Lý thuyết động viên của Maslow: Chúng ta đã hiểu đúng hay chưa?

Nhắc đến lý thuyết về hành vi của con

người, ta không thể bỏ sót lý thuyết động viên

(A theory of human motivation) được nghiên

cứu bởi Maslow (1943), bởi lý thuyết được ví

như bài học vỡ lòng của của mọi đối tượng

muốn nghiên cứu hành vi của con người nói

chung hay của các nhà quản trị khi muốn thấu

hiểu người lao động của mình nói riêng.

Khi trực tiếp đào sâu vào nghiên cứu, tác

giả nhận ra có sự mâu thuẫn giữa lý thuyết

được Maslow (1943) công bố và nội dung

được tiếp thu trên giảng đường. Tác giả nhận

thấy trong lý thuyết động viên, Maslow (1943)

đã lường được khi tiếp nhận và nghiên cứu lý

thuyết, người đọc có thể hiểu 5 nhu cầu cơ bản

của con người được sắp xếp theo từng bậc một,

và mối liên kết giữa các nhu cầu này hoặc rất

mật thiết, hoặc không có liên kết với nhau.

Rõ nét hơn, Maslow (1943) nhấn mạnh:

"nếu một nhu cầu được thỏa mãn, thì sau đó

nhu cầu khác sẽ xuất hiện" có thể mang lại sự

hiểu nhầm rằng phải thỏa mãn 100 phần trăm

thì nhu cầu tiếp đó mới xuất hiện.

Thật vậy, không khó để tìm được một

cuốn sách khi viết về lý thuyết động viên của

Maslow (1943), có đoạn như thế này:

Theo lý thuyết của Maslow, các nhu cầu

bậc thấp hơn được ưu tiên thỏa mãn trước -

chúng phải được đáp ứng trước khi kích hoạt

những nhu cầu bậc cao hơn. Các nhu cầu trong

thang bậc phải được thỏa mãn theo một trình tự

từ thấp đến cao: nhu cầu sinh lý được thỏa mãn

trước, sau đó đến nhu cầu an toàn, nhu cầu xã

hội, nhu cầu được tôn trọng, và cuối cùng là

nhu cầu tự thể hiện. Một cá nhân đang khát

khao nhu cầu an toàn sẽ tập trung các nỗ lực để

đảm bảo một môi trường an toàn và sẽ không

để tâm tới nhu cầu được tôn trọng hay tự thể

hiện. Mỗi khi một nhu cầu nào đó được thỏa

mãn, tầm quan trọng của nó giảm dần, và nhu

cầu bậc cao hơn sẽ được kích hoạt (Daft 2016).

Theo đó, tác giả nhận thấy có sự mâu

thuẫn giữa cách hiểu của những người nghiên

cứu lý thuyết động viên của Maslow (1943) và

nội dung của lý thuyết này. Sự mâu thuẫn này

nảy sinh ra vấn đề là chúng ta nên hiểu lý

thuyết này như thế nào?

pdf 6 trang kimcuc 3040
Bạn đang xem tài liệu "Lý thuyết động viên của Maslow: Chúng ta đã hiểu đúng hay chưa?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết động viên của Maslow: Chúng ta đã hiểu đúng hay chưa?

Lý thuyết động viên của Maslow: Chúng ta đã hiểu đúng hay chưa?
NỘI SAN KHOA HỌC – HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM, KỲ I/12/2018 
LÝ THUYẾT ĐỘNG VIÊN CỦA MASLOW:
CHÚNG TA ĐÃ HIỂU ĐÚNG HAY CHƯA?
Tạ Thái Chân* và Trần Vĩ
Khoa Vận tải Hàng không, Học viện Hàng không Việt Nam
*Email: tathaichan@gmail.com, Số điện thoại: +(84)0986.868.680
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
TÓM TẮT
Bài báo trình bày quan điểm chính của lý thuyết động viên của Maslow (1943). Tiếp theo, bài viết
nêu ra những mâu thuẫn trong cách hiểu lý thuyết động viên so với nội dung được Maslow công bố
năm 1943. Cuối cùng, bài viết đề cập đến sự ảnh hưởng của việc hiểu nếu chưa hợp lý về lý thuyết
động viên của Maslow.
Từ khóa: lý thuyết động viên, tháp nhu cầu, thang bậc nhu cầu
ABSTRACT
This paper presents the main notions of theory of human motivation proposed by Maslow (1943). 
Next, it displays the conflicts between the notions of this theory and the understanding of these 
notions. Finally, the effects of the understanding of Maslow’s human motivation theory in an 
inappropriate manner are discussed.
Keywords: theory of human motivation, pyramid of needs, hierarchy of needs
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhắc đến lý thuyết về hành vi của con 
người, ta không thể bỏ sót lý thuyết động viên 
(A theory of human motivation) được nghiên 
cứu bởi Maslow (1943), bởi lý thuyết được ví 
như bài học vỡ lòng của của mọi đối tượng 
muốn nghiên cứu hành vi của con người nói 
chung hay của các nhà quản trị khi muốn thấu
hiểu người lao động của mình nói riêng.
Khi trực tiếp đào sâu vào nghiên cứu, tác 
giả nhận ra có sự mâu thuẫn giữa lý thuyết
được Maslow (1943) công bố và nội dung 
được tiếp thu trên giảng đường. Tác giả nhận
thấy trong lý thuyết động viên, Maslow (1943)
đã lường được khi tiếp nhận và nghiên cứu lý 
thuyết, người đọc có thể hiểu 5 nhu cầu cơ bản
của con người được sắp xếp theo từng bậc một, 
và mối liên kết giữa các nhu cầu này hoặc rất
mật thiết, hoặc không có liên kết với nhau.
Rõ nét hơn, Maslow (1943) nhấn mạnh: 
"nếu một nhu cầu được thỏa mãn, thì sau đó 
nhu cầu khác sẽ xuất hiện" có thể mang lại sự
hiểu nhầm rằng phải thỏa mãn 100 phần trăm 
thì nhu cầu tiếp đó mới xuất hiện.
Thật vậy, không khó để tìm được một
cuốn sách khi viết về lý thuyết động viên của
Maslow (1943), có đoạn như thế này: 
Theo lý thuyết của Maslow, các nhu cầu
bậc thấp hơn được ưu tiên thỏa mãn trước -
chúng phải được đáp ứng trước khi kích hoạt
những nhu cầu bậc cao hơn. Các nhu cầu trong 
thang bậc phải được thỏa mãn theo một trình tự
từ thấp đến cao: nhu cầu sinh lý được thỏa mãn 
trước, sau đó đến nhu cầu an toàn, nhu cầu xã 
hội, nhu cầu được tôn trọng, và cuối cùng là 
nhu cầu tự thể hiện. Một cá nhân đang khát 
khao nhu cầu an toàn sẽ tập trung các nỗ lực để
đảm bảo một môi trường an toàn và sẽ không 
để tâm tới nhu cầu được tôn trọng hay tự thể
hiện. Mỗi khi một nhu cầu nào đó được thỏa
mãn, tầm quan trọng của nó giảm dần, và nhu 
cầu bậc cao hơn sẽ được kích hoạt (Daft 2016).
Theo đó, tác giả nhận thấy có sự mâu 
thuẫn giữa cách hiểu của những người nghiên 
cứu lý thuyết động viên của Maslow (1943) và 
nội dung của lý thuyết này. Sự mâu thuẫn này 
nảy sinh ra vấn đề là chúng ta nên hiểu lý 
thuyết này như thế nào?
47
öø où Lyù thuyeát ñoäng vieân, thaùp nhu caàu, thang baäc nhu caàu
Theory of human motivation, pyramid of n eds, hierarchy of n eds
Internal Scientific Journal – Viet Nam Aviation Academy, Vol 1, Dec 2018
Phần tiếp theo của bài báo sẽ khái quát 
lại lý thuyết Maslow (1943). Sau đó những 
mâu thuẫn giữa lý thuyết gốc và cách hiểu lý 
thuyết hiện nay được trình bày. Cuối cùng, bài 
báo đưa ra những tác động của cách hiểu nếu 
chưa hợp lý về lý thuyết động viên của Maslow 
(1943). 
2. KHÁI NIỆM VỀ THANG BẬC NHU
CẦU CỦA MASLOW (1943)
Theo lý thuyết động viên, Maslow (1943) 
đã sắp xếp các nhóm nhu cầu cơ bản nêu trên 
theo các cấp bậc nhất định, mà vẫn được nhiều 
người biết đến với tên gọi Thang bậc nhu cầu 
của Maslow (hay Maslow's hierarchy of needs). 
Theo đó, các nhu cầu được sắp xếp lần lượt 
theo thứ tự: Nhu cầu sinh lý -> Nhu cầu an 
toàn -> Nhu cầu xã hội hay nhu cầu thuộc về 
nhóm -> Nhu cầu được tôn trọng -> Nhu cầu tự 
thể hiện. Thứ tự sắp xếp này được Maslow 
(1943) xếp theo sự ưu tiên thỏa mãn của con 
người, dựa vào tính cấp thiết của mỗi nhóm 
nhu cầu. Maslow (1943) đã chỉ ra rằng: khi 
một nhu cầu được thỏa mãn thì nhu cầu khác sẽ 
xuất hiện, bởi vì khi một nhu cầu đã được thỏa 
mãn thì nó sẽ không còn là nhu cầu nữa và 
hành vi của con người bị chi phối bởi những 
nhu cầu chưa được thỏa mãn. 
Trong lý thuyết của mình, Maslow (1943) 
xác nhận sự sắp xếp các nhu cầu vào hệ thống 
thang bậc như sau: 
Thực tế là con người ta sẽ chỉ sống với 
bánh mì khi mà chỉ có bánh mì. Nhưng điều gì 
sẽ xảy ra với những mong muốn của con người 
khi con người ta có thật nhiều bánh mì và cái 
bụng thì đã no căng (Maslow 1943)? 
Các nhu cầu (cao hơn) khác cùng lúc 
xuất hiện chứ không chỉ là những cơn đói sinh 
lý, kiểm soát toàn cơ thể. Và khi những nhu 
cầu này được thỏa mãn, các nhu cầu mới (cao 
hơn) lại được xuất hiện và cứ vậy được tiếp tục. 
Đây chính là những gì Maslow muốn nói thông 
qua ý: các nhu cầu cơ bản của con người được 
tổ chức thành một hệ thống thang bậc nhu cầu 
(Maslow 1943). 
Tuy nhiên, trong quá trình học tập và 
nghiên cứu, người viết nhận ra có một vài mâu 
thuẫn giữa lý thuyết gốc của Maslow (1943) và 
lý thuyết khi được học cũng như áp dụng vào 
thực tế cuộc sống. Sau đây người viết sẽ trình 
bày những mâu thuẫn nêu trên. 
3. NHỮNG MÂU THUẪN GIỮA LÝ
THUYẾT GỐC VÀ CÁCH HIỂU LÝ
THUYẾT HIỆN NAY
3.1 Có phải thỏa mãn tất cả các nhu cầu ở
bậc thấp thì nhu cầu ở bậc cao hơn mới xuất
hiện?
Khi ta điểm lại các câu được Maslow 
(1943) nêu ra khi kết thúc một nhóm nhu cầu 
để một nhu cầu khác (ở cấp cao hơn) xuất hiện, 
ví dụ như: 
- Nếu các nhu cầu sinh lý được tương
đối thỏa mãn, thì một bộ nhu cầu mới sẽ xuất 
hiện, và chúng ta có thể phân nhóm nhu cầu 
này là các nhu cầu an toàn (If the physiological 
needs are relatively well gratified, there then 
emerges a new set of needs, which we may 
categorize roughly as the safety needs). 
- Nếu cả nhóm nhu cầu sinh lý và nhu
cầu an toàn được thỏa mãn tương đối tốt, thì 
sau đó các nhu cầu được yêu thương hay các 
nhu cầu thuộc về nhóm sẽ được xuất hiện, và 
toàn bộ vòng tuần hoàn được mô tả sẽ được lặp 
lại với một tâm điểm nhu cầu mới (If both the 
physiological and the safety needs are fairly 
well gratified, then there will emerge the love 
and affection and belongingness needs, and the 
whole cycle already described will repeat itself 
with this new center). 
Khi ta đọc kĩ các câu được viết bởi 
Maslow (1943), khi ông muốn nói đến ý một 
nhu cầu nào đó được thỏa mãn, ông đã không 
chỉ dùng độc một chữ được thỏa mãn 
(satisfied), mà ông dùng tương đối thỏa mãn 
hay thỏa mãn tương đối tốt (relatively well 
gratified, fairly well gratified), điểm này 
chứng tỏ rằng không phải cứ thỏa mãn toàn bộ 
các nhu cầu ở cấp thấp thì các nhu cầu ở cấp 
cao hơn mới được phép thỏa mãn. 
Việc lặp đi lặp lại ý: "nếu một nhu cầu 
được thỏa mãn, thì một nhu cầu khác sẽ xuất 
hiện" (if one need is satisfied, then another 
emerges) của Maslow (1943) có thể dẫn đến sự 
hiểu lầm ý nghĩa thật sự mà ông muốn truyền 
đạt. Và Maslow (1943) đã lường trước được 
điều này, ở phần sau của bài viết công bố về lý 
thuyết động viên, ông đã viết: 
Phát biểu này có thể sẽ dẫn đến một ý 
niệm sai lầm rằng một nhu cầu phải được thỏa 
mãn 100% trước khi nhu cầu kế tiếp xuất hiện 
(This statement might give the false impression 
that a need must be satisfied 100 per cent 
before the next need emerges). Để nói rõ hơn ý 
này, ông tiếp tục: 
48
NỘI SAN KHOA HỌC – HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM, KỲ I/12/2018 
Thực tế, tất cả các nhu cầu cơ bản của 
con người bình thường trong xã hội đều được 
thỏa mãn một phần và không được thỏa mãn 
một phần cùng lúc (In actual fact, most 
members of our society who are normal, are 
partially satisfied in all their basic needs and 
partially unsatisfied in all their basic needs at 
the same time). 
Một sự giải thích rõ ràng hơn về thang 
bậc nhu cầu của Maslow (1943), được chính 
tác giả viết như sau: giải thích thực tế hơn cho 
thang bậc (nhu cầu) là sự giảm tỷ lệ phần trăm 
sự hài lòng khi con người ta đi lên bậc cao hơn. 
Ví dụ: một công dân bình thường hài 
lòng khoảng 85% các nhu cầu về sinh lý, 70% 
các nhu cầu an toàn, 50% các nhu cầu xã hội 
hoặc các nhu cầu thuộc về nhóm, thỏa mãn 
được khoảng 40% các nhu cầu được tôn trọng 
và chỉ khoảng 10% nhu cầu tự thể hiện bản 
thân (Maslow 1943). 
Lý giải cho sự "tái giải thích" khái niệm 
về thang bậc nhu cầu của mình, cũng như về ví 
dụ minh họa nêu trên, Maslow (1943) đã chỉ ra 
rằng: không phải những nhu cầu ở cấp cao hơn 
không có, hay không tồn tại, mà những nhu cầu 
ở cấp cao hơn vẫn luôn hiện hữu, chỉ là chưa 
xuất hiện rõ ràng nên khó để nhận thấy. 
 McLeod (2017) cho rằng: một người có 
thể được động viên bởi những nhu cầu ở bậc 
cao đồng thời với những nhu cầu bậc thấp hơn. 
Khảo sát của Tay & Diener (2011), được thực 
hiện từ năm 2005 đến năm 2010 trên 60.865 
người tham gia tại 123 quốc gia đại diện cho 
từng vùng điển hình trên thế giới, đã cho thấy: 
dù những nhu cầu cơ bản có thể có được sự đặc 
biệt quan tâm khi bạn không có chúng, thì bạn 
không cần phải thỏa mãn chúng để có thể đạt 
được mục đích từ những nhu cầu khác. Khi bạn 
đói, bạn vẫn có thể hạnh phúc với bạn bè của 
mình. Tất cả các nhu cầu như vitamin vậy, 
chúng ta cần tất cả các nhu cầu cơ bản chứ 
không phải riêng lẻ một nhu cầu nào cả (Tay & 
Diener 2011). 
Tuy nhiên, thực tế không phải ai cũng 
hiểu lý thuyết động viên Maslow như cách tiếp 
cận nói trên. Để tìm hiểu cách nhìn nhận của 
các bạn sinh viên Học viện Hàng không Việt 
Nam về vấn đề này, tác giả đã thực hiện một 
khảo sát vào tháng 6/2018 với 52 bạn sinh viên 
từ năm 2 đến năm 4 thuộc Khoa Vận tải Hàng 
không. Với phát biểu "lý thuyết động viên của 
Maslow cho biết nhu cầu cấp thấp của con 
người phải được thỏa mãn hoàn toàn (100%) 
thì những nhu cầu cấp cao hơn mới được xuất 
hiện", có 55% số người đồng tình với phát biểu 
trên và có 45% không đồng tình. Trong thời 
gian này, tác giả cũng khảo sát 20 bạn học viên 
cao học ngành Quản trị kinh doanh của Học 
viện Hàng không Việt Nam, kết quả cũng cho 
thấy 50% học viên cho rằng nhu cầu bậc thấp 
cần được thỏa mãn 100% trước khi các nhu cầu 
bậc cao hơn xuất hiện. Điều này cho thấy các 
bạn sinh viên/học viên hiểu khác nhau đối với 
lý thuyết động viên của Maslow (1943), và 
phần nhiều hơn cho rằng các nhu cầu bậc thấp 
cần được thỏa mãn 100% trước khi xuất hiện 
các nhu cầu bậc cao hơn. 
Theo nghiên cứu của Chân (2018) về 
nhu cầu của người lao động tại Công ty Dịch 
vụ Công ích (số đông người lao động là lao 
động phổ thông), họ không đơn thuần chỉ cần 
các nhu cầu ở bậc cơ bản, mà các nhu cầu được 
rải khắp ở các bậc từ thấp đến cao. Trong 
nghiên cứu này, 3 nhu cầu cơ bản (đều thuộc 
nhu cầu bậc 1) bao gồm: mức lương vừa đủ 
sống, công việc không ảnh hưởng đến sức khỏe, 
môi trường làm việc bình thường (không quá 
nóng hoặc quá lạnh). Thứ tự của các nhu cầu 
này được xếp hạng bởi người lao động là 1, 10, 
11 thay vì nên là 1, 2, 3. Trong khi đó nhu cầu 
thuộc bậc 2 và bậc 4 được xếp hạng lần lượt là 
2 và 3. Nghiên cứu này là một chứng cứ cho 
thấy không phải nhu cầu bậc thấp phải được 
thỏa mãn 100% thì nhu cầu cao hơn mới xuất 
hiện. 
Như vậy có thể hiểu được rằng theo 
Maslow (1943), nhu cầu bậc cao và nhu cầu 
bậc thấp luôn xuất hiện đồng thời. Trong khi 
đó có không ít chứng cứ cho thấy lý thuyết này 
đang được hiểu rằng nhu cầu được thỏa mãn 
từ bậc thấp đến bậc cao, ví dụ như Daft (2016) 
và các khảo sát tại Học viện Hàng không Việt 
Nam đã nêu ở trên. 
3.2 Các nhu cầu của con người sẽ chỉ xuất 
hiện theo thứ tự từ bậc thấp đến bậc cao và 
không thể xuất hiện theo chiều ngược lại? 
Để chứng minh cho sự chưa thỏa đáng 
trong thang bậc nhu cầu của Maslow (1943), 
Tay & Diener (2011) đã đưa ra kết quả khảo 
sát trên các nước có tỉ lệ đói nghèo cao (ví dụ: 
Ấn Độ): họ vẫn đạt được các nhu cầu về yêu 
thương hay nhu cầu thuộc về nhóm. Theo hai 
tác giả này, điều này không thể diễn ra dựa trên 
nền tảng lý thuyết động viên của Maslow 
(1943), vì: theo Maslow, những người cực kì 
49
Internal Scientific Journal – Viet Nam Aviation Academy, Vol 1, Dec 2018
khó khăn để đạt được những nhu cầu sinh lý cơ 
bản (ví dụ: lương thực), thì không có khả năng 
xuất hiện những nhu cầu ở bậc cao hơn. 
Ngoài ra, để phản biện lại lý thuyết động 
viên của Maslow, McLeod (2017) cho rằng: có 
nhiều người làm nghệ thuật, ví dụ như nhà văn 
hoặc họa sĩ (điển hình như danh họa 
Rambrandt và Van Gogh) đã sống cuộc sống 
cơ cực cả quãng đời của họ nhưng với những 
đối tượng này, họ vẫn đạt được nhu cầu tự 
hoàn thiện bản thân. 
Mâu thuẫn ở đây được hiểu là sự cứng 
nhắc khi tiếp nhận lý thuyết thang bậc nhu cầu 
của Maslow (1943). Những ý kiến phản biện 
nêu trên đều có chung quan điểm tiếp nhận lý 
thuyết của Maslow (1943) như sau: tất cả các 
nhu cầu cơ bản của con người đều được sắp 
xếp theo một chiều từ bậc thấp đến bậc cao. 
Như đã nêu trên, Tay & Diener (2011) diễn 
giải lý thuyết động viên của Maslow như sau: 
theo Maslow, những người cực kì khó khăn để 
đạt được những nhu cầu sinh lý cơ bản (ví dụ 
như lương thực), thì không có khả năng xuất 
hiện những nhu cầu ở bậc cao hơn. 
Trong lý thuyết động viên được công bố 
vào năm 1943, Maslow đã chỉ rõ chiều của 
thang bậc không chỉ có một chiều, mà còn có 
hiện tượng đổi chiều với một vài trường hợp 
đặc biệt. Trường hợp về những đối tượng như 
danh họa tài hoa Van Gogh có được đề cập như 
sau: có những trường hợp mà sức sáng tạo của 
họ là bẩm sinh, khuynh hướng được thỏa sức 
sáng tạo dường như quan trọng hơn tất thảy các 
yếu tố quyết định khác. Sự sáng tạo của họ 
không phải được hình thành như cách nhu cầu 
hoàn thiện bản thân được xuất hiện bởi sự hài 
lòng cơ bản, mà chính do thiếu đi sự hài lòng 
cơ bản (Maslow 1943). 
Nói về cấu trúc của thang bậc nhu cầu, 
Maslow (1987) đã viết: "thứ tự các bậc nhu cầu 
trong thang bậc không phải quá cứng nhắc (not 
nearly as rigid)". Nói về sự không cứng nhắc 
này, Maslow đã chỉ ra ở một số cá nhân sẽ tìm 
kiếm nhu cầu theo thứ tự khác nhau. Trong 
nghiên cứu năm 1943, Maslow đã chỉ ra 7 
trường hợp điển hình mà thang bậc nhu cầu sẽ 
bị đảo chiều. Điều này thể hiện: trên phương 
diện lý thuyết, Maslow (1943) không ràng 
buộc các nhu cầu cơ bản của con người nói 
chung đều phải được sắp xếp đúng theo thang 
bậc nhu cầu mà ông đề xuất. Hay nói cách 
khác, các nhu cầu của con người ở cả bậc cao 
và bậc thấp đều xuất hiện đồng thời với nhau, 
không nhất thiết phải đi theo đúng một chiều từ 
bậc thấp đến bậc cao. 
3.3 Hình ảnh tháp nhu cầu xuất hiện từ đâu? 
Bên cạnh những mâu thuẫn tác giả đã 
nêu ra trong bài viết, tác giả đã tự đặt ra câu 
hỏi rằng: trong lý thuyết động viên, Maslow đã 
xây dựng một thứ tự ưu tiên thỏa mãn các nhu 
cầu của con người. Vậy thì thứ tự này được 
hiểu là "thang bậc nhu cầu" hay "tháp nhu cầu"? 
Bởi lẽ khi được học về lý thuyết động viên, hầu 
hết mọi người sẽ được tiếp cận hình ảnh về 
chiếc tháp có hình dạng như ví dụ sau: 
Hình 1: Hình minh họa "tháp nhu cầu" 
theo hình kim tự tháp 
(Nguồn: Wikipedia 2018) 
Vậy, hình ảnh “tháp nhu cầu” xuất hiện 
từ đâu? 
Trong cuộc khảo sát vào tháng 6/2018 
tại Học viện Hàng không Việt Nam nói trên 
của tác giả, 92% sinh viên và 86,67% học viên 
cao học trả lời đồng tình cho phát biểu "Lý 
thuyết động viên của Maslow cho biết nhu cầu 
của con người có dạng hình tháp". Kết quả 
khảo sát chứng tỏ đối với các bạn sinh viên và 
học viên cao học, hình ảnh của “tháp nhu cầu” 
thực sự có tồn tại. Và gần như khi nhắc đến lý 
thuyết động viên của Maslow, các bạn sẽ nghĩ 
ngay đến hình ảnh “tháp nhu cầu” như hình 1. 
Nhưng khi tác giả tìm hiểu nguồn gốc 
của hình ảnh minh họa nêu trên trong các 
nghiên cứu đã được Maslow công bố qua các 
năm 1943, 1954 và 1962 thì không hề có hình 
ảnh này. Vì vậy, tác giả cho rằng có thể hình 
ảnh chiếc tháp được các học giả sử dụng để 
minh họa lại lý thuyết của Maslow (1943) 
50
NỘI SAN KHOA HỌC – HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM, KỲ I/12/2018 
nhằm mục đích diễn giải dễ hiểu hơn lý thuyết, 
giúp mọi người hiểu được dễ dàng hơn. 
Tuy nhiên, có thể vì những hình ảnh này 
đã dẫn đến những mâu thuẫn trong cách hiểu 
về lý thuyết động viên của Maslow (1943) như 
đã nêu trên. Những mâu thuẫn như vậy có ảnh 
hưởng thế nào? Phần còn lại của bài báo này sẽ 
thảo luận về tác động của cách hiểu nếu chưa 
hợp lý về lý thuyết động viên của Maslow 
(1943) đến thực tiễn cuộc sống. 
4. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁCH HIỂU
NẾU CHƯA HỢP LÝ VỀ LÝ THUYẾT
ĐỘNG VIÊN CỦA MASLOW (1943)
4.1 Xét trên lĩnh vực giáo dục 
Người viết chỉ đưa ra quan điểm dựa 
trên sự ảnh hưởng của kiến thức được truyền 
đạt tác động đến nhận thức và hành vi trong 
tương lai của người tiếp nhận kiến thức. Tại 
các giảng đường đại học, đa số sinh viên được 
nghe truyền đạt kiến thức theo cách tương đối 
thụ động, tức những gì được giảng viên trình 
bày sẽ là những kiến thức được sinh viên ghi 
nhớ trực tiếp vào não bộ và không có câu hỏi 
phản biện ngược lại. 
Ở thì hiện tại, có thể sự ảnh hưởng của 
việc hiểu nếu chưa hợp lý về lý thuyết Maslow 
trên giảng đường sẽ không bộc lộ ra, nhưng 
qua thời gian, khi lý thuyết được chuyển hóa 
thành kiến thức của người học để từ đó áp 
dụng vào thực tiễn cuộc sống, tác động của 
những lý thuyết từ trên giảng đường đại học 
mới thể hiện rõ nét, cụ thể hơn là ở trong lĩnh 
vực quản trị sẽ được trình bày dưới đây. 
4.2 Xét trên lĩnh vực quản trị 
Dựa vào nền tảng kiến thức về hành vi 
và sự thỏa mãn của con người đã được tiếp cận 
thông qua lý thuyết động viên của Maslow 
(1943), các nhà quản trị sẽ đưa ra các chính 
sách cũng như những định hướng lâu dài cho 
công ty hoặc bộ phận do mình phụ trách. Khi 
tiềm thức của những nhà quản trị nhớ về lý 
thuyết rằng: nhu cầu ở bậc thấp phải được 
hoàn thiện (được đáp ứng) thì các nhu cầu ở 
bậc cao hơn mới được kích hoạt, thì các nhà 
quản trị sẽ đưa ra các chính sách mang tính thứ 
bậc, áp dụng dần theo thời gian để người lao 
động của họ có thể được thỏa mãn theo từng 
bậc một. 
Đặt trường hợp như sau: A sở hữu một 
doanh nghiệp sản xuất, A hiểu tổng hợp các 
nhu cầu của mỗi cá nhân sẽ được sắp xếp trên 
một hình tháp. Do người lao động của công ty 
chủ yếu là người lao động phổ thông nên A 
đưa ra các chính sách đủ để đáp ứng bậc cơ 
bản nhất: mức lương cơ bản vừa đủ sống, điều 
kiện làm việc tương đối thoải mái và ngó lơ 
các nhu cầu ở các bậc cấp cao như được công 
nhận hoặc hoàn thiện bản thân, vì A nghĩ người 
lao động sẽ không thể kích hoạt đến các bậc đó. 
Tuy nhiên, thông thường nhân viên có tất cả 
các nhu cầu từ bậc thấp đến bậc cao và tại một 
thời điểm nhất định, một cấp độ nhu cầu nào 
đó được quan tâm nhiều hơn (Dũng 2016). 
Muốn động viên nhân viên, đòi hỏi nhà quản 
trị cần phải hiểu rõ nhân viên đang ưu tiên nhu 
cầu nào, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp 
cho việc thỏa mãn nhu cầu của họ (Dũng 2016). 
Như vậy, khi A bỏ qua các nhu cầu bậc cao 
hơn mà người lao động của A đang cần được 
thỏa mãn thì họ sẽ không có động lực làm việc. 
Điều này chắc chắn ảnh hưởng đến hiệu quả 
công việc của người lao động và hiệu quả hoạt 
động của doanh nghiệp mà A sở hữu. Như vậy, 
việc hiểu nếu chưa hợp lý lý thuyết động viên 
của Maslow sẽ dẫn đến việc vận dụng không 
phù hợp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả lao 
động và hiệu quả của doanh nghiệp. 
5. KẾT LUẬN
Có thể thấy lý thuyết động viên của 
Maslow (1943) ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực 
trong thực tiễn cuộc sống, nhưng vẫn còn có 
những mâu thuẫn trong cách hiểu của lý thuyết, 
điều này có thể dẫn đến những ảnh hưởng 
không nhỏ đến nhận thức cũng như quá trình ra 
quyết định của nhiều người khi họ áp dụng lý 
thuyết động viên của Maslow (1943). 
Bên cạnh đó, bài viết này nêu ra những 
mâu thuẫn trong cách hiểu của người tiếp cận 
lý thuyết động viên của Maslow so với nội 
dung lý thuyết do Maslow đề xuất với hy 
vọng có thêm những tranh luận về lý thuyết 
này, để từ đó có thể đạt được sự hiểu biết hợp 
lý hơn về lý thuyết. Xa hơn nữa, không chỉ 
giới hạn trong lý thuyết động viên của 
Maslow, mà với những lý thuyết khác, liệu 
chúng ta đã hiểu và vận dụng hợp lý hay chưa? 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Daft, R.L., (2016), New Era of Management
- Kỷ nguyên mới của Quản trị, 11th ed.,
51
Internal Scientific Journal – Viet Nam Aviation Academy, Vol 1, Dec 2018
(Nguyễn H. Phong dịch), Hồng Đức, TP. 
Hồ Chí Minh. 
2. Tạ. T. Chân, (2018), Nhu cầu của nhân viên
tại nơi làm việc: Nghiên cứu ứng dụng
thang đo Best-Worst vào lý thuyết Maslow,
Khoá luận Tốt nghiệp, Học viện Hàng
không Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
3. Trương Q. Dũng, (2016), Giáo trình Quản
trị học, Trường Đại học Kinh tế Tài chính,
Hồ Chí Minh.
4. Wikipedia: "Tháp nhu cầu của Maslow",
được truy cập vào tháng 5/2018, từ
Wikipedia:www.vi.wikipedia.org/wiki/Thá
p_nhu_cầu_của_Maslow.
5. Maslow, H.A., (1943), A Theory of Human
Motivation. Psychological Review, vol. 50,
pp. 370-396.
6. Maslow, H.A., (1954), Motivation and
Personality, Harper & Row Publishers.
7. Maslow, H.A., (1962), Toward a
Psychology of Being, Litton Educational
Publishing.
8. Maslow, H.A., (1987), Motivation and
Personality (3rd ed.), Pearson Education,
India.
9. McLeod, S., (2017), "Maslow's hierarchy of
needs", được truy cập vào tháng 4/2018, từ
Simply Psychology:
www.simplypsychology.org/Maslow.html
10. Tay, L. & Diener, Ed., (2011), Needs and
Subjective Well-Being Around the World,
Journal of Personality and Social
Psychology, vol. 101, no. 2, pp. 354-365.
52

File đính kèm:

  • pdfly_thuyet_dong_vien_cua_maslow_chung_ta_da_hieu_dung_hay_chu.pdf