Luật hóa những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam

Lý thuyết về quyền sở hữu còn được

sử dụng để luận giải cho sự phát triển của

công ty và các quyền của cổ đông công ty.

Sự phát triển của công ty và nhận thức

về vị trí, vai trò của cổ đông, quyền của

CĐPT là một quá trình gắn liền với nhận

thức về sở hữu tài sản trong công ty cổ

phần (CTCP). Các CTCP ban đầu cũng

không khác gì công ty hợp danh có quy

mô lớn5, không có sự tách bạch giữa thành

viên công ty với công ty. Với tư cách là

những người sở hữu, cổ đông có quyền

quản lý để công ty hoạt động vì lợi ích

của họ và có thể phê chuẩn các giao dịch

không quy định trong điều lệ và không

phù hợp với lợi ích của họ6. Khi cấu trúc

sở hữu trong CTCP thay đổi, cổ đông là

những đồng sở hữu đối với công ty, pháp

luật bắt đầu phát triển các giới hạn và từ

chối nhiều quyền của cổ đông như quyền

của cổ đông đối với khối tài sản của công

ty, quyền trực tiếp điều hành quản lý công

ty. Khi đó, quan điểm cổ đông là chủ sở

hữu không còn là lý thuyết chủ yếu giải

thích cho vị trí và các quyền của cổ đông7.

pdf 7 trang kimcuc 6020
Bạn đang xem tài liệu "Luật hóa những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luật hóa những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam

Luật hóa những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam
62
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
1. Những lý thuyết cơ bản về quyền 
của cổ đông phổ thông
Pháp luật về quyền của CĐPT được 
nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, 
chịu sự chỉ đạo của quan điểm chính trị 
của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng pháp 
luật về quyền của CĐPT phải dựa trên 
những giá trị pháp lý, những lý thuyết, 
học thuyết khác như: 
1.1. Lý thuyết về quyền sở hữu (A theory 
of property)
Lý thuyết về quyền sở hữu được xây 
dựng dựa trên bài viết của A.M. Honoré 
(1961)1, sau đó được nghiên cứu trong 
nhiều bài nghiên cứu khoa học khác của 
1 A.M. Honoré (1961), Ownership, in A.G. Guest, 
ed., Oxford Essays in Jurisprudence (First Series) 
(Oxford: Clarendon Press, 1961), tr 47-107.
A. A. Alchian (1987)2, Harold Demsetz 
(1973)3 Theo quan điểm của A.M. 
Honoré, đối với tài sản nói chung, khi 
sở hữu tài sản, chủ sở hữu tài sản có các 
quyền như: quyền chiếm hữu (the right to 
possess), quyền sử dụng (the right to use), 
quyền quản lý (the right to manage), quyền 
đối với thu nhập từ tài sản (the right to 
the income of the thing), quyền đối với chi 
phí (the right to the capital), quyền an toàn 
(the right to security), quyền liên quan đến 
chuyển giao tài sản và vắng mặt có thời 
hạn của chủ sở hữu (the rights of incidents 
2 A. A. Achian (1987), Property rights, trong J. 
Eatwell, M. Milgrate và P. Newman (ed.), The 
New Palgrave: A dictionary in Economics
3 A. A. Alchian, Harold Demsetz (1973), The 
Property Right Paradigm, The Journal of Economic 
History, Vol. 33, No. 1, The Tasks of Economic 
History. (Mar., 1973), pp. 16-27.
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG 
PHỔ THÔNG TRONG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 
TRƯƠNG VĨNH XUÂN*
* Thạc sĩ, Học viện Chính trị khu vực IV
Bài viết đề cập đến những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông 
(CĐPT) và thực trạng luật hóa các lý thuyết cơ bản về các quyền này trong pháp 
luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó kiến nghị về việc tiếp tục luật 
hóa các lý thuyết về quyền của cổ đông phổ thông trong xây dựng và hoàn thiện 
pháp luật về quyền của cổ đông phổ thông.
Từ khóa: Cổ đông, quyền của CĐPT, lý thuyết về quyền của CĐPT.
Ngày nhận bài: 25/9/2019; Biên tập xong: 14/10/2019; Duyệt đăng: 21/10/2019.
The paper mentions foundamental theories about rights of common 
shareholders and current situation of legalizing these rights in Vietnamese 
corporate laws. Hence, proposals to continue legalizing theories about 
common shareholders’ rights in formulating and perfecting the law on 
shareholders’ rights are given.
Keywords: Shareholders, shareholders’ rights, theories about common 
shareholders’ rights.
63Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
TRƯƠNG VĨNH XUÂN
of transmissibility and absence of term), 
quyền ngăn cấm việc sử dụng tài sản gây 
hại (the prohibition of harmful use), trách 
nhiệm thực thi (liability to execution) và 
quyền còn lại (the incident of residuarity)4.
Lý thuyết về quyền sở hữu còn được 
sử dụng để luận giải cho sự phát triển của 
công ty và các quyền của cổ đông công ty. 
Sự phát triển của công ty và nhận thức 
về vị trí, vai trò của cổ đông, quyền của 
CĐPT là một quá trình gắn liền với nhận 
thức về sở hữu tài sản trong công ty cổ 
phần (CTCP). Các CTCP ban đầu cũng 
không khác gì công ty hợp danh có quy 
mô lớn5, không có sự tách bạch giữa thành 
viên công ty với công ty. Với tư cách là 
những người sở hữu, cổ đông có quyền 
quản lý để công ty hoạt động vì lợi ích 
của họ và có thể phê chuẩn các giao dịch 
không quy định trong điều lệ và không 
phù hợp với lợi ích của họ6. Khi cấu trúc 
sở hữu trong CTCP thay đổi, cổ đông là 
những đồng sở hữu đối với công ty, pháp 
luật bắt đầu phát triển các giới hạn và từ 
chối nhiều quyền của cổ đông như quyền 
của cổ đông đối với khối tài sản của công 
ty, quyền trực tiếp điều hành quản lý công 
ty... Khi đó, quan điểm cổ đông là chủ sở 
hữu không còn là lý thuyết chủ yếu giải 
thích cho vị trí và các quyền của cổ đông7. 
Sự thay đổi cấu trúc sở hữu trong các 
CTCP đã làm lý thuyết về quyền sở hữu 
4 The Nature and process of law: An introdution 
to legal philosophy, Oxford university press, New 
York, 1993 (370 – 375), tr 370
5 Ross Grantham (1998), The doctrinal basis of the 
rights of company shareholders, The Cambridge 
Law Journal, Vo 57, No 3, tr. 554-588, tr557
6 Ross Grantham (1998), tlđd, tr559
7 Ross Grantham (1998), tlđd, tr. 556
không còn hoàn hảo trong luận giải các 
quyền của CĐPT.
1.2. Lý thuyết về mối quan hệ của các hợp 
đồng (the Nexus of Contracts Theory)8
Nguồn gốc của lý thuyết có thể được 
bắt nguồn từ bài viết “The Nature of the 
Firm” của Ronald Coase (năm 1937)9. Lý 
thuyết về mối quan hệ của các hợp đồng 
nhìn nhận công ty cũng là một tập hợp 
“quan hệ hợp đồng” giữa các bên khác 
nhau – chủ yếu là các cổ đông, thành viên 
Hội đồng quản trị (HĐQT), nhân viên, các 
nhà cung cấp và khách hàng. Các cổ đông 
cũng chỉ là một trong số các nhà cung cấp 
“đầu vào” khác, có quyền được xác định 
thông qua các hợp đồng khác nhau khi 
thành lập doanh nghiệp10. Quyền của cổ 
đông nói chung, của CĐPT nói riêng đạt 
được từ sự thoả thuận giữa cổ đông với 
nhau, với người quản lý và các bên liên 
quan khác. Cổ đông, người quản lý và các 
bên liên quan khác muốn bảo vệ quyền, 
lợi ích của họ thì phải tự mặc cả lấy quyền 
của mình. Pháp luật định ra các nguyên 
tắc tự do hợp đồng là cần thiết. 
Dù có nhiều ưu thế nhưng Lý thuyết 
về mối quan hệ của các hợp đồng vẫn 
chưa có tính thuyết phục cao, coi công ty 
như là một sự liên kết giữa các bên, trong 
đó có cổ đông công ty, làm cơ sở cho lý 
thuyết hợp đồng vẫn còn nhiều tranh 
luận. Lý thuyết về hợp đồng không phải 
và không thể là lời giải thích duy nhất về 
8 Tổng hợp từ Ross Grantham (1998), tlđd, David 
Million (1990), Theories of the corporation, Duke 
Law journal Vol.1990:201, tr. 229
9 R. H. Coase (1937), The Nature of the Firm, 
Economica, New Series, Volume 4, Issue 16 (Nov., 
1937), tr386-405.
10 David Million (1990), Theories of the corporation, 
Duke Law journal Vol.1990:201, tr. 229
64
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
nội dung của luật công ty hoặc quyền của 
cổ đông, CĐPT. 
1.3. Học thuyết về đại diện (Agency Theory)
Từ những yếu tố đầu tiên Adam 
Smith11, nhà kinh tế học Gardiner C. 
Means và giáo sư luật Adolf A. Berle12, M. 
C. Jensen và W. H. Meckling13 cho rằng, sự 
phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý 
điều hành là một đặc trưng tất yếu ở các 
CTCP mà chính những người chủ sở hữu 
của nó vì quá đông đảo và phức tạp nên 
không đủ điều kiện và khả năng để trực 
tiếp quản lý điều hành công ty14. 
Thông qua việc nhân rộng các chủ sở 
hữu, sự xuất hiện các công ty lớn đã có 
sự phân chia lớn giữa quyền sở hữu và 
kiểm soát công ty. Sự tách biệt quyền sở 
hữu và kiểm soát trở nên gần như hoàn 
chỉnh khi không có sự quan tâm lớn của 
cổ đông thiểu số. Thực tế, đa số các công 
ty đại chúng đều thuộc sở hữu của các 
cổ đông nhỏ có ít cơ hội ảnh hưởng đến 
quyết định của công ty, sự kiểm soát của 
các công ty sau đó đã chuyển sang các nhà 
quản lý, những người có cơ hội và động 
cơ lạm dụng vị trí của họ. Theo C. Means 
11 Xem thêm tác phẩm Adam Smith (2005), An 
Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth 
of Nations, A Penn state electronic classics series 
publication.
12 A. Berle and G. Means (1933), The Mordern 
Corporation and private property, The Macmillan 
Company, NY
13 Michael C. Jesen and William H. Meckling 
(1976), Theory of the firm: Managerial behavior, 
agency cost and ownership structure, Journal of 
Financial Economics, Vol.3, No.4, tr. 305-360.
14 Hà Thị Thanh Bình (chủ nhiệm đề tài) (2013), 
Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản 
lý, điều hành công ty cổ phần đại chúng, Đề tài 
nghiên nghiên cứu khoa học cấp bộ của Trường 
đại học Luật TP HCM, tr. 33.
và A. Berle15, nguyên tắc tách bạch quyền 
sở hữu và quản lý, điều hành công ty là 
nguyên tắc nền tảng trong quản trị công 
ty hiện đại16. Quan hệ này được trình bày 
như một trường hợp đặc biệt của quan hệ 
người ủy quyền – người đại diện.
Trong CTCP, người ủy nhiệm là cổ 
đông – những người sở hữu công ty, 
người đại diện là những người quản lý, 
điều hành công ty. Họ thay mặt cổ đông 
ra quyết định định đoạt tài sản của công 
ty. Các cổ đông (thông qua Đại hội đồng 
cổ đông - ĐHĐCĐ) sẽ có quyền chọn lựa 
để bầu, bổ nhiệm, kiểm soát người đại 
diện và sử dụng các cơ chế thích hợp để 
có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ 
đông và người quản lý, điều hành công ty. 
Đồng thời, cổ đông phải dành cho người 
đại diện một phạm vi tự do nhất định để 
việc điều hành công ty hiệu quả.
1.4. Lý thuyết về bất cân xứng thông tin 
(Theory of Asymmetric Information)
Lý thuyết bất cân xứng thông tin được 
xây dựng bởi George Akerlof (1970) và lý 
thuyết thông tin bất cân xứng được biết 
đến nhiều nhất từ bài viết “The Market for 
Lemons”17. Bài viết này xác định các vấn 
đề lớn ảnh hưởng tới thị trường, trong đó 
có sự bất cân xứng về thông tin.
Thông qua các ví dụ trong bài viết, sự 
bất cân xứng thông tin xảy ra khi một hoặc 
nhóm các nhà đầu tư sở hữu nhiều thông 
15 A. Berle and G. Means (1933), The Mordern 
Corporation and private property, The Macmillan 
Company, NY
16 Hà Thị Thanh Bình (chủ nhiệm đề tài) (2013), 
tlđd, tr. 34
17 George Akerlof (1970), The Market for “Lemons”: 
Quality Uncertainty and the Market Mechanism 
The Quarterly Journal of Economics, Vol. 84, No. 
3. (Aug., 1970), tr. 488-500.
65Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
TRƯƠNG VĨNH XUÂN
tin hơn các nhà đầu tư khác về công ty. 
Bên nào có nhiều thông tin hoặc thông tin 
có chất lượng hơn sẽ có lợi trong việc đưa 
ra quyết định đầu tư. Trong CTCP, bất cân 
xứng thông tin xảy ra khi một hoặc nhóm 
các nhà đầu tư sở hữu nhiều thông tin 
hơn các nhà đầu tư khác về công ty hoặc 
khi doanh nghiệp, những người quản lý 
doanh nghiệp có nhiều thông tin hơn so 
với cộng đồng nhà đầu tư. Các giao dịch 
có liên quan đến các nhà quản lý vì tính 
chất bất cân xứng thông tin, các cơ quan 
quản lý thị trường chứng khoán cũng cần 
kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc giao 
dịch cổ phiếu của các nhà quản lý để bảo 
vệ các cổ đông khác18. Pháp luật nên có 
các quy định khắt khe và xử phạt cứng 
rắn đối với việc vi phạm bảo mật thông 
tin, giao dịch nội gián nhằm bảo vệ lợi ích 
của nhà đầu tư, của CĐPT. 
Tóm lại, luận giải cho quy định pháp 
luật về quyền của cổ đông nói chung, CĐPT 
nói riêng, không thể dựa trên cơ sở một lý 
thuyết, học thuyết (hay một quan điểm) 
mà phải có sự kết hợp nhiều lý thuyết, học 
thuyết khác nhau mới có thể làm rõ được 
các quyền của CĐPT trong CTCP. 
2. Thực trạng luật hóa các lý thuyết 
cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông 
trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt 
Nam hiện nay
Một là, qua quy định cổ đông sẽ “sở 
hữu một phần tài sản của công ty tương ứng 
với phần vốn góp vào công ty” (khoản 1 Điều 
8), quan điểm “cổ đông là chủ sở hữu công 
ty” (mặc dù không hoàn toàn nhưng) đã 
18 La Văn Giàu (chủ nhiệm đề tài) (2016), “Giao 
dịch cổ phiểu của cổ đông nội bộ: bằng chứng từ 
thị trường chứng khoán Việt Nam”, Đề tài khoa 
học cấp cơ sở của Trường Đại học kinh tế thành 
phố Hồ Chí Minh, tr 29-30
được quy định rõ ràng trong Luật Công 
ty năm 1990. Quy định này là chưa hợp lý, 
vì công ty là một thực thể pháp lý độc lập, 
có quyền sở hữu tài sản. Cổ đông chỉ góp 
vốn hình thành vốn điều lệ công ty nhưng 
không thể sở hữu tài sản của công ty. 
Tài sản của công ty do công ty sở hữu, 
và cổ đông chỉ sở hữu đối với cổ phần. 
Nhận thức xu thế chung đó, Luật Doanh 
nghiệp (LDN) năm 1999 đã thay đổi 
nhưng cũng chưa quy định rõ ràng như 
LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 
2013) và LDN năm 2014 về quyền và vị 
trí của CĐPT trong CTCP. LDN năm 2005 
(sửa đổi, bổ sung năm 2013), LDN năm 
2014 đã chứng minh hoạt động lập pháp 
về công ty của Việt Nam đã đoạn tuyệt 
với quan điểm cũ do quy định “cổ đông là 
cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần 
của CTCP”19. Nhà đầu tư có trách nhiệm 
chuyển quyền sở hữu tài sản (khi góp 
vốn) cho CTCP. Sở hữu cổ phần là cơ sở 
để phát sinh quyền của CĐPT theo những 
điều kiện do pháp luật quy định.
 Hai là, pháp luật về công ty ở Việt 
Nam (Luật công ty năm 1990, LDN năm 
1999, LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 
năm 2013) và LDN năm 2014) vẫn còn 
nhiều quan điểm khác nhau khi nhìn 
nhận sự tồn tại của thỏa thuận cổ đông. 
Pháp luật công ty nhiều nước (như 
Nga, Ấn độ, Mỹ, Anh) đã có quy định 
về thỏa thuận cổ đông. Riêng pháp luật 
về công ty ở Việt Nam (Luật công ty năm 
1990, LDN năm 1999, LDN năm 2005 và 
LDN năm 2014) vẫn còn nhiều quan điểm 
khác nhau khi nhìn nhận sự tồn tại của 
thỏa thuận cổ đông, CĐPT trong các quy 
19 Khoản 11 Điều 4 LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ 
sung năm 2013) và khoản 2 Điều 4 LDN năm 2014.
66
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
định pháp luật, nhất là LDN năm 2014. 
Dưới góc độ luật thực định, LDN năm 
2014 quy định về hợp đồng trước đăng 
ký doanh nghiệp của người thành lập 
CTCP phục vụ cho việc thành lập, hoạt 
động của CTCP trước và trong quá trình 
đăng ký CTCP như là sự thỏa thuận của 
giữa người thành lập CTCP với các bên 
liên quan khác nhằm phục vụ cho việc 
thành lập CTCP (điều 19); và đề cập đến 
các quyền của cổ đông đối với số cổ phần 
đã thanh toán (so với đăng ký mua) khi 
đăng ký doanh nghiệp như quyền biểu 
quyết, quyền nhận cổ tức và các quyền 
khác. LDN năm 2014 và các văn bản luật 
khác có liên quan (như Luật các tổ chức 
tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 
2017), Luật Chứng khoán năm 2007 (sửa 
đổi, bổ sung năm 2010), ) hiện vẫn chưa 
thừa nhận giá trị pháp lý của các thỏa 
thuận cổ đông, CĐPT và do đó, pháp 
luật cũng chưa đặt ra tính hợp pháp của 
những thỏa thuận cổ đông, CĐPT. 
Dưới góc nhìn thực tiễn, việc thành 
lập CTCP theo LDN năm 2014 đã phát 
sinh các thỏa thuận góp vốn, hợp đồng 
chuyển nhượng vốn góp giữa cổ đông và 
nhà đầu tư, hợp đồng chuyển nhượng vốn 
góp giữa CTCP và nhà đầu tư, thỏa thuận 
chuyển nhượng cổ phần giữa CTCP và 
nhà đầu tư. và những thỏa thuận này có 
thể là phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp 
lý của cổ đông, CĐPT. Những quyền và 
nghĩa vụ của các bên thỏa thuận có thể 
nằm ngoài những quyền của cổ đông, 
CĐPT do luật quy định nhưng có giá trị 
ràng buộc các bên hay không vẫn là nội 
dung còn bỏ ngỏ trong LDN năm 2014.
Có thể nói, sự luật hóa lý thuyết về 
mối quan hệ của các hợp đồng trong xây 
dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam 
về quyền của CĐPT cần phải được tiếp 
tục nghiên cứu và cụ thể.
Ba là, nội dung của Luật Công ty năm 
1990 cho thấy việc luật hóa học thuyết đại 
diện còn đơn giản, chưa rõ ràng. 
Quy định về quản trị CTCP đã phát 
triển và có nhiều thay đổi khi pháp luật 
về doanh nghiệp cụ thể hóa học thuyết đại 
diện trong các quy định. LDN năm 2005 
(sửa đổi, bổ sung năm 2013) đã luật hóa 
học thuyết đại diện trong quản trị CTCP, 
nhưng mức độ còn hạn chế. LDN năm 2014 
đã kế thừa LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 
năm 2013) và bổ sung những điểm tiến bộ 
khi luật hóa học thuyết đại diện trong xây 
dựng LDN: (i) mô hình quản trị (cơ cấu tổ 
chức quản lý) CTCP đa dạng; (ii) Quy định 
cho phép cổ đông, nhóm cổ đông có quyền 
tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện 
trách nhiệm dân sự đối với thành viên 
HĐQT, Tổng giám đốc (Giám đốc) trong 
một số trường hợp và kiểm soát đối với 
trách nhiệm của người quản lý công ty; 
(iii) trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền 
CĐPT trong một số trường hợp được biểu 
hiện dưới dạng “nghĩa vụ”, không phải 
“nhiệm vụ” như LDN năm 2005 (sửa đổi, 
bổ sung năm 2013). 
Tuy nhiên, sự luật hóa học thuyết 
đại diện trong LDN năm 2014 cũng chưa 
đầy đủ, cơ chế giám sát chưa hiệu quả: 
(i) Các giao dịch giữa người quản lý, điều 
hành công ty với người có liên quan là 
do người quản lý, điều hành công ty thực 
hiện nhưng phải được sự chấp thuận của 
CĐPT thông qua thực hiện quyền biểu 
quyết tại ĐHĐCĐ cũng còn nhiều vấn 
đề; (ii) chưa được quy định rõ ràng, minh 
67Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
TRƯƠNG VĨNH XUÂN
bạch quyền và nghĩa vụ của người quản lý 
công ty trong việc công nhận, bảo đảm và 
bảo vệ quyền của CĐPT, đặc biệt là trách 
nhiệm pháp lý của họ trong việc đảm bảo 
thực hiện quyền của CĐPT. Do đó, đôi khi 
chính họ là người vi phạm pháp luật về 
quyền của cổ đông.
Bốn là, các quyền thông tin của cổ đông 
nói chung, CĐPT còn mờ nhạt trong Luật 
công ty năm 1990. LDN năm 1999 đã tạo ra 
bước thay đổi khi quy định quyền thông 
tin của cổ đông cũng như trách nhiệm của 
các chủ thể có thẩm quyền phải có trách 
nhiệm thực hiện quyền thông tin của cổ 
đông. Đến lượt LDN năm 2005 (sửa đổi, 
bổ sung năm 2013) và LDN năm 2014, các 
quyền thông tin của cổ đông, CĐPT được 
quy định phong phú hơn, nhất là quyền 
thông tin của CĐPT trong các công ty đại 
chúng. Song song với đó, LDN năm 2014 
cũng quy định trách nhiệm của người 
quản lý, điều hành công ty có nghĩa vụ 
thực hiện nghĩa vụ của họ nhằm đáp ứng 
quyền thông tin của CĐPT. Nhiều quy 
định pháp luật khác quy định chế tài khi 
các chủ thể có liên quan vi phạm quyền 
thông tin của cổ đông (chế tài hành chính, 
chế tài hình sự).
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, sự luật 
hóa các lý thuyết về quyền của CĐPT 
trong ban hành các văn bản pháp luật về 
công ty đã phát triển nhưng mức độ còn 
hạn chế hoặc chưa bao quát. Các lý thuyết 
cần tiếp tục nghiên cứu và luật hóa trong 
pháp luật công ty Việt Nam.
3. Những kiến nghị về việc tiếp tục 
luật hóa các lý thuyết về quyền của cổ 
đông phổ thông trong xây dựng và hoàn 
thiện pháp luật về quyền của cổ đông 
phổ thông
Cơ sở lý thuyết là nền tảng cho các 
công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực, 
trong đó có pháp luật về quyền của CĐPT 
trong CTCP. Cơ sở lý thuyết về quyền của 
CĐPT cung cấp những luận cứ kiến giải 
cho sự cần thiết và định hướng cho hoạt 
động xây dựng và hoàn thiện pháp luật 
về quyền của CĐPT. Hiện nay chưa có 
lý thuyết nào là hoàn hảo để cụ thể hóa 
trong pháp luật về quyền của CĐPT nên 
pháp luật về quyền của CĐPT được xây 
dựng dựa trên những nhân tố hợp lý của 
các lý thuyết đó. 
Trên cơ sở các lý thuyết đã nghiên cứu, 
pháp luật về quyền của CĐPT nghiên cứu 
cụ thể một số nội dung mới trong pháp 
luật về công ty ở Việt Nam:
Thứ nhất, CĐPT sở hữu cổ phần có 
các mục đích khác nhau, trong đó có mục 
đích cổ tức. Với vai trò là người sở hữu cổ 
phần, họ phải được đảm bảo quyền nhận 
cổ tức thông qua các quy định của pháp 
luật về doanh nghiệp. Pháp luật phải quy 
định trách nhiệm của các chủ thể có nghĩa 
vụ trong việc thực hiện quyền được nhận 
cổ tức của CĐPT: (i), Công ty chỉ được 
trích lập các quỹ không được vượt quá 
giới hạn nhất định nhằm đảm bảo quyền 
được nhận cổ tức của CĐPT. Mức trích 
lập quỹ có thể không được vượt quá 30% 
lợi nhuận ròng của công ty trong năm đó. 
Các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là 
doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhu cầu vốn để 
tái đầu tư phát triển doanh nghiệp là rất 
lớn. Do đó, tỷ lệ không quá 30% lợi nhuận 
ròng hằng năm của công ty được dùng để 
trích lập các quỹ là phù hợp, vừa đảm bảo 
sự phát triển của công ty, vừa đảm bảo lợi 
ích của CĐPT; (ii), Quyền nhận cổ tức của 
68
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
CĐPT phải được đảm bảo bằng nghĩa vụ, 
trách nhiệm của người quản lý công ty; 
(iii), quyền khởi kiện của CĐPT yêu cầu 
thanh toán cổ tức chậm trả phải thông 
thoáng hơn. 
Thứ hai, thừa nhận giá trị pháp lý của 
thỏa thuận cổ đông trong trong sửa đổi, 
bổ sung LDN. 
Pháp luật về quyền của CĐPT là các 
quy định mang tính mở, tạo điều kiện 
cho cổ đông thỏa thuận về những quyền 
của mình, tôn trọng và ghi nhận sự thỏa 
thuận của CĐPT nhưng thỏa thuận cổ 
đông không được trái với quy định của 
pháp luật. Pháp luật về quyền của CĐPT 
phải đặt ra phạm vi, không gian cho sự 
thỏa thuận của CĐPT và trong phạm vi 
đó, CĐPT và các cổ đông khác tự do thỏa 
thuận. Đồng thời, pháp luật phải hạn chế 
những thỏa thuận ảnh hưởng đến quyền, 
lợi ích của công ty; những thỏa thuận 
hạn chế hoặc gây khó khăn cho việc điều 
hành, quản lý của người quản lý công ty. 
Thứ ba, quy định hiệu quả cơ chế kiểm 
soát (trong học thuyết đại diện) đối với 
người quản lý, điều hành công ty. Hiện 
nay, LDN năm 2014 có những quy định 
về cơ chế kiểm soát đối với người quản 
lý, điều hành công ty nhưng tính hiệu quả 
chưa cao, nhất là đối với các giao dịch của 
người quản lý công ty.
Luật hóa học thuyết đại diện trong 
quy định pháp luật về quyền của CĐPT 
nói riêng, trong quản trị CTCP nói chung 
cần quan tâm mối quan hệ giữa CĐPT và 
người quan lý, điều hành công ty. Chủ sở 
hữu cổ phần phải kiểm soát được nguồn 
vốn đầu tư và quyết định người quản lý 
công ty, tránh sự lạm quyền của người đại 
diện ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ 
sở hữu cổ phần, lợi ích chung của công 
ty. Ngược lại, người quản lý công ty phải 
được chủ động điều hành hoạt động sản 
xuất kinh doanh, phải được hưởng lợi ích 
tương xứng với năng lực điều hành hoạt 
động sản xuất kinh doanh của công ty. 
Quyền bỏ phiếu biểu quyết là quyền 
quan trọng thực hiện quyền kiểm soát của 
CĐPT. CĐPT có thể trực tiếp hoặc gián 
tiếp thực hiện quyền của họ và pháp luật 
phải tạo điều kiện thuận lợi, đa dạng để 
họ thực hiện quyền. Pháp luật nên: (i) tạo 
cơ chế để người đại diện ủy quyền thực 
hiện quyền đúng như nguyện vọng của 
CĐPT; (ii) đề cao trách nhiệm pháp lý 
của người quản lý công ty, gắn quyền lợi 
của họ với quyền lợi của công ty, của cổ 
đông. Họ phải bị hạn chế quyền chuyển 
nhượng cổ phần và phải chịu trách nhiệm 
đối với những thiệt hại của công ty (trong 
thời gian họ làm quản lý) kể cả sau khi 
người quản lý đã nghỉ quản lý công ty; 
(iii) bổ sung thành viên HĐQT có thể bao 
gồm đại diện người lao động trong công 
ty; (iv) các CĐPT cần chủ động thực hiện 
quyền yêu cầu, quyền khởi kiện như là 
một công cụ để CĐPT bảo vệ quyền lợi 
của mình khi những người quản lý, điều 
hành vi phạm nghĩa vụ.
Tóm lại, mỗi lý thuyết có những hạn 
chế, những điểm hợp lý nhất định khi 
xây dựng pháp luật về quyền của CĐPT 
nhưng việc phát huy tối đa những yếu tố 
hợp lý của các lý thuyết để pháp luật về 
quyền của CĐPT vừa mang tính hiện đại, 
vừa phù hợp thực tiễn và thu hút công 
chúng đầu tư./.

File đính kèm:

  • pdfluat_hoa_nhung_ly_thuyet_co_ban_ve_quyen_cua_co_dong_pho_tho.pdf