Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi đối với tài nguyên rừng

Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và người Tà Ôi nói riêng

đều có điểm chung là “Sống dựa vào rừng, gắn bó mật thiết với rừng không chỉ về

mặt vật chất, mà còn cả những giá trị tinh thần, tâm linh”.(1) Theo quan niệm cổ

truyền của người Tà Ôi thì tài nguyên rừng được chia làm 2 loại là rừng tâm linh

và rừng khai thác sản xuất. Tất cả đều thuộc sự quản lý của cộng đồng, có nghĩa là

thuộc sở hữu cộng đồng làng bản. Ở đó cá nhân với tư cách là thành viên của bản

làng chỉ có quyền sử dụng khai thác ở một chừng mực nhất định đối với loại tài

nguyên rừng được khai thác sản xuất và cấm tuyệt đối việc khai thác sản xuất đối

với các loại rừng tâm linh.

Rừng của người Tà Ôi có “ vị trí trung gian giữa miền Bắc và miền Nam,

giữa nước ta với nước bạn Lào. Cái tính chất trung gian ấy thể hiện trong sự phân

hóa đa dạng của các thành phần khác nhau của tự nhiên, từ thổ nhưỡng, thực vật,

động vật đến khí hậu”.(2) Và rừng vùng người Tà Ôi cư trú có thêm đặc điểm nữa là

“ thấy được những cảnh rừng mang tính chất nguyên thủy của Trường Sơn Bắc,

những cánh rừng già thực sự hiểm trở và hoang vu đến mức nào”.(3)

pdf 14 trang kimcuc 7040
Bạn đang xem tài liệu "Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi đối với tài nguyên rừng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi đối với tài nguyên rừng

Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi đối với tài nguyên rừng
82 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
LUẬT TỤC VÀ TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI TÀ ÔI 
ĐỐI VỚI TÀI NGUYÊN RỪNG
 Trần Nguyễn Khánh Phong*
I. Đặt vấn đề
Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và người Tà Ôi nói riêng 
đều có điểm chung là “Sống dựa vào rừng, gắn bó mật thiết với rừng không chỉ về 
mặt vật chất, mà còn cả những giá trị tinh thần, tâm linh”.(1) Theo quan niệm cổ 
truyền của người Tà Ôi thì tài nguyên rừng được chia làm 2 loại là rừng tâm linh 
và rừng khai thác sản xuất. Tất cả đều thuộc sự quản lý của cộng đồng, có nghĩa là 
thuộc sở hữu cộng đồng làng bản. Ở đó cá nhân với tư cách là thành viên của bản 
làng chỉ có quyền sử dụng khai thác ở một chừng mực nhất định đối với loại tài 
nguyên rừng được khai thác sản xuất và cấm tuyệt đối việc khai thác sản xuất đối 
với các loại rừng tâm linh.
Rừng của người Tà Ôi có “vị trí trung gian giữa miền Bắc và miền Nam, 
giữa nước ta với nước bạn Lào. Cái tính chất trung gian ấy thể hiện trong sự phân 
hóa đa dạng của các thành phần khác nhau của tự nhiên, từ thổ nhưỡng, thực vật, 
động vật đến khí hậu”.(2) Và rừng vùng người Tà Ôi cư trú có thêm đặc điểm nữa là 
“thấy được những cảnh rừng mang tính chất nguyên thủy của Trường Sơn Bắc, 
những cánh rừng già thực sự hiểm trở và hoang vu đến mức nào”.(3)
Chính vì những đặc điểm nổi bật đó mà từ lâu cộng đồng dân tộc Tà Ôi đã 
đặt ra những quy ước, luật tục liên quan đến việc sở hữu, khai thác và bảo vệ tài 
nguyên rừng. Đồng thời, người Tà Ôi cũng có những tri thức bản địa phong phú đã 
cùng với luật tục góp nên việc bảo vệ tài nguyên rừng của họ một cách bền vững.
II. Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi đối với tài nguyên rừng 
1. Các loại rừng trong đời sống của người Tà Ôi
1.1. Rừng tâm linh
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu thì “Rừng tâm linh là kho dự trữ 
nguồn lương thực dồi dào (rừng đầu nguồn), là nơi họ thể hiện sự thành kính của 
mình đối với các đấng Thần linh/Yang, là nơi cấm mọi người nếu không có phận 
sự thì không được đến (rừng cấm) và cũng là nơi họ chôn người chết, trả linh hồn 
người chết về với rừng (rừng ma)”.(4) Loại rừng này không chỉ có ý nghĩa về mặt 
kinh tế ở phương diện khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, duy trì và tạo ra 
* Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế.
MÔI TRƯỜNG - SINH THÁI
83Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
các môi trường diễn xướng mang tính lễ hội, lễ nghi tín ngưỡng, gắn với các phong 
tục tập quán, các kiêng cữ trong sinh hoạt, sản xuất, ứng xử về mặt văn hóa, xã 
hội; mà còn có ý nghĩa về mặt môi trường - là một dạng của lâm nghiệp theo hướng 
bảo tồn.(5) Đây là một nét quan trọng trong việc hình thành nên bản sắc văn hóa 
truyền thống của một vùng đất mà Thừa Thiên Huế - nơi cộng đồng cư dân Tà Ôi 
sinh sống tập trung nhiều nhất ở Việt Nam - là một thí dụ điển hình bởi đây là hệ 
sinh thái lâm nghiệp quan trọng. “Ở đó, người dân, từ xưa tới nay, sống theo mô 
hình săn bắt - hái lượm. Sau này mới tiếp thu lối sống định canh, định cư, làm quen 
với mô hình VACR (vườn - ao - chuồng - rừng), VCR (vườn - chuồng - rừng), VR 
(vườn - rừng), theo phương thức nông lâm kết hợp. Lối sống dựa vào điều kiện tự 
nhiên miền núi ấy đã hình thành những cộng đồng dân cư có phong tục, tập quán, 
tín ngưỡng... khác với cư dân vùng đồng bằng; càng làm phong phú thêm diện mạo 
lịch sử, văn hóa ở Thừa Thiên Huế”.(6) 
Qua những nhận xét trên chúng tôi thấy rằng, rừng tâm linh của người Tà Ôi 
có 3 loại là: Rừng đầu nguồn (Kốh a vưal dạc), Rừng thiêng (Trừng xa) và Rừng 
ma (Ktrưng).
Rừng đầu nguồn là khu rừng thuộc sở hữu chung của nhiều làng, rừng này 
đều ở vùng đầu nguồn sông, suối, nơi có nhiều cây cổ thụ(7) góp phần chống xói 
mòn và bảo vệ nguồn nước. Đây là nơi các vị thần trú ngụ và do các vị thần quản lý. 
Rừng thiêng không chỉ ở người Tà Ôi mà ở các tộc người khác đều có loại 
rừng này, mỗi dân tộc quan niệm rừng thiêng theo những tích khác nhau tùy theo 
tập quán và cách sống của từng cộng đồng tộc người. Riêng người Tà Ôi quan niệm 
về rừng thiêng theo những cách nghĩ khác nhau. Thứ nhất, rừng thiêng còn gọi là 
rừng cấm, là khu rừng có chôn người chết tức là nghĩa địa; Thứ hai, rừng thiêng là 
những khu rừng có người tự tử hay khi đi săn bị sa bẫy chết, thú vồ hoặc chết vì bị 
cây đè thường chôn ở những khu rừng sâu; Thứ ba, rừng thiêng còn là những khu 
rừng có sự tích rùng rợn nào đó được người xưa kể lại.(8) Rừng thiêng còn được 
hiểu là “loại rừng có sự trú ngụ của các vị thần linh đầy quyền năng mà con người 
ngưỡng vọng, sùng kính, là loại rừng có nhiều cây to (thường ở đầu nguồn nước), 
là nơi ở của các loài động vật hung dữ (rắn trắng, trăn to, thuồng luồng, hổ). 
Rừng thiêng (hay rừng ma) là nơi trú ngụ của các Yang, không ai được đụng đến, 
thường là rừng đầu nguồn. Đây thực chất là kinh nghiệm giữ rừng đầu nguồn được 
tích lũy lâu đời của người dân, bọc bên ngoài một lớp vỏ tín ngưỡng”.(9)
Rừng ma là loại rừng có nhiều cây đa, cây xoài, cây dâu, cây chôm chôm. 
“Là nơi chôn cất người chết của các tộc người thiểu số ở miền núi. Đó là không 
gian linh thiêng của thần linh, của ông bà tổ tiên (rừng ma của người chết tốt(10)), 
nhưng đồng thời cũng là không gian của ma quỷ, ác thần (rừng ma của người chết 
xấu(11))”.(12) Để bảo vệ những khu rừng này người Tà Ôi đã xây dựng nên những 
truyền thuyết, huyền thoại về các khu rừng hay một vài loài cây, loài động vật 
84 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
hoang dã nào đó. Bằng hình thức truyền miệng, các câu chuyện đó được lưu truyền 
từ đời này sang đời khác, và những khu rừng đó trở thành thiêng hóa, thần thánh 
hóa, không ai dám xâm phạm.
1.2. Rừng khai thác sản xuất
Đối với người Tà Ôi, cách hiểu đơn giản nhất về rừng khai thác đó chính là 
những khu rừng ở gần làng bản, cây cối thuộc dạng thưa thớt, tán thấp, nơi tập 
trung nhiều loại thú nhỏ, bò sát, chim muông. Họ sử dụng rừng này vào các mục 
đích canh tác làm nương rẫy, chăn nuôi, làm chòi giữ lúa và các nhà kho để lúa, 
ngô. Người Tà Ôi đã biết tận dụng nguồn tài nguyên rừng khai thác sản xuất để 
hình thành nên những khu vườn đồi, vườn rừng phần nào đã bảo đảm được lương 
thực cho cộng đồng.
2. Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi trong việc sở hữu tài nguyên rừng 
Với người Tà Ôi, mỗi khu rừng đều có chủ riêng để quản lý, khai thác, săn 
bắt. Ai từ nơi khác đến muốn có đất làm rẫy phải cúng xin thần rừng, thần sông, 
thần suối bằng vật có giá trị nhất của mình như con trâu, chum ché, nồi đồng... và 
nhiều khi phải gả con gái cho nhà có đất, có rừng. Nếu người chưa có con cái thì 
vỗ bụng tự hứa sau này sẽ cho con cái của mình cho người chủ đất, chủ rừng (kể 
cả con trai). Từ đó ta thấy rừng luôn có chủ, được truyền từ đời này sang đời khác, 
được quản lý và bảo vệ cẩn thận.
Trong luật tục của người Tà Ôi không tồn tại hình thức thừa kế hay trao đổi, 
mua bán rừng mà chủ đã và đang sở hữu. Khi không còn sử dụng nữa thì chỉ cần 
thông báo cho già làng và mọi người biết để có những thành viên khác vào sở hữu. 
Khi có những hành vi vi phạm, tranh giành quyền lợi đất rừng thì chủ làng sẽ là 
người đứng ra tổ chức xử phạt, cúng lễ với tư cách là người đại diện dân làng và 
thay mặt các vị thần quản lý khu rừng đó. Ngoài ra, “chủ làng phải có trách nhiệm 
chỉ ra ranh giới của những khu rừng cấm, rừng thiêng, rừng đầu nguồn để dân 
làng biết. Đó chính là những dấu hiệu quy ước có tính chất cấm cữ. Cũng như chỉ 
ra những ranh giới, không gian rừng thuộc làng mình và làng khác bằng các dấu 
mốc như con đường, khe suối, đồi núi, cây cổ thụ”.(13)
Những người ngoài làng có quan hệ hôn nhân với người trong làng hoặc đã có 
thời gian cư trú khá thường xuyên trong làng thì sẽ được hưởng quyền lợi giống như 
các thành viên khác của làng. Người trong làng bị mang tội nặng, đã bị đuổi ra khỏi 
làng thì coi như họ bị mất quyền lợi trong việc sở hữu tài nguyên rừng của làng. 
Rừng thuộc quyền sở hữu của nhiều làng thì mọi người không được làm rẫy ở 
đó, không được săn bắt với quy mô lớn, cấm chặt phá một cách bừa bãi, mà ngược 
lại người dân của các làng có thể tự do đến khai thác củi, hái rau, nấm, trái cây, bẻ 
măng, lấy mật ong và đánh bắt cá.
Đối với những khu rừng đầu nguồn ở xa các nơi cư trú, có quy mô rộng lớn, 
giàu tài nguyên, nơi tiếp giáp ranh giới chung giữa các làng, quyền sở hữu quản lý 
85Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
thuộc về cộng đồng của liên làng, thường có 2 làng trở lên. Mọi việc khai thác, sử 
dụng liên quan đến những khu rừng này đều phải được sự đồng ý của chủ các làng.(14) 
Trong hệ thống rừng thiêng của người Tà Ôi có 3 loại: (15)
- Kốh Sã là khu rừng thuộc sở hữu chung của nhiều làng và cấm không được 
phát rẫy, không được nói tục tĩu khi đi vào rừng này. Ai vi phạm thì bị phạt trâu bò. 
Nhưng luật tục không cấm săn bắt, khai thác lâm sản ngoài gỗ tại khu rừng này. 
Đây là khu rừng được đồng bào thờ cúng thường xuyên.
- Kốh tâng kỉn là khu rừng thuộc sở hữu chung của nhiều làng. Tại đây luật 
tục cấm không được phát rẫy, không được săn bắt, lấy mây, đót, bẻ măng, hái nấm, 
không bẻ cây cối trong rừng cho dù đó chỉ là một cành hoặc thân cây nhỏ, không 
được phóng uế tại khu rừng này. Ai vi phạm cũng bị phạt nặng bằng trâu, bò. Khi 
săn được hổ hoặc là 2 làng có xích mích với nhau, cần hòa giải, đồng bào thường 
tổ chức lễ cúng lớn ở khu rừng này. Lễ vật để dâng cúng gồm có lợn, gà, rượu, xôi 
và thịt thú rừng săn được.
- Trạm Kănéa là khu rừng thuộc sở hữu riêng của từng làng. Rừng này là nơi 
dân làng tổ chức lễ cúng hằng năm. Lễ cúng gồm có lợn, gà, dê để cầu xin thần 
Rừng phù hộ cho dân làng. Người Tà Ôi quan niệm rằng khu rừng này là nơi trú 
ngụ của ma rừng nên cấm không ai được phát rẫy, không được săn bắt thú, không 
được lấy mây, đót, không được phóng uế, không được bẻ gãy cây cối. Ai vi phạm 
thì phạt nặng bằng trâu, bò để làm lễ cúng tạ lỗi với thần rừng.
Còn liên quan đến rừng ma thì loại rừng này không ai được phát rẫy, ai cố 
tình vi phạm sẽ phạt bằng lợn, gà trống để làm lễ cúng làng, chủ làng là người đứng 
ra cúng để tạ tội với thần linh.
3. Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi trong việc khai thác tài nguyên rừng 
Người Tà Ôi quy định đối với rừng đầu nguồn, chỉ được phép khai thác với 
tư cách là tập thể làng và phải sử dụng vào mục đích chung, công trình chung như 
làm cột đâm trâu, nhà Rông, cổng làng, cổng nghĩa địa đều phải được sự bàn bạc 
thống nhất giữa các làng. Lễ cúng khi khai thác gỗ phải có 1 con trâu, 1 con dê, 1 
con lợn, 1 chum rượu, 10 ống cơm nếp, 1 xâu cá nướng, 1 con gà để các vị thần 
về chứng giám rồi sẽ đồng ý cho chặt gỗ. Ở những khu rừng có chung ranh giới 
giữa các làng, cứ định kỳ 3 năm 1 lần, dân làng phải tổ chức lễ cúng liên làng vào 
thời gian được thỏa thuận giữa các làng. Mỗi làng phải nộp lễ vật 1 con dê trắng, 1 
con dê đen, 1 con trâu trắng, 1 con trâu đen, 1 con lợn trắng, 1 con lợn đen, rượu, 
xôi, cá nướng, bánh nếp. Nếu làng này đông dân phải sang làng khác mượn đất xin 
làm rẫy thì lễ vật phải nộp gấp đôi. Lễ cúng thường tổ chức ở vùng đất bằng gần 
khu rừng hoặc sông suối, tất nhiên là phải chọn ngay đúng trung tâm giáp với rừng 
của các làng. Bàn thờ được dựng ba tầng bằng tre nứa với những vòng hoa, cây cối 
tượng trưng, xung quanh bàn thờ thường là hoa bắp, gié lúa, cây sim, cây tre, cây 
86 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
mía, cây ổi, cây cọ, cây đoác, cây đùng đình. Tầng thứ nhất, người ta dọn thịt dê, 
trâu; tầng thứ hai dọn thịt lợn; tầng thứ ba dọn thịt gà cùng các lễ vật rượu, cơm, 
nước.(16) Khi cúng rừng liên làng thì mỗi chủ làng phải là chủ lễ, ai lớn tuổi nhất thì 
người đó được cúng cầu khấn trước, người nhỏ tuổi cúng sau cùng. Còn dân của 
các làng phải ngồi xếp bàn xung quanh bàn cúng tự cầu khấn xin sự làm ăn, khai 
thác sản vật từ rừng được suông sẻ. Sau khi cúng xong mới được mời ăn uống vui 
vẻ, kết nghĩa bạn bè, gia đình với nhau.
Luật tục cũng quy định một số trường hợp cho phép cá nhân được chặt gỗ ở 
rừng đầu nguồn, ví dụ như dùng để đóng thuyền, nhưng cá nhân đó phải là người 
tài giỏi trong nghề sông nước và cây gỗ đó tuyệt đối không được sử dụng vào các 
mục đích khác như bán, cho, hoặc trao đổi, nếu vi phạm sẽ bị phạt nặng. Trong 
trường hợp dùng để làm nhà hay đóng quan tài phải xin phép chủ làng. Khi được 
sự đồng ý phải tổ chức lễ cúng với ý nghĩa chịu phạt. Đây là quy định có tính chất 
bắt buộc, với ý nghĩa là lễ đền bù xin thần linh tha lỗi. Loại gỗ này cá nhân cũng 
không được cho, trao đổi mua bán với ngoài bản nếu không sẽ bị làng phạt.(17) Theo 
luật tục các thành viên trong làng phải có nghĩa vụ thực hiện, trách nhiệm bảo vệ 
những khu rừng đó khi có hành vi xâm phạm, phá hoại hay xâm lấn rừng.(18) 
Cá nhân trước khi muốn khai thác rừng thì phải được chủ làng và các thành 
viên khác của hội đồng già làng đồng ý, đồng thời phải báo cho các chủ hộ gia 
đình khác biết. Khi cá nhân đi khai thác gỗ ở rừng đầu nguồn thì phải xin phép 
chủ làng và chủ làng đồng ý mới được đi, có lễ cúng nhỏ ở nhà của chủ làng được 
hiểu là chịu phạt. Phải có lễ cúng ở rừng gồm gà 1 con, lợn nhỏ 1 con, cá nướng 
1 xâu, rượu 1 chum, cơm nếp 5 ống. Gỗ sau khi khai thác về cá nhân không được 
trao đổi, mua bán với người ngoài làng nếu vi phạm thì sẽ phạt nặng gấp 10 lần số 
gỗ đã khai thác.
Đối với rừng được phép khai thác sản xuất, cá nhân được quyền tự do phát 
rẫy, chặt gỗ, săn bắt theo ý muốn nhưng phải chịu sự quản lý của chủ làng, cá nhân 
chỉ có quyền khai thác và chiếm hữu(19) và tất nhiên phải có ý thức bảo vệ nguồn lợi 
tự nhiên. Cây trong rừng có người làm dấu là cây có chủ. Ai tự ý chặt, đồng nghĩa 
với việc ăn cắp cây của người ta. 
Đối với các nguồn lợi từ rừng, luật tục của người Tà Ôi có những quy định 
chặt chẽ về vi phạm cũng như hình phạt, xác định quyền sở hữu và các quan hệ 
sản xuất. Cụ thể khi tổ chức đi săn cả làng hay một nhóm tập thể, thú săn được sẽ 
thuộc về sở hữu chung của cả làng hay một nhóm người. Ở đây tính cộng đồng 
được phản ánh khá rõ trong tổ chức săn bắt cũng như trong phân chia sản phẩm. 
Tất cả những ai tham gia đều được hưởng quyền lợi, được chia phần số lượng ít 
hay nhiều tùy thuộc vào công sức và vũ khí đóng góp như chó săn, giáo mác, lưới, 
gậy gộc, cung tên. Cách thức săn bắt này cho thấy tính chất bình đẳng trong cộng 
87Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
đồng. Sản phẩm săn bắt tập thể, không một cá nhân nào được quyền chiếm hữu 
định đoạt. Trong trường hợp nếu cá nhân nào chiếm làm của riêng mang bán hoặc 
trao đổi, theo luật tục quy định, phải trả lại sản phẩm đó và phạt lợn để cúng thần, 
vì nếu không lần sau thần sẽ phạt không cho làng săn được thú. Số thịt nộp phạt 
cũng được phân chia theo phần người có công, theo phần người có vũ khí đáng 
được hưởng. 
Đối với việc đi săn cá nhân, thú săn được thuộc về cá nhân đó vì vậy họ có 
quyền bán, trao đổi hay tặng cho người khác kể cả người ngoài làng. Nhưng nếu 
trong quá trình săn bắt, cá nhân đó sử dụng vũ khí của làng thì phải chia cho làng, 
nếu chiếm hữu hết sẽ bị dân làng lên án và lần sau làng sẽ không cho sử dụng vũ 
khí của làng và không được đi săn cùng làng. Trong khi săn bắt, đuổi thú, thú bị 
thương chạy vào rẫy người  ... Ngoài ra một số loài 
cây thuốc có giá trị cao được thị trường tiêu thụ đã giúp cho người Tà Ôi có thêm 
thu nhập như sa nhân, chè vằng, khúc khắc.(21)
Nhóm lâm sản ngoài gỗ cho nguyên liệu thủ công mỹ nghệ gồm các loại nứa, 
tre, giang, lồ ô, song mật, mây nếp. Người dân địa phương thường sử dụng các loài 
cây này để làm vật liệu làm nhà hoặc đan lát, làm đồ gia dụng. 
Nhóm lâm sản ngoài gỗ làm thức ăn chăn nuôi đó là các loại khoai mì, chuối 
rừng, rau tàu bay, củ mài, củ từ, củ nưa. Đối với người Tà Ôi, việc chăn nuôi chủ 
yếu sử dụng những loài cây mọc tự nhiên làm nguồn thức ăn cho gia súc là một 
thói quen có từ lâu đời cho nên những loại thức ăn trên là phù hợp với vật nuôi. 
4. Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi trong việc bảo vệ tài nguyên rừng 
Rừng đầu nguồn là do các vị thần quản lý do đó cấm khai thác gỗ, cấm phát 
rẫy, không được chăn thả súc vật, không được săn bắt thú, không phóng uế, không 
nói tục tĩu khi đi vào rừng, không gây tiếng động bằng các âm thanh của dụng cụ 
săn bắt, dụng cụ lao động, nhạc cụ, tiếng hú, hò hét của con người, không được nhổ 
nước bọt vào khu vực rừng cấm vì nếu làm như vậy sẽ gây sự sỉ nhục, ô uế cho thần 
rừng, phụ nữ cũng không được vào rừng này. Rừng đầu nguồn có thể cúng hằng 
năm hoặc 5 năm, 10 năm cúng 1 lần. Luật tục quy định như sau: Xung quanh khu 
rừng khoảng 1km không ai được phát rẫy, ai vi phạm phạt trâu bò gà và chủ làng 
chịu trách nhiệm đứng ra cúng. Nếu ai phá rừng ma, rừng thiêng, rừng đầu nguồn 
thì sẽ bị phạt trâu, dê, gà, lợn và rượu, vì đã xúc phạm đến không gian sống của 
các vị thần ở trong rừng. 
Ngoài ra, người Tà Ôi còn rất kiêng kị người nào tự ý chặt, đốt cháy các cây 
cổ thụ như những loại cây đa, chò, lim, sến, kiền kiền Theo quan niệm của họ, 
đó là các loại cây lâu năm đã cùng sinh tồn với rừng, hơn nữa những cây này có 
thần linh hay hồn ma trú ngụ, vì thế chúng rất thiêng. Nếu ai phá cây cổ thụ là coi 
91Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
như phá nhà của thần linh làm cho thần linh không còn nơi trú ngụ nên bắt phạt 
dân làng, do đó dân làng hay ốm đau, chết chóc; trường hợp vậy sẽ bị phạt rất nặng 
với các hình thức như sau:
- Người trong làng phá: nếu cây bị cháy sém thì phải nộp cho làng 1 con dê, 
1 con gà và 1 chum rượu; trường hợp cây ngã hoặc cháy rụi thì phải nộp cho làng 
cúng cây bị tổn hại 1 con heo to, 1 con dê và 1 con gà.
- Người làng khác phá: trường hợp này thì 2 làng giải quyết nội bộ và phải 
nộp cho làng bị phá cây ít nhất 1 con trâu hoặc bò, 1 con dê, 1 con heo, 1 con gà, 
1 chum rượu cần và hũ rượu nếp hoặc rượu trắng.
Vì vật phạt thường rất nặng cho nên ít ai dám tự ý chặt phá cây cổ thụ thuộc 
phạm vi làng mình hay ngoài làng. Nhờ vậy những khu rừng thiêng trong đó có 
những khu rừng đầu nguồn của người Tà Ôi hiện nay còn rất nhiều cây cổ thụ, đại 
thụ và là nơi cung cấp nguồn nước trong lành cho cuộc sống hằng ngày của cộng 
đồng người Tà Ôi.
Vì tầm quan trọng đó cho nên người Tà Ôi căn dặn với con cháu câu nói rằng:
“Núi non rừng rú linh thiêng,
 Đi nhấc chân từng bước, nâng hơi thở từng đợt”.(22)
Để bảo vệ tài nguyên rừng, người Tà Ôi quy định khi đốt rẫy phải lựa theo 
chiều gió từ trên xuống để tránh lửa cháy lan. Nếu vào mùa gió thì thường phải 
chọn lúc trời đứng gió để đốt, thường vào khoảng 11 giờ trưa đến 2 giờ chiều. 
Người Tà Ôi thường căn dặn nhau: “khi dọn sạch những bụi rậm, dây leo và các 
thân cây nhỏ, mọi người đều chú ý đến việc cách ly khu rừng khai thác với đám rẫy 
dự định đốt bằng những khoảng trống dọn sạch vật dẫn hỏa”.(23)
Khi phát cây rừng lấy gỗ thì phải dùng dây kéo cây ngã về phía theo ý muốn, 
nghĩa là không chặt cùng phía dây néo mà phải ngược chiều để tránh cây đổ đè lên 
nhau. Người Tà Ôi đã căn dặn rằng: 
“Chặt cây thì phải chặt vào trúng một chỗ,
 Đẽo cây phải vát cho liền mặt,
 Leo cây phải buộc cho chắc dây nài”.(24)
Khi đi rừng, làm rẫy nếu gặp hang của các con thú thiêng thì không phát, cốt, 
đốt, trỉa.(25) Không được đào bắt mà phải biết bảo vệ thú. Ai phá rẫy thì bị phạt một 
con heo nếu bắt được người phá.
 Khi đi rừng khát nước, nếu đi ngang qua rẫy mía, không có chủ rẫy để xin 
mía ăn, người đi rừng có thể ăn mía nhưng phải theo quy ước là phần đọt mía sau 
khi ăn xong lấy những chiếc lá mía túm lại thắt thành nút rồi đặt vào ngay nơi gốc 
mía đã bẻ, gia chủ đi thăm rẫy sẽ biết có người xin mía ăn trong khi mình vắng 
mặt. Nếu ai không thực hiện yêu cầu trên thì nếu chủ rẫy bắt được sẽ quy vào tội 
ăn trộm mía, sẽ bị làng phạt nặng.
92 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
Khi đi rừng gặp rắn, con mang, bìm bịp thì xui không nên đi mà nên quay 
lui. Mơ thấy gà chết, mình bị gãy răng, què chân thì không nên đi rừng. Đi mà gặp 
chim có đầu màu trắng thì tốt nên đi.
III. Kết luận
Một vấn đề nổi cộm đang diễn ra hiện nay đó là tài nguyên rừng của nước ta 
ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng mà nguyên nhân chính là do sự quản lý lỏng 
lẻo của các cơ quan chức năng cũng như thiếu ý thức trong việc bảo vệ tài nguyên 
thiên nhiên của con người. Việc tìm hiểu luật tục và tri thức bản địa của người Tà 
Ôi đối với tài nguyên rừng sẽ hữu ích phần nào cho việc đưa văn hóa dân gian ứng 
dụng vào việc bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu như hiện nay.
Theo như nhận xét của các nhà nghiên cứu thì “Trên nguyên tắc cơ bản của 
luật tục người Tà Ôi, sở hữu tối cao là toàn cộng đồng thôn bản, ở đó chủ làng 
là người nắm quyền quản lý thống nhất đối với mọi nguồn tài nguyên, và sản vật 
rừng thuộc phạm vi làng xác định, không có tình trạng, quan niệm đất vắng chủ 
hay đất vô chủ, rừng vắng chủ vô chủ. Mọi tranh chấp, vi phạm quyền sở hữu sẽ 
được giải quyết trên nguyên tắc chủ làng là người có trách nhiệm xét xử các vi 
phạm với tư cách là đại diện quyền sở hữu cộng đồng, quyền quản lý tập thể. Chủ 
làng có nhiệm vụ chỉ ra các ranh giới sở hữu, quy định quyền hạn sử dụng khai 
thác, nhưng chủ làng không có quyền bao chiếm sở hữu riêng đối với tài nguyên 
thiên nhiên rừng. Như vậy, trong luật tục Tà Ôi sở hữu tập thể là hình thức sở hữu 
tối cao với các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt mọi tài nguyên thiên 
nhiên nói chung và rừng nói riêng.
Những quy định có tính chất luật tục này là cơ sở cho việc xét xử các vi phạm 
đối với quyền sở hữu mà các thành viên khi tham gia quan hệ sở hữu phải có nghĩa 
vụ tuân theo. Thường ở họ tính tự giác cao, lòng tự trọng và danh dự được coi 
trọng nên những quy định mang tính luật tục được thực hiện một cách tự nguyện. 
Luật tục, về nội dung không mang tính cưỡng chế, truy cứu trách nhiệm mà chỉ 
đóng vai trò giáo dục, điều chỉnh và tự điều chỉnh. Hơn nữa luật tục được lồng 
ghép vào các yếu tố tâm linh, được “thiêng hóa” và chính yếu tố này đã tăng thêm 
tính nghiêm ngặt của nó”.(26)
Cũng giống như người Cơ Tu, Bru-Vân Kiều cận cư, người Tà Ôi cũng có 
niềm tin tín ngưỡng đối với rừng tâm linh “đã giúp họ bảo tồn và phát triển những 
khu rừng tâm linh trong quá trình lịch sử tộc người. Đặc biệt là việc bảo tồn và 
phát triển những cánh rừng tự nhiên nguyên sinh cuối cùng còn sót lại. Tuy nhiên, 
việc duy trì, bảo tồn và phát huy rừng tâm linh như thế nào, để tránh những mê tín 
dị đoan, tránh các hủ tục lạc hậu; tránh những xung đột giữa quan niệm về sở hữu 
đất đai truyền thống với luật pháp hiện hành và đặc biệt là đánh giá địa vị người 
dân trong xây dựng rừng cộng đồng hiện nay là một trong những vấn đề đang đặt 
ra cấp thiết ở vùng miền núi”.(27)
93Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
Người Tà Ôi vẫn nói về giá trị của rừng đã nuôi sống con người bằng những 
ngôn từ giản dị, gần gũi với đời sống của họ:
“Núi non, rừng rú là của trời cha, đất mẹ
 Núi non rừng rú, chúng tôi đã xin phép họ để dùng”.(28)
Bởi vì:
“Núi non cho chúng ta nhiều con chim con chuột
 Rừng rú ban rẫy nương cho chúng ta làm ăn”.(29)
 T N K P
CHÚ THÍCH
(1)	 Hồ	Viết	Hoàng,	“Nâng	quyền	cho	cộng	đồng	thiểu	số	trong	xây	dựng	rừng	cộng	đồng:	Trở	
lại	những	giá	trị	rừng	tâm	linh	truyền	thống	(Dẫn	liệu	từ	cộng	đồng	người	Cơtu	ở	tỉnh	Thừa	
Thiên	Huế)”.	Kỷ	yếu	Hội	thảo	khoa	học	Nghiên cứu cùng cộng đồng: Ứng dụng nhân học 
trong phát triển ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam.	Viện	Dân	tộc	học,	Viện	Nghiên	cứu	Xã	
hội,	Kinh	tế	và	Môi	trường,	Trường	Đại	học	Khoa	học	Xã	hội	và	Nhân	văn	Hà	Nội,	ngày	
01/10/2014,	tr.	44.
(2)	 Lê	Bá	Thảo,	Thiên nhiên Việt Nam,	Nxb	Giáo	dục,	Hà	Nội,	2004,	tr.	168.
(3)	 Lê	Bá	Thảo,	Sđd, 	tr.	167.
(4)	 Hồ	Viết	Hoàng,	Tlđd,	tr.	44.
(5)	 Dẫn	lại	của	Hồ	Viết	Hoàng,	Tlđd,	tr.	46.
(6)	 Trần	Đức	Anh	Sơn,	“Mối	quan	hệ	giữa	các	hệ	sinh	thái	-	nhân	văn	với	văn	hóa	Huế”.	Trong	
sách	Nghiên cứu văn hóa dân gian Thừa Thiên Huế - 25 năm một hành trình (1991-2016), 
Hội	Văn	nghệ	dân	gian	Thừa	Thiên	Huế,	Nhiều	tác	giả, Nxb	Thuận	Hóa,	Huế,	2016,	tr.	32.
(7)	 Các	loại	cây	cổ	thụ	mang	tính	chất	linh	thiêng	đối	với	người	Tà	Ôi	là	cây	đa,	cây	đào,	cây	
kim	giao,	cây	xoài,	cây	sơn,	cây	trường...	Người	đi	vào	những	khu	rừng	có	các	loài	cây	nói	
trên,	đều	phải	đi	vòng	hoặc	tránh	đi	ngang	qua,	họ	không	nhìn	thằng	vào	thân	cây,	không	
giẫm	đạp	lên	rễ	cây.	Vì	nếu	vi	phạm	thì	họ	sợ	bị	thần	rừng	quở	phạt,	gây	ốm	đau,	ghẻ	lở	
toàn	thân.
(8)	 Theo	quan	niệm	của	người	Tà	Ôi	thì	ngày	xưa	hay	có	những	đoàn	người	đi	săn,	đi	trao	đổi	
hang	hóa,	đi	thăm	người	thân,	đi	làm	nương	rẫy	nhưng	không	rõ	lý	do	gì	đó	mà	họ	bị	mất	
tích	đã	gây	ra	nhiều	mối	nghi	ngờ	khác	nhau	và	dần	dần	câu	chuyện	được	hư	cấu	một	cách	
ly	kỳ.	Cuối	cùng	có	thể	những	người	đó	bị	chết	trong	rừng	và	trở	thành	những	con	ma	lai	
bảo	vệ	thú	rừng	và	các	loài	cây.	Xin	xem:	Trần	Nguyễn	Khánh	Phong,	Truyện cổ dân tộc Tà 
Ôi ở Thừa Thiên Huế,	Nxb	Khoa	học	Xã	hội,	Hà	Nội,	2015,	tr.	466-474.
(9)	 Hồ	Viết	Hoàng,	Tlđd,	tr.	46.
(10)	 Theo	quan	niệm	của	người	Tà	Ôi	những	người	chết	lành,	chết	tốt	thường	do	đau	ốm,	già	
yếu	và	chết	ở	trong	nhà	dưới	sự	chứng	kiến	của	người	thân.
(11)	 Chết	xấu	là	những	người	chết	bất	đắc	kỳ	tử	như	bị	thú	rừng	vồ	chết,	chết	non,	tự	tử,	bị	sông	
suối	cuốn	trôi,	cây	gãy	đè	lên	người,	sản	phụ	chết	cả	mẹ	lẫn	con.	Và	người	Tà	Ôi	quan	niệm	
rằng	những	người	chết	xấu	là	do	bị	thần	linh	trừng	phạt	nên	họ	không	có	nơi	cư	ngụ	mà	phải	
đi	lang	thang	khắp	nơi,	chuyên	gây	hại	cho	người	đang	sống.	Xin	xem:	Trần	Nguyễn	Khánh	
Phong,	Luật tục và tri thức bản địa của người Tà Ôi ở Việt Nam,	Hội	Văn	nghệ	dân	gian	Việt	
Nam,	2015.
94 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
(12)	 Hồ	Viết	Hoàng,	Tlđd,	tr.	46.
(13)	 Nguyễn	Văn	Mạnh	(Chủ	biên),	Nguyễn	Xuân	Hồng,	Nguyễn	Hữu	Thông,	Luật tục của người 
Tà Ôi, Cơtu, Bru-Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Nxb	Thuận	Hóa,	Huế,	2001,	tr.	50.
(14)	 Nguyễn	Văn	Mạnh	(Chủ	biên),	Sđd,	tr.	51.
(15)	 Nguyễn	Văn	Mạnh,	“Những	kinh	nghiệm	khai	thác	và	bảo	vệ	đất	đai	trong	sản	xuất	nương	
rẫy	của	đồng	bào	các	dân	tộc	thiểu	số	ở	Thừa	Thiên	Huế”,	Thông tin Khoa học,	số	11/1999,	
Trường	Đại	học	Khoa	học	Huế.
(16)	 Nguyễn	Văn	Mạnh	(Chủ	biên),	Sđd,	tr.	51.
(17)	 Nguyễn	Văn	Mạnh	(Chủ	biên),	Sđd,	tr.	49.
(18)	 Hoàng	Sơn	(Chủ	biên).	Người Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế,	Nxb	Văn	hóa	dân	tộc,	Hà	Nội,	2007,	tr.	34,	35.
(19)	 Nguyễn	Văn	Mạnh	(Chủ	biên),	Sđd,	tr.	50.
(20)	 Hoàng	Sơn	(Chủ	biên),	Sđd,	tr.	36.
(21)	 Trần	Nguyễn	Khánh	Phong,	“Biệt	dược	cổ	truyền	của	người	Tà	Ôi”,	tạp	chí	Nguồn sáng dân 
gian,	số	2/2012,	tr.	72	-	82.
(22)	 Trần	Nguyễn	Khánh	Phong,	Ca dao, câu đố, đồng dao, tục ngữ và trò chơi dân gian dân tộc 
Tà Ôi, Nxb	Văn	hóa	Thông	tin,	Hà	Nội,	2013,	tr.	162.
(23)	 Nguyễn	Quốc	Lộc	(Chủ	biên),	Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên, Nxb	Thuận	Hóa,	Huế,	
1984,	tr.	147,	148.
(24)	 Trần	Nguyễn	Khánh	Phong,	Sđd,	tr.	177.
(25)	 Chính	vì	sự	kiêng	cữ	đó	mà	ở	truyện	cổ	Tà	Ôi	đã	hình	thành	nên	những	câu	chuyện	liên	quan	
đến	vấn	đề	kiêng	cữ	vật	tổ	đối	với	động	vật,	thực	vật	như	sau.	(Xin	xem:	Trần	Nguyễn	Khánh	
Phong,	Truyện kể về dòng họ của người Tà Ôi,	Nxb	Khoa	học	Xã	hội,	Hà	Nội,	2015,	tr.	16-24):
Stt Tên dòng họ Những kiêng cữ, vật tổ
1 YĂQ	PRUNG/	A	ỤT Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	chim	bìm	bịp
2 YĂQ	REAIH Kiêng	rễ	cây
3 YĂQ	PIHÔI/	PIHAY Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	ong
4 YĂQ	AKIÊNG Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	cua
5 YĂQ	PIRIU Kiêng	không	hái	và	ăn	trái	Piriu
6 YĂQ	PLĂNG Kiêng	không	đốt	cỏ	tranh
7 YĂQ	AXÂU Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	chó	sói
8 YĂQ	PIKÊR Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	heo	rừng
9 YĂQ	KÊ/	LALĂI Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	sóc
10 YĂQ	KÊR Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	chim	Tu	Tiết
11 YĂQ	ARIÊNG Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	Ariêng
12 YĂQ	A	ĐOAL Kiêng	không	ăn	cây	rau	A	Đoal
13 YĂQ	TU	LOM Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	Tu	Lom
14 YĂQ	PATĂQ Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	Ta	Te
15 YĂQ	PA	HU Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	Pa	Hu
16 YĂQ	AKƠƠ/	HÔS Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	trút
17 YĂQ	AVIÉT Kiêng	uống	chất	cặn	bã	của	rượu	đoác
18 YĂQ	AVÔ Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	vượn
95Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130) . 2016
19 YĂQ	IRY Kiêng	cây	Iry
20 YĂQ	RAPÁT Kiêng	lá	cây	Ra	Pát
21 YĂQ	KẬT	XÍCH Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	chim	Kật	Xích
22 YĂQ	MPOẢI Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	rắn	mối
23 YĂQ	TA	DƯR Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	các	loài	chim
24 YĂQ	A	DERQ Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	chuột
25 YĂQ	A	MOONG Kiêng	không	bắt,	giết	và	ăn	thịt	con	chim	A	Moong
(26)	 Nguyễn	Văn	Mạnh	(Chủ	biên),	Sđd,	tr.	54,	55.
(27)	 Hồ	Viết	Hoàng,	Tlđd,	tr.	44,	45.
(28)	 Kê	Sửu,	Achât - Sử thi dân tộc Tà Ôi,	Nxb	Thuận	Hóa,	Huế,	2012,	tr.	463.
(29)	 Tư	liệu	của	tác	giả	phỏng	vấn	ông	Quỳnh	Pươi,	thị	trấn	A	Lưới,	huyện	A	Lưới,	tỉnh	Thừa	Thiên	Huế.
TÓM TẮT
Bài	viết	tìm	hiểu	về	luật	tục	và	tri	thức	bản	địa	của	người	Tà	Ôi	đối	với	tài	nguyên	rừng	trên	
các	khía	cạnh:
-	Quan	niệm	của	người	Tà	Ôi	về	các	loại	rừng	(rừng	đầu	nguồn,	rừng	thiêng,	rừng	ma,	
rừng	khai	thác	sản	xuất).
-	Luật	tục	và	tri	thức	bản	địa	của	người	Tà	Ôi	trong	việc	sở	hữu,	khai	thác	và	bảo	vệ	tài	
nguyên	rừng.
Chính	những	tri	thức	và	luật	tục	tồn	tại	từ	bao	đời	nay	đã	giúp	cho	người	Tà	Ôi	giữ	được	
những	cánh	rừng	nguyên	sinh	cuối	cùng	còn	sót	lại.	Tuy	nhiên,	làm	thế	nào	để	những	tri	thức	
và	luật	tục	ấy	thích	ứng	với	xã	hội	hiện	đại,	nhất	là	tránh	được	những	xung	đột	giữa	quan	niệm	
sở	hữu	đất	rừng	truyền	thống	với	pháp	luật	hiện	hành	là	những	vấn	đề	cấp	thiết	cần	quan	tâm	
nghiên	cứu.
ABSTRACT
CUSTOMARY LAW AND INDIGENOUS KNOWLEDGE OF THE TÀ ÔI PEOPLE 
TOWARD FOREST RESOURCES
The	article	explores	 the	 customary	 law	and	 indigenous	knowledge	of	 the	Tà	Ôi	people	
toward	forest	resources	on	the	following	aspects:
-	The	concept	of	the	Tà	Ôi	on	various	kinds	of	forests	(headwater	forests,	spiritual	forests,	
ghost	forests,	forests	for	exploitation).
-	Customary	laws	and	local	knowledge	of	the	Tà	Ôi	in	possessing,	exploiting	and	protecting	
forest	resources.
It	 is	the	customary	law	and	indigenous	knowledge	existing	for	centuries	that	has	helped	
the	Tà	Ôi	people	preserve	the	last	remaining	primeval	forests.	However,	the	urgent	matter	to	be	
reformed	is	to	make	those	customary	law	and	indigenous	knowledge	adapt	to	modern	society	and	
to	avoid	the	conflict	between	the	concept	of	traditional	forest	land	ownership	and	the	current	law.

File đính kèm:

  • pdfluat_tuc_va_tri_thuc_ban_dia_cua_nguoi_ta_oi_doi_voi_tai_ngu.pdf