẫu trước quần chúng nhân dân. 
Với tư cách là chiến sĩ cách mạng trong đội 
ngũ tiên phong, là tấm gương cho quần 
chúng nhân dân noi theo, đảng viên phải 
thực hiện những chuẩn mực đạo đức của 
người tốt hơn so với người công dân bình 
thường. Một đảng viên muốn trở thành tấm 
gương về đạo đức cho nhân dân noi theo thì 
tự mình phải thực hành nghiêm các chuẩn 
mực đạo đức. Đạo đức của người đảng viên 
đòi hỏi tính gương mẫu rất cao. Về điều 
này, Hồ Chí minh viết: “Nếu miệng thì 
tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự 
mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết 
kiệm, mà tự mình xa xỉ, lung tung thì tuyên 
truyền một trăm năm cũng vô ích” 1, t.5, 
tr.108; “Hô hào dân tiết kiệm, mình phải 
tiết kiệm trước đã. Đồng chí ta phải học lấy 
bốn đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, 
chính” 1, t.5, tr.552. Mặt khác, nếu việc thi 
hành nghĩa vụ đạo đức của một công dân 
bình thường chỉ ảnh hưởng đến danh dự và 
cuộc sống của bản thân và gia đình người đó 
thì việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức của 
người đảng viên liên quan đến danh dự của 
toàn Đảng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn 
vong của Đảng cầm quyền cũng như tới 
tương lai và vận mệnh của dân tộc. Ví dụ, 
một đảng viên giữ chức vụ cao trong chính 
quyền nếu không có tinh thần tiết kiệm, 
không chính trực, không ngay thẳng thì rất 
dễ lợi dụng địa vị và quyền lực của mình để 
kéo bè, kết cánh, tham ô, tham nhũng, lãng 
phí, gây hại lớn cho dân, cho nước. Những 
đảng viên như thế sẽ khiến cho nhân dân mất 
đi niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào 
tương lai của chủ nghĩa xã hội, từ đó dân sẽ 
không nghe và đi theo Đảng nữa. Cũng bởi 
thế mà yêu cầu thực hiện các chuẩn mực đạo 
đức của đảng viên phải cao và cụ thể hơn 
những công dân bình thường. Đối với việc 
thực hành cần, kiệm, liêm, chính của đảng 
viên, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bất kỳ ở địa vị 
nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đầy tớ 
của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng 
ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ 
hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, 
chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân 
dân. Muốn làm được như vậy chúng ta phải 
cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. 
Trước hết là Cần, tức là tăng năng suất 
trong công tác, bất kỳ công tác gì. Kiệm tức 
là không lãng phí thì giờ, của cải của mình 
và của nhân dân. Liêm tức là không tham ô 
và luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và 
của nhân dân. Chính tức là việc phải thì dù 
nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng 
tránh” 1, t.7, tr.392; “Cán bộ và đảng viên 
càng phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu 
gương “cần, kiệm, liêm, chính”, không xâm 
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, 
của nhân dân; phải chống bệnh quan liêu, 
mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ô, 
lãng phí. Trong mọi công việc phải tính 
toán cân nhắc cẩn thận” 1, t.10, tr.314. 
Hai là, một số chuẩn mực đạo đức buộc 
phải có đối với đảng viên nhưng không bắt 
buộc đối với công dân bình thường. Bên 
Trần Văn Phòng, Hoàng Thu Trang 
 13
cạnh những nghĩa vụ đạo đức phải tuân thủ 
như một công dân bình thường, xuất phát từ 
chính đặc điểm về vị trí, vai trò của mình, 
đảng viên còn phải tuân thủ những chuẩn 
mực đạo đức khác thể hiện trách nhiệm của 
đảng viên trước Đảng, trước nhân dân. 
Chẳng hạn, đó là chuẩn mực đạo đức “trung 
với nước, hiếu với dân”. Chuẩn mực này 
thể hiện trách nhiệm của đảng viên đối với 
sự nghiệp dựng nước và giữ nước. “Trung 
với nước” được biểu hiện ở chỗ, đảng viên 
luôn phải đặt lợi ích của Đảng, của Tổ 
quốc, của cách mạng lên trên hết; quyết tâm 
phấn đấu để thực hiện và hoàn thành mục 
tiêu con đường cách mạng; luôn đi đầu 
trong việc thực hiện tốt mọi chủ trương, 
chính sách của Đảng và Nhà nước. “Hiếu 
với dân” được thể hiện ở chỗ, đảng viên 
phải luôn coi dân là gốc của nước, coi dân 
là người sáng tạo ra của cải vật chất, làm 
nên lịch sử, coi mình chỉ là đầy tớ của nhân 
dân, đại diện cho nhân dân làm lợi cho dân, 
bảo vệ lợi ích chính đáng cho dân và bảo 
đảm quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí 
Minh từng căn dặn: “Người cán bộ cách 
mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ 
vững đạo đức cách mạng mới là người cán 
bộ chân chính. Đạo đức cách mạng có thể 
tóm tắt là: Nhận rõ phải trái. Giữ vững lập 
trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với 
dân” 1, t.7, tr.480. 
Một chuẩn mực đạo đức khác của đảng 
viên là “chí công vô tư”. Chuẩn mực này 
yêu cầu cán bộ, đảng viên không được nghĩ 
đến mình trước, phải hết lòng vì Đảng, vì Tổ 
quốc, vì đồng bào; đặt lợi ích của cách 
mạng, của nhân dân lên trên hết. Thực hành 
“chí công vô tư” cũng có nghĩa là phải kiên 
quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao 
đạo đức cách mạng, bởi vì chủ nghĩa cá nhân 
là trái đạo đức cách mạng 6. Trong tác 
phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh 
từng khẳng định: “mỗi người trong Đảng 
phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định 
phải phục tùng lợi ích của Đảng... Nghĩa là 
phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên 
trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích 
của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, 
vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt 
lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân 
lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. 
Đó là “tính Đảng”. Nếu gặp khi lợi ích 
chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng 
của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi 
ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi 
cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui 
lòng hy sinh cho Đảng” 1, t.5, tr.250-251. 
Những chuẩn mực đạo đức nói trên là 
những tiêu chí hàng đầu để đánh giá tư cách 
đạo đức của một đảng viên chân chính. Đặc 
biệt, có nhiều tiêu chuẩn đạo đức cụ thể 
đã được ghi trong Điều lệ của Đảng và 
buộc đảng viên phải tuân theo bên cạnh 
việc tuân thủ các quy định pháp luật như 
một công dân bình thường. Đó là những 
quy định về nghĩa vụ của người đảng viên 
(trong Điều 2, Chương 1 tại Điều lệ Đảng 
Cộng sản Việt Nam 2) hay quy định về 
19 điều đảng viên không được làm (theo 
Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp 
hành Trung ương 3). Nếu vi phạm 
những quy định này, đảng viên phải chịu 
kỷ luật trước Đảng. 
Trên đây là những điểm khác biệt chủ yếu 
nhất giữa đạo đức đảng viên và đạo đức công 
dân. Sự khác biệt này không phải là ở chỗ có 
hai loại chuẩn mực đạo đức khác nhau hoàn 
toàn (một loại chuẩn mực dành cho công dân 
và một loại chuẩn mực đạo đức dành cho 
đảng viên), mà là ở chỗ, đạo đức đảng viên có 
những yêu cầu khắt khe hơn đạo đức công 
dân bình thường, hơn nữa có một số chuẩn 
mực đạo đức bắt buộc đối với đảng viên 
nhưng không phải là chuẩn mực đạo đức bắt 
buộc đối với công dân bình thường. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018 
 14
3. Sự tương tác giữa đạo đức đảng viên 
và đạo đức công dân 
Mặc dù đạo đức cách mạng đảng viên và 
đạo đức công dân có nhiều điểm khác 
biệt, nhưng giữa chúng vẫn có sự tương 
tác lẫn nhau. Điều đó thể hiện ở những 
điểm sau đây. 
Một là, đạo đức công dân là nền tảng 
cho đạo đức đảng viên, đạo đức công dân 
càng hoàn thiện thì đạo đức đảng viên càng 
được nâng cao. Đạo đức đảng viên không 
đối lập với đạo đức công dân, mà là sự phát 
triển cao hơn, đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn, 
đòi hỏi cao hơn, nghiêm khắc hơn đạo đức 
công dân. Như đã trình bày ở trên, đạo đức 
đảng viên được hình thành và hoàn thiện 
chỉ trên cơ sở kết hợp giữa những chuẩn 
mực đạo đức công dân được thực hiện ở 
mức độ cao hơn với một số tiêu chuẩn riêng 
theo quy định của Đảng. Đảng viên trước 
hết phải tuân thủ tuyệt đối những nghĩa vụ 
đạo đức của một người công dân bình 
thường. Không thể nói rằng một đảng viên 
đã thực hiện đủ những chuẩn mực đạo đức 
của người cán bộ đảng viên, trong khi, chưa 
thực hiện được chuẩn mực đạo đức của 
công dân bình thường. Một đảng viên 
không thể có đạo đức cách mạng khi không 
chấp hành những nghĩa vụ đạo đức đã được 
luật hóa trong pháp luật cũng như những 
chuẩn mực đạo đức thông thường mà xã hội 
quy định đối với một công dân. Bởi thế, 
hoàn thành tốt mọi tiêu chuẩn đạo đức của 
một công dân là yêu cầu tối thiểu, là cơ sở 
để đảng viên rèn luyện và nâng cao đạo 
đức cách mạng, nghĩa là để thực hiện 
những chuẩn mực đạo đức phổ quát ở tầm 
cao với những yêu cầu khắt khe và 
nghiêm ngặt hơn. 
Với tư tính chất nền tảng cho đạo đức 
đảng viên, đạo đức công dân trong xã hội 
càng cao, càng hoàn thiện thì càng tạo môi 
trường thuận lợi để đảng viên rèn luyện, 
nâng cao đạo đức cách mạng. Hoàn cảnh, 
môi trường tuy không phải là cái quyết định 
nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến việc tu 
dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi người. 
Đối với đảng viên cũng vậy, môi trường xã 
hội càng tốt thì càng tạo điều kiện cho họ tu 
dưỡng, rèn luyện và nâng cao đạo đức cách 
mạng. Ngược lại, hoàn cảnh càng suy thoái, 
có nhiều cám dỗ, thì càng có nhiều cơ hội 
cho thói hư, tật xấu lan rộng, càng khiến 
cho đảng viên dễ sa ngã, dễ rơi vào chủ 
nghĩa cá nhân, đánh mất chính mình. Khi 
nền tảng đạo đức chung của xã hội, đạo đức 
công dân càng hoàn thiện thì đạo đức đảng 
viên lại càng có cơ hội được nâng cao. 
Hai là, đạo đức đảng viên càng được 
nâng cao thì càng thúc đẩy đạo đức công 
dân hoàn thiện hơn. Đạo đức công dân là 
nền tảng cho việc thực hiện và nâng cao 
đạo đức đảng viên. Ngược lại, đạo đức đảng 
viên càng được nâng cao, thì càng giúp cho 
đạo đức công dân được hoàn thiện hơn. 
Điều này thể hiện ở hai điểm. Thứ nhất, 
đảng viên nào giữ vững được đạo đức cách 
mạng thì đảng viên đó đang hoàn thành tốt 
nghĩa vụ đạo đức của một người công dân, 
bởi suy cho cùng, đạo đức đảng viên cũng 
chủ yếu là đạo đức công dân được thực hiện 
ở tầm cao hơn với những yêu cầu khắt khe 
hơn. Thứ hai, đảng viên là những người tiêu 
biểu, đại diện cho nhân dân đứng trong 
hàng ngũ của Đảng, luôn là tấm gương cho 
nhân dân về mọi mặt, đặc biệt là tấm gương 
về đạo đức. Để trở thành tấm gương về đạo 
đức, mỗi đảng viên trước hết phải tự mình 
thi hành đạo đức, nói phải đi đôi với làm. 
Về điều này, Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ, 
đảng viên phải gương mẫu, phải thiết thực, 
miệng nói tay làm để làm gương cho nhân 
dân. Nói mà không làm thì vô ích, đó là 
một tật xấu” 1, t.11, tr.136; “Nói miệng ai 
cũng nói được. Ta cần phải thực hành. 
Trần Văn Phòng, Hoàng Thu Trang 
 15
Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. 
Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. 
Trước hết mình phải làm gương, gắng làm 
gương cho anh em, và khi đi công tác gắng 
làm gương cho dân” 1, t.10, tr.167; 
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ 
viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ 
yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những 
người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn 
nhân dân, mình phải làm mực thước cho 
người ta bắt chước” 1, t.5, tr.552. 
Mỗi đảng viên nếu luôn có ý thức tu 
dưỡng, rèn luyện, thực hiện đạo đức cách 
mạng thì sẽ trở thành tấm gương sáng để 
nhân dân học tập và noi theo. Sinh thời, 
Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: “Một 
tấm gương sống còn có giá trị hơn một 
trăm bài diễn văn tuyên truyền” 1, t.1, 
tr.263, “Lấy gương người tốt, việc tốt để 
hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong 
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, 
xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng 
con người mới, cuộc sống mới” 1, t.12, 
tr.558. Như vậy, nếu đạo đức đảng viên 
càng được nâng cao thông qua hoạt động 
thực tiễn thì xã hội càng có nhiều tấm 
gương sáng để người dân noi theo, trên cơ 
sở đó, cái tốt, cái đẹp không ngừng được 
lan rộng, đạo đức công dân càng có cơ hội 
được hoàn thiện. Ngược lại, nếu đảng viên 
không tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo 
đức, lời nói không đi đôi với việc làm, thì 
chẳng những họ không thể trở thành tấm 
gương tốt cho nhân dân, không thể có 
được sự tin yêu của nhân dân, mà còn biến 
thành “tấm gương xấu” cho công dân. 
4. Kết luận 
Trong thực tế hiện nay, không ít đảng viên đã 
và đang trở thành những “tấm gương xấu” về 
đạo đức, khiến cho cái ác, cái xấu có cơ hội 
được nhân rộng. Hội nghị Trung ương 4 khóa 
XII của Đảng đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái 
đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở 
nước ta hiện nay 4. Điều đáng buồn là ở 
chỗ, bộ phận cán bộ, đảng viên mắc phải 
những biểu hiện này lại không hề nhỏ và 
đang có chiều hướng gia tăng. Điều này là 
nguyên nhân chính làm suy thoái nền đạo đức 
xã hội ở nước ta thời gian qua. Khi đảng viên 
là tấm gương xấu về đạo đức thì chúng ta 
không thể đòi hỏi những công dân bình 
thường phải thực hiện tốt các chuẩn mực đạo 
đức của xã hội và cũng không thể đòi hỏi sự 
hoàn thiện của đạo đức công dân. Do đó, 
nâng cao đạo đức đảng viên là một trong 
những yêu cầu cấp bách và cũng là một trong 
những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao 
đạo đức công dân. Giữa đạo đức đảng viên và 
đạo đức của công dân có mối quan hệ mật 
thiết và sự tác động lẫn nhau một cách biện 
chứng. Nếu cái này tốt thì cái kia được nâng 
cao, và ngược lại, nếu cái này suy thoái thì cái 
kia sẽ không hoàn thiện. Bởi vậy, muốn nâng 
cao đạo đức công dân thì cần nâng cao đạo 
đức đảng viên. 
Tài liệu tham khảo 
1 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.1, t.5, t.7, 
t.10, t.11, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2  
ntulieu/Van-kien-Dang-Nha-
nuoc/2011/3346/DIEU-LE-DANG-CONG-SAN-
VIET-NAM-khoa-XI.aspx. 
3 https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-
khac/Quy-dinh-47-QD-TW-nhung-dieu-dang-
vien-khong-duoc-lam-132578.aspx. 
4 
hoi/20161031/toan-van-nghi-quyet-trung-
uong-4-khoa-xii/1211059.html, 
5 https://tennguoidepnhat.net/2012/05/24/dao-
duc-cong-dan-15-1-1955. 
6 
doi/thong-tin-tu-lieu/359-t-tng-h-chi-minh-v-o-
c-cach-mng-ca-ngi-can-b-ng-vien.html 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018 
 16

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_dao_duc_dang_vien_va_dao_duc_cong_dan_o_vie.pdf