Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm - Một điển hình của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học
đạo đức học hay triết học đạo đức là lĩnh vực học thuật đã có lịch sử hình thành
phát triển khá lâu đời ở phương Tây, song lại hiếm khi chú ý đến tiếng nói về nữ giới.
Nữ giới hầu như vắng mặt trong truyền thống đạo đức học phương Tây. Sự vắng mặt ấy
cũng phần nào chứng minh một sự thật là các lý thuyết đạo đức của nam giới đã thống
trị trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nền văn minh phương Tây, cả về mặt
phương pháp lẫn khái niệm. Sự thống trị ấy đã gây nên những bất cập trong việc giải
quyết các vấn đề đạo đức. để giải quyết bất cập này, vào thập niên 60 thế kỷ XX, ở
phương Tây đã xuất hiện một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu các vấn đề của đạo
đức học - cách tiếp cận nữ quyền (feminist approach). Ngay từ khi ra đời, cách tiếp cận
này đã giới thiệu một lý thuyết đạo đức về sự quan tâm (ethics of care) với tư cách là
một điển hình của lý thuyết đạo đức mới đối chọn với lý thuyết đạo đức về công lý mà
nam giới đã xây dựng nên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm - Một điển hình của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học
75 TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011 LÝ THUYẾT ðẠO ðỨC VỀ SỰ QUAN TÂM - MỘT ðIỂN HÌNH CỦA CÁCH TIẾP CẬN NỮ QUYỀN TRONG ðẠO ðỨC HỌC Nguyễn Văn Hòa Trung tâm ðào tạo Từ xa, ðại học Huế Nguyễn Việt Phương Trường ðại học Khoa học, ðại học Huế TÓM TẮT Vào nửa sau thế kỷ XX, ở phương Tây ñã hình thành một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu ñạo ñức - cách tiếp cận nữ quyền. Khi nghiên cứu về các vấn ñề ñạo ñức, các nhà tư tưởng nữ quyền ñã ñề xuất một lý thuyết ñạo ñức mới dựa trên sự quan tâm với tư cách là loại hình ñối chọn với lý thuyết ñạo ñức về công lý mà theo họ là ñậm màu ñịnh kiến giới. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích nội dung của lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñể qua ñó thấy ñược nét ñặc sắc của cách tiếp cận nữ quyền trong ñạo ñức học. 1. ðặt vấn ñề ðạo ñức học hay triết học ñạo ñức là lĩnh vực học thuật ñã có lịch sử hình thành phát triển khá lâu ñời ở phương Tây, song lại hiếm khi chú ý ñến tiếng nói về nữ giới. Nữ giới hầu như vắng mặt trong truyền thống ñạo ñức học phương Tây. Sự vắng mặt ấy cũng phần nào chứng minh một sự thật là các lý thuyết ñạo ñức của nam giới ñã thống trị trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nền văn minh phương Tây, cả về mặt phương pháp lẫn khái niệm. Sự thống trị ấy ñã gây nên những bất cập trong việc giải quyết các vấn ñề ñạo ñức. ðể giải quyết bất cập này, vào thập niên 60 thế kỷ XX, ở phương Tây ñã xuất hiện một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu các vấn ñề của ñạo ñức học - cách tiếp cận nữ quyền (feminist approach). Ngay từ khi ra ñời, cách tiếp cận này ñã giới thiệu một lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm (ethics of care) với tư cách là một ñiển hình của lý thuyết ñạo ñức mới ñối chọn với lý thuyết ñạo ñức về công lý mà nam giới ñã xây dựng nên. 2. Nội dung Lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ngay từ khi mới ra ñời ñã gây ra một tiếng vang trong giới học thuật lúc bấy giờ. Người ñầu tiên ñề xướng lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm là nhà tâm lý học, nhà triết học ñạo ñức Mỹ Carol Gilligan với tác phẩm nổi tiếng Từ một tiếng nói khác (In a different voice). Sau ñó, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñã ñược các nhà triết học nữ quyền bàn luận, phát triển và ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của ñời sống xã hội như bảo vệ sức khỏe cộng ñồng, giáo dục, chính trị, 76 pháp luật và quan hệ quốc tế... Sự phát triển về mặt triết học của lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm tập trung làm rõ khả năng ñem lại một loại ñạo ñức ñối chọn với các lý thuyết ñạo ñức về công lý (ethics of justice) ñang chi phối nền ñạo ñức học phương Tây, tiêu biểu nhất là ñạo ñức học của Kant và lý thuyết ñạo ñức của chủ nghĩa công lợi (utilitarianism). Khi ñề xuất khái niệm "sự quan tâm" trong ngữ cảnh ñạo ñức học, các nhà tư tưởng nữ quyền lưu ý rằng, sự quan tâm ở ñây không ñơn thuần là vấn ñề thuộc về tình cảm, mà còn bao hàm phương diện nhận thức. Trong cách hiểu này, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm có thể cho phép cảm xúc và sự ñồng cảm thực hiện vai trò quan trọng ñối với việc thiết lập một quyết ñịnh ñạo ñức. ðây là vấn ñề ñã bị loại bỏ trong truyền thống triết học ñạo ñức về công lý. Trong cách nhìn của các nhà tư tưởng nữ quyền, bản thân khái niệm "sự quan tâm" là một khái niệm "mở" ñối với những kiến giải và phân tích. Nel Noddings cho rằng, sự quan tâm là ngôn ngữ tự nhiên của nữ giới. Bà hiểu thuật ngữ "quan tâm" không phải trong ngữ cảnh các cá thể riêng biệt mà trong ngữ cảnh "cặp ñôi" (pair), trong ñó bao gồm người quan tâm (one-caring) và người ñược quan tâm (one-cared). Một số nhà tư tưởng nữ quyền khác thì lại "mở" sự quan tâm ñến một khái niệm rộng hơn là "sự quan tâm ñến những người khác" ("caring for others"). Ở ñây, người khác không có sự phân biệt về mặt giới tính, chủng tộc, dân tộc, ñịa vị xã hội. Các công trình nghiên cứu về ñạo ñức từ góc nhìn nữ quyền chỉ ra rằng, trong lĩnh vực triết học ñạo ñức, nam giới có khuynh hướng dựa vào những nguyên lý trừu tượng và truy tìm những mục ñích phổ quát. Ngược lại, nữ giới thường chú ý hơn ñến những vấn ñề ñạo ñức mang tính riêng tư và cụ thể như sự quan tâm (care), các mối quan hệ cá nhân và vấn ñề không làm tổn thương người khác, sự cảm thông giữa các nhân vị và những vấn ñề ñạo ñức thường nhật khác như phân biệt ñối xử ñối với nữ giới, vai trò của giới tính, bạo lực gia ñình, cưỡng bức tình dục, hôn nhân bất bình ñẳng. Cách tiếp cận mới này chỉ ra rằng, nữ giới có những ñặc tính riêng, và chúng không hề thấp kém hơn so với các ñặc tính của nam giới, thậm chí nhiều khi còn có giá trị ưu trội hơn. Tuy nhiên, vấn ñề ở ñây không phải ở chỗ nữ giới chối bỏ cơ hội ñạt ñến những kinh nghiệm và ñặc trưng tính cách của nam giới mà là ở chỗ xã hội ñã thất bại trong việc tiếp nhận những giá trị chỉ có trong những ñặc trưng tính cách của nữ giới. Theo lối tư duy như thế, nam giới thực sự trở thành "thước ño của vạn vật" như cách nói của nhà triết học Protagoras, còn nữ giới thì ngược lại chỉ là "chiếc thước lệch" so với "chiếc thước chuẩn" nam giới. ðể giải quyết vấn ñề này, từ nỗ lực tìm kiếm những cơ hội ñể nữ giới cạnh tranh với quan ñiểm truyền thống của nam giới, các nhà tư tưởng nữ quyền muốn kêu gọi sự bình ñẳng trong các vấn ñề ñạo ñức và sự tôn trọng ñối với những mối bận tâm ñặc trưng của nữ giới. Cách tiếp cận nữ quyền trong ñạo ñức ñã mang lại một nội dung rất phong phú và ñặc sắc, trong ñó ñiển hình là lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm. Lý thuyết này bao hàm những nội dung cụ thể sau: 77 Thứ nhất, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñặc biệt chú ý ñến ý nghĩa quan trọng về mặt ñạo ñức của việc ñáp ứng nhu cầu của những người có quan hệ thân thuộc mà chúng ta phải có trách nhiệm quan tâm như con cái, cha mẹ, anh chị em trong gia ñình Lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm thừa nhận, con người luôn gắn liền vào cuộc sống của mình và những tuyên bố ñạo ñức về ñiều ñó cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta nhấn mạnh sự quan tâm, cũng như tầm quan trọng của những khía cạnh ñạo ñức trong quá trình phát triển các mối quan hệ quan tâm cho phép một con người sống tốt hơn và tiến bộ hơn bởi lẽ mọi người ñều cần ñến sự quan tâm trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Triển vọng của sự tiến bộ của con người và việc phát triển dựa trên cơ sở sự quan tâm là những ñiều cần phải nhận thức, và lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm nhấn mạnh tác dụng ñạo ñức của trách nhiệm ñể trả lời cho những nhu cầu lệ thuộc. Những người già yếu buộc phải sống phụ thuộc trong những giai ñoạn cuối ñời, hoặc như một số người ốm ñau hay mắc bệnh hiểm nghèo thì cần phải ñược quan tâm, chăm sóc trong hầu như toàn bộ phần ñời còn lại. Những quy luật ñạo ñức ñược xác lập trên cơ sở lý trí truyền thống hầu như không chú ý ñến thực tại của sự phụ thuộc của con người trong xã hội và những quy luật ñạo ñức của nó. Lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm hướng sự chú ý ñến những mối quan tâm căn bản của cuộc sống con người, ñồng thời chỉ ra những giá trị ñạo ñức có liên quan. Nó phản ñối việc xem xét sự quan tâm như là một lĩnh vực "bên ngoài tính ñạo ñức" (outside morality). Các nhà tư tưởng nữ quyền ñề xuất rằng, cách thức quan tâm ñến người khác nên ñược kết hợp với những tuyên bố về công lý phổ quát từ góc ñộ ñạo ñức. ðây là một vấn ñề mà theo họ, cần và hơn thế nên ñược khẳng ñịnh và nghiên cứu kỹ lưỡng. Thứ hai, trong quá trình nỗ lực nhận thức những ñiều mà tính ñạo ñức ñặt ra và những ñiều tốt ñẹp nhất về mặt ñạo ñức mà chúng ta thực hiện, thì lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñề cao giá trị của xúc cảm chứ không chối bỏ nó. Cố nhiên, không phải toàn bộ xúc cảm ñều ñược xem xét từ góc nhìn giá trị, song trái ngược với những cách tiếp cận ñạo ñức học duy lý ñang thịnh hành, thì trong lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm, những trạng thái xúc cảm như sự ñồng cảm, tình yêu thương... ñược nhìn nhận như là những trạng thái tình cảm ñạo ñức "cần ñược nuôi dưỡng không chỉ giúp ích trong việc bổ sung cho tiếng nói của lý tính mà còn ñể xác ñịnh một cách chính xác hơn những ñòi hỏi của tính ñạo ñức"1. Thậm chí, giận dữ với tư cách là một thành tố của sự phẫn nộ ñạo ñức (moral indignation) cũng có thể ñược thừa nhận mỗi khi con người bị ñối xử bất công và phi nhân tính, và nó cũng có thể góp phần (chứ không phải là ngăn cản) tác thành một sự kiến giải thích hợp về những khuyết ñiểm ñạo ñức. ðiều ñó không ñồng 1 See: Virginia Held, The Ethics of care: Personal, Political, and Global, New York: Oxford University Press, 2006, page 10. 78 nghĩa là xúc cảm sống ñộng có thể trở thành một người dẫn ñường ñến tính ñạo ñức, song những xúc cảm ấy cần ñược nhận thức và giáo dục ñể có thể phát huy ñược tầm quan trọng của nó trong ñời sống ñạo ñức của con người. Một ñiểm ñáng chú ý là trong viễn tượng của sự quan tâm, những nghiên cứu ñạo ñức hoàn toàn dựa trên cơ sở những suy luận duy lý trở nên còn không ñầy ñủ và thiếu căn cứ. Trong khi các lý thuyết ñạo ñức duy lý phủ nhận hoặc ñem những hình thái cảm xúc sống ñộng của con người ra phán xét tại tòa án của lý tính, và sau cùng là kết tội những cảm xúc vị kỷ (egoistic feelings) ấy là kẻ gây phá hoại hoặc kìm hãm ñối với những chuẩn mực ñạo ñức phổ quát, thì ngược lại, trong lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm, những xúc cảm và năng lực liên hệ ñược ñịnh ñúng như giá trị của chúng, qua ñó cho phép những cá nhân ñược sống một cách tự do trong ngữ cảnh liên nhân vị (interpersonal situation) và có thể hiểu ñược những gì là tốt nhất ñối với họ. Tuy nhiên, rắc rối là ở chỗ, trong thực tế những xúc cảm ñôi khi cũng có thể trở nên lầm lạc và tồi tệ. Chẳng hạn như sự quan tâm dành cho người khác một cách thái quá thì nhiều khi lại dẫn ñến phiền phức và khó chịu vì ñời sống riêng tư bị xâm phạm, hoặc dễ gây ra nơi người ñược quan tâm một cảm giác bị chi phối. ðể tránh ñiều ñó, nghiên cứu nữ quyền về ñạo ñức ñưa ra yêu cầu: "Sự quan tâm là cần thiết, nhưng ñiều chúng ta cần là một lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm, chứ không phải là bản thân sự quan tâm... Những khía cạnh và những kiến giải khác nhau về sự quan tâm và những mối quan hệ quan tâm cần thiết phải ñược ñặt thành vấn ñề và ñánh giá trong các khảo cứu ñạo ñức, chứ không ñơn giản chỉ là quan sát và mô tả"2. Nghĩa là, phương cách ñể quan tâm ñạt ñược hiệu quả và hữu ích thì cần phải quan tâm một cách có ñạo ñức và phải sự quan tâm ấy phải ñược ñặt trong một ngữ cảnh ñạo ñức. Thứ ba, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm bác bỏ cách xem xét của những lý thuyết ñạo ñức duy lý truyền thống. Theo suy nghĩ của các nhà tư tưởng nữ quyền, trong các lý thuyết ñạo ñức duy lý, lập luận về một vấn ñề ñạo ñức thì càng trừu tượng càng tốt. Vì thế, càng tránh xa những ñịnh kiến và sự ñộc ñoán, thì càng tiến gần hơn ñến việc ñạt ñược tính vô tư. Lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm tự nó luôn tôn trọng những người có mối quan hệ thân thuộc trong hiện thực. Nó "ñặt vào ngoặc" những quy tắc trừu tượng và phổ quát của các lý thuyết ñạo ñức duy lý. Theo lý giải của các nhà tư tưởng nữ quyền, những lý thuyết ñạo ñức duy lý khi xem xét về những mối quan hệ thân thuộc (ví dụ như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái) thì thường không nói bất cứ ñiều gì về những mối quan hệ sống ñộng, cụ thể và hiện thực, mà xem những mối quan hệ ấy như là ñiều ñã ñược thừa nhận ñồng thời dành cho chúng một ñịa vị ưu tiên mà một người có thể có. Họ còn có xu hướng thừa nhận một nghĩa vụ chung, phổ quát cho tất cả các bậc cha mẹ trong việc quan tâm, chăm sóc con cái. Như vậy, các nhà ñạo ñức 2 See: Virginia Held, Ibid, page 11. 79 học duy lý giả ñịnh không có sự liên hệ hiện thực nào giữa các cá nhân. Không ñồng ý với quan ñiểm truyền thống ñó, quan ñiểm ñạo ñức về sự quan tâm chú trọng ñến tính cụ thể của các mối quan hệ hiện thực hơn là nghe theo tiếng gọi của một lý tính trừu tượng phổ quát. So sánh hai kiểu quan ñiểm ñạo ñức này, Kittay và Mayer cho rằng, một tính ñạo ñức về các quyền và lý tính trừu tượng khởi ñầu với một thực thể ñạo ñức tách biệt với người khác và thiết lập quyết ñịnh một cách ñộc lập với những nguyên lý ñạo ñức phổ quát. Trái lại, một tính ñạo ñức về trách nhiệm và quan tâm khởi ñầu với một bản ngã nằm trong một mạng lưới các mối quan hệ với người khác, và những suy tư ñạo ñức cũng nhắm ñến khẳng ñịnh những mối quan hệ ấy. Chính những mối quan hệ này, ñến lượt mình lại quy ñịnh trách nhiệm ñạo ñức của con người trong ñời sống xã hội. Với hầu hết những người chủ trương lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm, sự kết hợp tuyên bố ñạo ñức về người khác có thể có giá trị ngay cả khi nó xung ñột với những phán ñoán ñạo ñức phổ quát hóa ñược xây dựng bởi các lý thuyết ñạo ñức. Vì thế, trong mối quan hệ giữa quan tâm và công lý, tình bằng hữu và tính vô tư, lòng trung thành và tính phổ quát, luôn tồn tại sự xung ñột tiềm tàng. Nhưng với một số khác, sự xung ñột ñó là không cần thiết nếu những phán ñoán phổ quát hòa hợp với những chuẩn mực của sự quan tâm vốn không ñược nhìn nhận trước ñây. Annette Baier ñã chỉ ra sự khác biệt giữa phương thức tiếp cận nữ quyền về tính ñạo ñức và phương thức tiếp cận trong ñạo ñức học của Kant, ñồng thời phê phán cái nhìn của Kant cho rằng nữ giới khiếm khuyết về năng lực ñạo ñức do sự lệ thuộc của họ vào xúc cảm hơn là lý tính. A. Baier viết: "Nơi Kant kết luận 'thật tồi tệ với nữ giới', thì chúng ta có thể kết luận khác rằng "thật tồi tệ với sự cứng nhắc của nam giới" về những kỹ xảo trong những ñiều luật ñã ñược soạn thảo, về ñầu óc quan liêu của sự tôn thờ quy tắc phổ quát, và sự cường ñiệu hóa của nam giới về tầm quan trọng của sự ñộc lập vượt qua sự phụ thuộc lẫn nhau"3. Còn Margaret Walker (1915-1998) thì ñối lập cái mà bà gọi là "sự thông hiểu ñạo ñức nữ quyền" (feminist moral understanding) với cái mà về mặt truyền thống ñược xem là "tri thức ñạo ñức" (moral knowledge). Bà cho rằng, thông hiểu ñạo ñức như là sự chú tâm và thấu hiểu mang tính ngữ cảnh, và là sự ñồng cảm trong những suy tư ñạo ñức. Nhận thức luận ñạo ñức ñối chọn này chỉ ra, sự thông hiểu ñạo ñức sẽ giảm ñi khi hình thức của nó tiếp cận tính phổ quát thông qua sự trừu tượng hóa và khái quát hóa. Lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm hướng ñến việc hạn chế khả năng và phạm vi ứng dụng của những quy tắc trừu tượng và phổ quát trong các lĩnh vực nhất ñịnh mà ở ñó lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm tỏ ra phù hợp hơn như y tế, giáo dục, sức khỏe 3 See: Virginia Held, Ibid, page 11. 80 cộng ñồng. Theo các nhà tư tưởng nữ quyền, những quy tắc như thế ñơn giản là không còn phù hợp với những hoàn cảnh trong gia ñình và tình bằng hữu, thêm nữa những mối quan hệ trong các lĩnh vực này nên ñược ñánh giá với những ñặc tính cá nhân và cụ thể, chứ không chỉ ñơn thuần ñược mô tả và luận giải, và vì thế tính ñạo ñức không nên bị hạn chế trong các quy tắc trừu tượng. Những lý thuyết ñạo ñức duy lý có xu hướng kiến giải các vấn ñề ñạo ñức như thể chúng là những sự xung ñột giữa một bên là lợi ích cá nhân vị kỷ và bên kia là những nguyên tắc ñạo ñức phổ quát, trừu tượng. Các cực "cá nhân vị kỷ" và "tính nhân văn" ñã ñược thừa nhận, song cái trung gian nằm giữa chúng thì thường bị bỏ quên. Ngược lại, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñặc biệt chú ý ñến "cái gì ñó" nằm giữa hai cực trên. ðó là những người quan tâm một cách nhiệt thành ñến người khác mà ngay từ ñầu không màng ñến những lợi ích cá nhân của họ. Nói rõ hơn, lợi ích của họ hòa quyện làm một với lợi ích của ñối tượng mà họ hướng sự quan tâm ñến. Phản ñối cái nhìn trừu tượng, trong ngữ cảnh ñạo ñức học hoàn cảnh của tư tưởng nữ quyền, những người này hành ñộng không phải vì lợi ích của tất cả mọi người hay toàn thể loài người nói chung, mà thay vào ñó họ duy trì và không ngừng nâng cao hơn nữa mối quan hệ hiện thực giữa bản thân họ và những những con người cụ thể khác. Những con người trong mối quan hệ quan tâm ñang hành ñộng cho chính mình ñồng thời cũng cho người khác. ðặc ñiểm tính cách của họ vì vậy cũng không phải là vị kỷ cũng không hoàn toàn là vị tha (altruistic). ðó là những sự tuyển chọn trong một viễn tượng ñầy mâu thuẫn. Tuy nhiên, sự lành mạnh của mối quan hệ quan tâm liên quan ñến sự lành mạnh có tính chất hợp tác của những con người cụ thể trong các mối quan hệ và cũng là của chính bản thân các mối quan hệ ñó. Lý thuyết ñạo ñức về quan tâm ñặc biệt thừa nhận giá trị ñạo ñức và tầm quan trọng của các mối quan hệ gia ñình và bằng hữu, cũng như nhu cầu về một sự chỉ dẫn ñạo ñức trong những lĩnh vực này ñể hiểu ñược cách thức trong ñó các mối quan hệ hiện hành biến ñổi và những mối quan hệ mới nảy sinh. Trên cơ sở ñó góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt ñẹp, xây dựng những giá trị mới của con người phù hợp với sự tiến bộ và công bằng của xã hội. Nghiên cứu giá trị của những mối quan hệ trong các hoàn cảnh với tư cách là những mối quan hệ mang tính chất cá nhân, lý thuyết ñạo ñức quan tâm thường tập trung soi xét những trật tự chính trị và xã hội dưới ánh sáng của những giá trị ấy. Trong một hình thức phát triển cao hơn, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm với tư cách là một ñiển hình của nghiên cứu nữ quyền về ñạo ñức yêu cầu ñưa ra những kiến nghị nhằm biến ñổi triệt ñể xã hội hiện hành. Lý thuyết này không chỉ ñòi hỏi sự bình ñẳng cho nữ giới trong cấu trúc xã hội, mà xa hơn ñòi hỏi một sự nhìn nhận ñúng ñắn hơn, công bằng hơn và nhân văn hơn từ phía nam giới về những trải nghiệm ñặc trưng của nữ giới, ñể từ ñó có thể khám phá những giá trị phong phú, tầm quan trọng và ý nghĩa ñạo ñức của sự quan tâm. 81 Thứ tư, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñặt lại vấn ñề về sự phân chia ñời sống xã hội thành hai lĩnh vực tách biệt: công cộng (public) và riêng tư (private). Trong các lý thuyết ñạo ñức duy lý truyền thống thì phạm vi gia ñình thuộc về lĩnh vực riêng tư. Lĩnh vực này không liên quan ñến chính trị, mà chủ yếu dựa trên nguyên tắc tự nguyện chứ không phải ép buộc. Các nhà tư tưởng nữ quyền ñã chỉ ra rằng, nam giới ngày càng sử dụng những phương cách tế vi hơn khi dựa vào quyền lực văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội của mình ñể cấu trúc lĩnh vực "riêng tư" này nhằm kìm hãm nữ giới trong tình trạng lệ thuộc hoàn toàn về mặt kinh tế và do ñó cũng lệ thuộc về các phương diện khác (chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục). Về ñiều này, Virginia Held cho rằng, "luật pháp can thiệp một cách không do dự vào những quyết ñịnh riêng tư của nữ giới liên quan ñến sinh sản nhưng lại không nhiệt tình lắm trong việc ngăn chặn những hành ñộng thực thi quyền lực ñộc ñoán của ñàn ông bên trong thành trì của họ (gia ñình - Tg)"4. Trên cơ sở vạch ra những hạn chế trong các lý thuyết ñạo ñức truyền thống mang màu sắc duy lý, các nhà tư tưởng nữ quyền ñã góp phần làm rõ chức năng xã hội của gia ñình cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa gia ñình và xã hội, hơn nữa lên án ñịnh kiến giới, và mở ra ñiều kiện cho nữ giới tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt ñộng mang tính xã hội. Các nhà tư tưởng nữ quyền không chỉ tập trung kiến giải về mặt lý thuyết các vấn ñề ñạo ñức về sự quan tâm, mà còn chú ý ñến lĩnh vực ứng dụng của nó, hay nói cách khác, họ chú ý ñến cái gọi ñạo ñức học ứng dụng (applied ethics). Trong lĩnh vực các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia ñình, giữa gia ñình và xã hội, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm ñược các nhà tư tưởng nữ quyền ứng dụng vào việc phân tích các vấn ñề như bạo lực trong gia ñình, chăm sóc trẻ em, y tế cộng ñồng, phúc lợi xã hội, phát triển giáo dục, dân số, chính sách ñối với phụ nữ... ñó là những vấn ñề thiết thân của nữ giới, của mọi gia ñình và của mọi quốc gia. Một ñất nước sẽ giàu mạnh hơn, dân chủ hơn, công bằng hơn, văn minh hơn khi nữ giới ñược gia tăng về quyền lực và tiếng nói của họ ñược lắng nghe. Chúng ta khó có thể chấp nhận một sự áp ñặt của giới này nhằm hạn chế quyền của giới khác và duy trì quyền lực bằng cách cưỡng bức. Sự ñồng thuận có lẽ là một phương án khả quan và dễ ñược chấp nhận hơn. Hơn nữa, tính ña dạng luôn mang lại nhiều khả năng cho sự phát triển hơn tính ñơn nhất và ñộc ñoán. Các giới phải và nên ñối thoại với nhau ñể qua ñó có thể tìm ra phương án tối ưu nhất cho sự phát triển hay nói cách khác tư duy khoa học hiện ñại là tư duy phức hợp và ña hệ thống. Chính cách tiếp cận nữ quyền trong ñạo ñức học ñã phần nào nói lên ñiều ñó. 4 See: Virginia Held, Ibid, page 12. 82 3. Kết luận Ngay từ khi hình thành, cách tiếp cận nữ quyền ñã ñược vận dụng vào nghiên cứu và ñánh giá lại di sản triết học ñạo ñức truyền thống. Trên cơ sở ñó, các nhà tư tưởng nữ quyền ñã giới thiệu về một lý thuyết ñạo ñức mới, chú trọng ñến sự quan tâm với tư cách là một lý thuyết ñối chọn với lý thuyết ñạo ñức công lý. Mặc dù có những cách nhìn nhận khác nhau về lý thuyết ñạo ñức quan tâm, song những giá trị của nó cả về lý luận và thực tiễn là không thể phủ nhận. Những giá trị ñó ñến nay vẫn tràn ñầy hơi thở và nhịp ñập của cuộc sống. Ngoài những giá trị nêu trên, lý thuyết ñạo ñức về sự quan tâm còn cung cấp một phương thức tiếp cận ñộc ñáo và ñầy tính nhân văn về những vấn ñề ñạo ñức ñương ñại ñặt trong mối quan hệ với những trải nghiệm ñặc thù của nữ giới. Lý thuyết về ñạo ñức quan tâm thật gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Tiếp tục nghiên cứu về nó sẽ góp phần vào việc thực hiện thắng lợi chiến lược quốc gia về bình ñẳng giới và tiến bộ của phụ nữ trong thời kỳ ñẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện ñại hóa và hội nhập quốc tế. Chúng ta sẽ không bao giờ ñạt ñược sự tiến bộ khi nửa dân số bị gạt ra lề xã hội, bị ngăn trở trong việc hiện thực hóa tiềm năng của họ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Carol Gilligan, In a different voice: Psychological theory and women's development, Cambrigde: Harvard University Press, 1982. [2]. Virginia Held, The Ethics of care: Personal, Political, and Global, New York: Oxford University Press, 2006. [3]. Susan Sherwin, Ethics: Toward a feminist approach, Canadian Woman Studies, Vol 6, No. 2 (1985), 21-23. ETHICS OF CARE - A TYPICAL OF FEMINIST APPROACH IN ETHICS Nguyen Van Hoa Distance Training Center, Hue University Nguyen Viet Phuong College of Sciences, Hue University SUMMARY Since the second half of the twentieth century, a new approach in ethics has arisen in the West - feminist approach. Upon researching on ethical issues, feminist thinkers proposed a new ethics based on caring as an alternative mode of ethics of justice that contained gender bias. In this paper, we would focus on analyzing the content of ethics of care in order to introduce the special features of feminist approach in ethics.
File đính kèm:
- ly_thuyet_dao_duc_ve_su_quan_tam_mot_dien_hinh_cua_cach_tiep.pdf