Lợi ích và chi phí tiềm năng khi Việt Nam gia nhập hiệp định mua sắm công WTO (GPA)

Ở Việt Nam, mua sắm công hay còn gọi là mua sắm chính phủ chiếm một tỷ

trọng lớn trong GDP (từ 7% năm 2007 tăng lên đến 22% năm 2010 – theo một tài liệu

của MUTRAP (2010) con số này có thể lên tới 36%) nhưng đã trở thành một trong

những khoản chi tiêu kém hiệu quả nhất trong nền kinh tế gắn liền với thất thoát và

tham nhũng1, từ đó dẫn tới nợ công cao và lạm phát cao. Vì vậy, chi tiêu chính phủ ở

Việt Nam bao gồm những khoản mua sắm công được xác định là một lĩnh vực cấp bách

cần phải được cải cách. Cải cách chi tiêu chính phủ cũng là một trong ba trụ cột tái cấu

trúc nền kinh tế được xác định bởi chính phủ Việt Nam hậu khủng hoảng 2008, trong

hoàn cảnh các nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng theo chiều rộng đã đạt đến tới hạn. Với

thời đại toàn cầu hóa hiện nay, khi Việt Nam trong những năm gần đây liên tiếp ký kết

các hiệp định thương mại tự do với quy mô và mức độ sâu rộng chưa từng có, việc gắn

kết chi tiêu công vào những tiêu chuẩn quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do là

một công cụ rất hữu ích để thúc đẩy quá trình kể trên. Thực tế,Việt Nam đã hoàn thành

đàm phán hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định

thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) trong đó có một chương nói về Mua sắm

công và đồng thời đang là quan sát viên của Hiệp định mua sắm công của WTO (GPA).

Do đó, dưới góc độ kinh tế cũng như chính trị, Việt Nam có một động lực rất lớn để gia

nhập hiệp định GPA để thúc đẩy hơn nữa tính hiệu quả của mua sắm công nói riêng và

chi tiêu chính phủ nói chung. Tham gia hiệp định GPA không chỉ mang đến lợi ích mà

còn có chi phí cho các nước thành viên. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu tổng quan về mua

sắm công và hiệp định GPA cũng như hệ thống mua sắm công tại Việt Nam, đồng thời

đánh giá việc gia nhập, thực thi các điều khoản của GPA sẽ tác động ra sao tới nền kinh

tế Việt Nam

pdf 19 trang kimcuc 18420
Bạn đang xem tài liệu "Lợi ích và chi phí tiềm năng khi Việt Nam gia nhập hiệp định mua sắm công WTO (GPA)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lợi ích và chi phí tiềm năng khi Việt Nam gia nhập hiệp định mua sắm công WTO (GPA)

Lợi ích và chi phí tiềm năng khi Việt Nam gia nhập hiệp định mua sắm công WTO (GPA)
Mã số: 298 
Ngày nhận: 02/08/2016 
Ngày hoàn thành biên tập: 18/7/2016 
Ngày duyệt đăng: 20/8/2016 
Lợi ích và chi phí tiềm năng khi Việt Nam gia nhập hiệp định mua sắm công WTO 
(GPA) 
Tóm tắt 
Ở Việt Nam, mua sắm công hay còn gọi là mua sắm chính phủ chiếm một tỷ 
trọng lớn trong GDP (từ 7% năm 2007 tăng lên đến 22% năm 2010 – theo một tài liệu 
của MUTRAP (2010) con số này có thể lên tới 36%) nhưng đã trở thành một trong 
những khoản chi tiêu kém hiệu quả nhất trong nền kinh tế gắn liền với thất thoát và 
tham nhũng1, từ đó dẫn tới nợ công cao và lạm phát cao. Vì vậy, chi tiêu chính phủ ở 
Việt Nam bao gồm những khoản mua sắm công được xác định là một lĩnh vực cấp bách 
cần phải được cải cách. Cải cách chi tiêu chính phủ cũng là một trong ba trụ cột tái cấu 
trúc nền kinh tế được xác định bởi chính phủ Việt Nam hậu khủng hoảng 2008, trong 
hoàn cảnh các nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng theo chiều rộng đã đạt đến tới hạn. Với 
thời đại toàn cầu hóa hiện nay, khi Việt Nam trong những năm gần đây liên tiếp ký kết 
các hiệp định thương mại tự do với quy mô và mức độ sâu rộng chưa từng có, việc gắn 
kết chi tiêu công vào những tiêu chuẩn quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do là 
một công cụ rất hữu ích để thúc đẩy quá trình kể trên. Thực tế,Việt Nam đã hoàn thành 
đàm phán hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định 
thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) trong đó có một chương nói về Mua sắm 
công và đồng thời đang là quan sát viên của Hiệp định mua sắm công của WTO (GPA). 
Do đó, dưới góc độ kinh tế cũng như chính trị, Việt Nam có một động lực rất lớn để gia 
nhập hiệp định GPA để thúc đẩy hơn nữa tính hiệu quả của mua sắm công nói riêng và 
chi tiêu chính phủ nói chung. Tham gia hiệp định GPA không chỉ mang đến lợi ích mà 
còn có chi phí cho các nước thành viên. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu tổng quan về mua 
sắm công và hiệp định GPA cũng như hệ thống mua sắm công tại Việt Nam, đồng thời 
đánh giá việc gia nhập, thực thi các điều khoản của GPA sẽ tác động ra sao tới nền kinh 
tế Việt Nam 
Từ khóa: Mua sắm công, mua sắm chính phủ, đấu thầu, Hiệp định mua sắm chính phủ 
(GPA) 
Abstract 
In Vietnam, government procurement accounts for considerable proportion of GDP 
(from 7% in 2007 up to 22% in 2010 – in a report from MUTRAP in 2010 the number could 
1 Đánh giá của OECD trong phần giới thiệu về mua sắm công, xem chi tiết tại 
be 36%) but becomes the most ineffective expenditure in the whole economy embedding 
waste and corruption, which entails high public debt and high inflation. Therefore, 
government spending including government procurement has been targeted as an urgent 
area that needed to be reformed. Reforming government spending is also one of three 
reconstructive pillars identified by Vietnam’s government after being suffered from the 
impacts of the global financial crisis in 2008 as well as in the context of limited resources 
for capital based growth model. Under the circumstances, committing to the trade 
agreements in which government procurement provisions are attached could be a valuable 
tool to enhance this process. Indeed, Vietnam completed negotiation of Trans Pacific 
Partnership (TPP) which embodies government procurement provisions and 
simultaneously an observer of Government Procurement Agreement of the WTO (GPA). 
Therefore, from economic and political perspective, Vietnam has strong incentives to 
access to GPA to promote the efficiency of government procurement in particular and 
government spending in general. Participating GPA, however brings not only benefits but 
also costs incurred by acceding members. The article will introduce first overall 
information about government procurement and GPA, then examine how it will impact on 
Vietnam’s economy 
Key words: public procurement, government procurement, tendering, government 
procurement agreement (GPA) 
1 Tổng quan về mua sắm công và GPA 
1.1 Mua sắm công là gì và vai trò của nó đối với nền kinh tế 
Mua sắm công hay mua sắm chính phủ theo giải thích của WTO đó là hoạt động 
mua sắm hàng hóa, dịch vụ của các cơ quan chính phủ để phục vụ cho hoạt động của cơ 
quan mình. Nói một cách khác, mua sắm công là tất cả các hoạt động mua sắm hàng 
hóa và dịch vụ cần thiết để các cơ quan chính phủ thực thi chức năng của mình. Mua 
sắm công theo định nghĩa trên là hoạt động tạo ra đầu vào cho các cơ quan quản lý 
hành chính hoặc quan trọng hơn là đầu vào để cơ quan đại diện cho chính phủ sản xuất 
ra hàng hóa công cộng. 
Theo OECD, mua sắm công được hiểu là những mua sắm của chính phủ và các 
doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đối với hàng hóa, dịch vụ và các công trình. Mua sắm 
công là một chuỗi các hoạt động bắt đầu từ việc đánh giá nhu cầu đến đấu thầu , quản lý 
thầu và thanh toán 
Việt Nam chưa có định nghĩa về mua sắm công tuy nhiên dựa trên các nguồn định 
nghĩa khác có thể tổng hợp: Mua sắm công là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đoàn 
thể, lực lượng vũ trang và DNNN sử dụng vốn Nhà nước để mua sắm hàng hóa, thuê 
dịch vụ hoặc thực hiện các dự án đầu tư để phục vụ việc thực hiện các chức năng của Nhà 
nước hoặc thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao. 
Có ba nhóm đối tượng trực tiếp liên quan đến một hoạt động mua sắm công bất 
kỳ: chính phủ, là người trực tiếp quản lý và sử dụng các hoạt động mua sắm hay chính 
là bên mua trong giao dịch; người dân những người liên quan trực tiếp đến lợi ích của 
hoạt động mua sắm công cũng là những người gián tiếp tài trợ cho hoạt động này thông 
qua việc đóng thuế; khu vực tư nhân là đối tượng tham gia vào quá trình mua sắm công 
hay chính là bên bán trong giao dịch (Stephanus Perturs, 2009, trang 15) 
Mua sắm công thuộc về một khái niệm rộng hơn là chi tiêu chính phủ bao gồm 
toàn bộ các khoản chi tiêu của chính phủ, là một thành phần quan trọng trong GDP 
(các khoản chi của chính phủ có thể bao gồm rộng hơn mua sắm công đó là trợ cấp, chi 
trả nợ). Khi chính phủ mua sắm hàng hóa dịch vụ, mục tiêu của các giao dịch này có 
thể nói không đơn thuần chỉ là tạo đầu vào cho các cơ quan chính phủ mà còn được sử 
dụng để giải quyết các vấn đề khác như hỗ trợ doanh nghiệp trong nước hoặc các nhóm 
cộng đồng kém phát triển. Do đó, lịch sử của mua sắm công không thể tác rời khỏi mối 
liên hệ với chính sách phát triển của quốc gia kể từ thời kỳ phục hưng tới thiết chế Nhà 
nước hiện đại của thế kỷ 21 (Stephanus Pertrus, 2009, trang 1). 
Mục tiêu của một hệ thống mua sắm công của một quốc gia có thể chia làm mục 
tiêu sơ cấp và thứ cấp. Mục tiêu sơ cấp đương nhiên là đảm bảo hệ thống quản lý tài 
chính công hoạt động tốt, sử dụng hiệu quả ngân quỹ công cộng. Mục tiêu thứ cấp đó là 
từ hoạt động mua sắm công tạo ra lợi ích kinh tế xã hội. Nói cách khác, hệ thống mua 
sắm công sẽ chuyển giúp chuyển hóa ngân sách sang các dịch vụ/hàng hóa mà chính 
phủ cung cấp cho người dân một cách hiệu quả. Hệ thống mua sắm công tốt là trọng 
tâm để tạo ra chi tiêu chính phủ tốt, là một thành phần quan trọng trong chiến lược cải 
thiện điều kiện sống cho người dân, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. 
1.2 Lịch sử hình thành, phát triển và nội dung chính của GPA 
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển 
Truy ngược lại lịch sử của đề xuất đầu tiên liên quan đến những cam kết quốc tế 
về mua sắm công, đàm phán cho Hiến chương Havana (tiền thân của WTO) vào năm 
1947 đã cho thấy nỗ lực to lớn trong việc hình thành một tổ chức thương mại quốc tế 
trong đó mua sắm chính phủ được kỳ vọng là một lĩnh vực mà tổ chức này điều tiết. 
Điều 29.1(a) phần D, chương IV trong Hiến chương Havana dành riêng cho các công ty 
thương mại Nhà nước, quy định rằng “ Dù các nước thành viên thành lập hay duy trì 
một công ty thương mại ở bất cứ nơi đâu và cho nó một cách trực tiếp hay gián tiếp 
những đặc quyền nào đó thì những công ty này cũng phải hành xử phù hợp với những 
nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử đã được quy định trong chương này”. Cuối 
cùng, hiến chương Havana đã không được ký kết bởi vì nó không được Quốc hội Mỹ 
thông qua. Cho dù mua sắm công có ý nghĩa kinh tế rất quan trọng, nhưng những quy 
định liên quan đến mua sắm công hay mua sắm chính phủ thường bị lờ đi khỏi phạm vi 
điều chỉnh của các quy định về tiếp cận thị trường trong các hiệp định thương mại tự do 
kể cả đối với hàng hóa (Điều 3 khoản 8 (a) và điều 17 khoản 2 trong GATT 1947) và dịch 
vụ (Điều 13 khoản 1 của GATS) (UNCTAD, 2003, trang 3) 
Sau khi thất bại trong việc đưa các quy định liên quan đến mua sắm công vào 
GATT 1947, vấn đề về mua sắm công vẫn thường xuyên bị bỏ qua trong các vòng đàm 
phán tiếp theo của WTO (từ Geneva đến Tokyo) cho đến khi vòng đám phán Uruguay 
được hình thành thì Hiệp định mua sắm về chính phủ mới được ký ở Marrakesh tại Hội 
nghị các bộ trưởng năm 1994. Không giống như các hiệp định phổ biến khác của WTO 
như GATT, GATS khi các nước bắt buộc phải thông qua các hiệp định trên nếu muốn 
là thành viên của WTO, GPA là một hiệp định nằm ngoài gói cam kết gia nhập, nghĩa 
là các thành viên có thể lựa chọn tham gia GPA hoặc không khi đàm phán gia nhập 
WTO. Nói một cách khác GPA là một hiệp định có tính chất tự nguyện. Hiện nay GPA 
bao gồm có 19 thành viên trong đó EU và 28 nước thành viên của EU được coi là một 
thực thể. Có 5 nước Châu á là thành viên của GPA; đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinh-ga-
po, Hồng Kông và Đài Loan. Ngoài ra, 28 thành viên khác của WTO và 4 tổ chức quốc 
tế là quan sát viên của hiệp định này; trong số đó có cả Việt Nam. Hiệp định GPA có 
hiệu lực từ năm 1996 (phiên bản mới nhất của GPA có hiệu lực từ ngày 6/4/20142). Nó 
bao trùm một phạm vi rộng lớn, vượt qua ngoài hoạt động mua sắm của chính quyền 
trung ương về hàng hóa mà còn bao trùm cả mua sắm dịch vụ, các công trình công cộng 
và phúc lợi – cùng với đó là hoạt động mua sắm của chính quyền địa phương cũng bị 
điều tiết. 
Phạm vi áp dụng GPA của từng thành viên được xác định trong bản lộ trình cam 
kết của mỗi quốc gia khi gia nhập liên quan đến cơ quan mua sắm công và loại hàng 
hóa/dịch vụ mua sắm công bị điều tiết và bản lộ trình này được đi kèm với Hiệp định 
GPA được ký kết. Các quy định trong GPA sẽ được áp dụng cho những hợp đồng mua 
sắm công nằm trên ngưỡng giá trị nhất định, với mua sắm của chính quyền trung ương 
cho hàng hóa và dịch vụ thì ngưỡng này thường lớn hơn 130.000 SDR vào khoảng 
176.000 USD vào năm 1996 và khoảng 180.555 USD vào thời điểm hiện nay. Ngưỡng 
được áp dụng cho chính quyền địa phương cao hơn thường là khoảng 200.000 SDRs, 
dịch vụ công ích khoảng 400.000 SDR, và công trình xây dựng khoảng 5 triệu SDR 
1.2.2 Nội dung chính của GPA 
Trong phiên bản mới nhất của GPA bắt đầu có hiệu lực từ 4/2014, GPA bao gồm có 
22 điều và một phụ lục. Các điều khoản quan trọng trong đó bao gồm: 
- Điều 2 khoản 6: xác định giá của gói thầu (một khoản mua sắm công) trong đó 
quy định rõ chủ đầu tư không được lựa chọn cách thức xác định giá gói thầu hoặc không 
được chia nhỏ gói thầu, để nhằm mục đích tránh áp dụng Hiệp định này. Bên cạnh đó, 
xác định giá trị gói thầu cần tính toán tất cả các khoản phải trả, bao gồm tất cả các khoản 
như phí bảo hiểm, lệ phí, hoa hồng, và tiền lãi. Điều này giúp cho việc tính toán giá trị 
gói thầu được công khai, minh bạch; từ đó xác định gói thầu hay khoản mua sắm công 
này có bị điều chỉnh bởi GPA hay không 
- Điều 3: Các trường hợp ngoại lệ. Tất cả những quy định của GPA có thể không được 
thực hiện trong trường hợp gói thầu liên quan đến an ninh quốc gia, cũng như việc mua 
sắm vũ khí, đạn dược, các vật tư chiến tranh khác hoặc trong việc mua sắm khác phục vụ 
an ninh quốc gia và mục tiêu quốc phòng hay liên quan đến các vấn đề xã hội khác như 
bảo vệ hình ảnh của cộng đồng; trật tự, an toàn cho cuộc sống, sức khoẻ và trí tuệ của 
con người, động thực vật; bảo vệ các vấn đề liên quan đến dịch vụ dành cho người khuyết 
tật, tổ chức từ thiện hoặc việc lao động trong các trại giam. 
- Điều 4 khoản 1 và khoản 2: Không phân biệt đối xử. Điều khoản này tương 
đương với quy tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc ở trong các hiệp định khác của GPA, 
trong đó quy định mỗi nước thành viên sẽ đối xử, ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng 
hóa, dịch vụ và nhà thầu của các nước thành viên khác cung cấp hàng hóa, dịch vụ của các 
2 Xem nội dung chi tiết bản GPA được sửa đổi bổ sung năm 1994 tại 
https://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/rev-gpr-94_01_e.htm 
nước này, không kém thuận lợi hơn so với hàng hóa, dịch vụ và nhà thầu trong nước; và 
hàng hóa, dịch vụ và nhà thầu của bất kỳ nước thành viên nào khác 
- Điều 5: Đối xử ưu đãi cho các nước đang phát triển. Điều này quy định về các biện 
pháp tạm thời mà các nước đang phát triển có thể sử dụng và sẽ không bị coi là vi phạm 
GPA. Thời gian thực hiện các biện pháp tạm thời này sẽ không quá ba năm với các nước 
đang phát triển và không quá năm năm với các nước kém phát triển 
- Điều 9 khoản 4: Đấu thầu hạn chế (selective tendering). Điều này quy định về cách 
thức công bố thông tin của hình thức chỉ định thầu trong đó nêu rõ trong thông báo thầu 
phải nói rõ tiêu chuẩn của các nhà thầu để có thể tham gia gói thầu, và nếu các nhà thầu 
đáp ứng đủ tiêu chuẩn được nêu ra thì chủ đầu tư không có quyền từ chối trừ khi nói rõ hạn 
chế về mặt số lượng nhà thầu trong thông báo thầu. 
- Điều 13: Chỉ định thầu (limited tendering). Điều này quy định chi tiết điều 
kiện để nhà thầu được phép tiến hành đấu thầu bằng hình thức chỉ định thức. Với hình 
thức chỉ định thầu thì những quy định về đấu thầu rộng rãi từ điều 7 đến điều 12 và 
điều 14,15 của GPA có thể được nhà thầu bỏ qua 
- Điều 16: Tính minh bạch của thông tin đấu thầu. Điều này đảm bảo cho sự hạn 
chế hay đối xử không công bằng của chủ đầu tư đối với các nhà thầu không phải thuộc 
nước thành viên của hiệp định ở mức thấp nhất. Tính minh bạch sẽ được đảm bảo bằng 
cách nêu rõ tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện đấu thầu trong thông báo mời thầu; sẵn 
sàng đảm bảo rằng các quy định về đấu thầu không thường xuyên thay đổi trong quá 
trình đấu thầu và, trong những trường hợp thay đổi là không tránh khỏi, phải đảm bảo 
có những cách xử lý thỏa đáng 
- Điều 17: Các thủ tục khiếu nại. Điều này quy định nhà thầu có quyền tham vấn, 
khiếu nại đối với bên mời thầu và trong trường hợp đó chủ đầu tư có trách nhiệm xem 
xét một cách thích đáng, toàn bộ và kịp thời đối với từng cáo buộc mà không có thành 
kiến nhằm có được cách xử lý đúng đắn theo hệ thống khiếu nại. Ngoài ra, bên mời thầu 
cần phải đưa ra những thủ tục không phân biệt đối xử, kịp thời, minh bạch và hiệu quả 
cho phép các nhà thầu khiếu nại những vi phạm Hiệp định phát sinh trong đấu thầu mà 
họ đang có hoặc đã có lợi ích bị xâm phạm 
Phụ lục bao gồm có 5 phần quy định những đối tượng mà quốc gia cam kết sẽ bị 
điều chỉnh bởi quy định của hiệp định 
- Phần 1 bao gồm các cơ quan trung ương 
- Phần 2 bao gồm các cơ quan ở địa phương 
- Phần 3 bao gồm các cơ quan khác 
- Phần 4 bao gồm các loại hình dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định, 
liệt kê theo cách thức chọn cho hay chọn bỏ 
- Phần 5 bao gồm dịch vụ xây lắp 
2 Lợi ích và chi phí tiềm năng khi Việt Nam gia nhập GPA 
2.1 Tổng quan về hệ thống mua sắm công ở Việt Nam 
Có ba nhóm l ... n đề mua sắm công 
2.3.3 Kế hoạch tái cấu trúc nền kinh tế liên quan đến mua sắm công và DNNN 
5 Chương 15 về mua sắm công trong TPP được cho là có những nguyên tắc chung giống như trong GPA, còn 
chương về mua sắm công trong RCEP tuy không được tiết lộ do đang trong quá trình đàm phán nhưng các 
chuyên gia kỳ vọng nó cũng sẽ có những nguyên tắc chung giống như GPA và được áp dụng theo một cách 
thức tương tự 
6 Các nước vừa là thành viên của TPP, vừa là thành viên của GPA: Mỹ, Nhật Bản, Canada, New Zealand, 
Xinh-ga-po 
Gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chê trong mô hình tăng 
trưởng bền vững. Để duy trì phát triển kinh tế nhằm giảm đói nghèo, chính phủ Việt 
Nam quyết định thực hiện kế hoạch tham vọng đó là tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế 
trên 3 trụ cột: đầu tư công, DNNN và thị trường tài chính. Đầu tư công tập trung vào 
tăng cường hiệu quả của chi tiêu chính phủ, đấu tranh chống tham nhũng lãng phí 
trong đó có cả mua sắm chính phủ. Bằng việc thực thi cải cách chi tiêu công theo hướng 
này, việc gia nhập GPA và thực thi các điều khoản mua sắm công trong các hiệp định 
thương mại tự do sẽ nhận được sự ủng hộ chính trị lớn bởi vì nó sẽ là công cụ để giúp 
chính phủ đạt được sự minh bạch và quản trị tốt cuối cùng sẽ làm tăng hiệu quả của chi 
tiêu công. 
DNNN cũng là một đối tượng của kế hoạch cải cách. Mặc dù các DNNN là các chủ 
thể nhận được nhiều đối xử ưu đãi từ phía chính phủ, nhưng lại tạo ra kết quả kinh 
doanh nghèo nàn. Để đối phó với vấn đề này, kế hoạch sẽ tự do hóa hoạt động của 
DNNN theo điều kiện thị trường trong đó vai trò của cạnh tranh được đề cao. Chức 
năng điều tiết thị trường sẽ tách bạch khỏi chức năng kinh doanh. Để đạt được mục tiêu 
trên, sự kiêm soát của Nhà nước trong các DNNN sẽ được giảm bớt bằng việc Nhà nước 
bán bớt cổ phần, đặc biệt trong những lĩnh vực ngành nghề mà Nhà nước không cần 
nắm quyền chi phối thì có thể tư nhân hóa 100%. Ngoài ra hoạt động của các DNNN cần 
được tổ chức lại theo định hướng quản lý tập trung. Tất cả những yếu tố trên sẽ mang 
đến động lực mạnh mẽ cho Việt Nam đặt mua sắm của các DNNN vào danh mục liệt kê 
khi gia nhập GPA. 
Tóm lại, kế hoạch tái cấu trúc nền kinh tế sẽ làm gia tăng tính hiệu quả của việc sử 
dụng ngân sách và giảm chi phí thích ứng khi Việt Nam gia nhập GPA bằng việc tăng 
cường tính minh bạch và hiệu quả của chi tiêu chính phủ. Bên cạnh đó, kế hoạch này 
cũng làm tăng khả năng cạnh tranh của các DNNN, từ đó giúp các doanh nghiệp này 
cạnh tranh tốt hơn với DN nước ngoài thông qua cổ phần hóa, sắp xếp lại hoạt động một 
khi thị trường mua sắm công Việt Nam mở cửa 
Rõ ràng rằng cả 3 nhân tố trên dường như sẽ làm giảm chi phí và tăng lợi ích của 
Việt Nam một khi Việt Nam quyết định gia nhập GPA. Trong trường hợp thiếu vắng cả 
3 nhân tố trên, với tình hình hiện tại của nền kinh tế Việt Nam (đầu tư công kém hiệu 
quả, tỷ lệ nợ công cao, bộ máy hành chính cồng kềnh) tham gia vào các hiệp định 
thương mại có điều khoản về mua sắm công như GPA dự kiến vẫn tạo ra nhiều lợi ích 
hơn chi phí. 
3 Một số khuyến nghị 
Dựa trên những phân tích về lợi ích và chi phí tiềm năng ở phần trước, tác giả đưa 
ra một số khuyến nghị chính sách đối với hoạt động mua sắm công ở Việt Nam như sau 
3.1 Thay đổi cần thiết trong hệ thống mua sắm công quốc gia 
Đối với hệ thống mua sắm công quốc gia cần phải tiếp tục thực hiện những thay 
đổi mang tính cải cách được thực hiện trong khoảng thời gian gần đây. Những thay đổi 
này không nhất thiết phải thực hiện ngay lập tức; trái lại chúng có thể được chia thành 
nhiều giai đoạn được thực hiện qua 5 hoặc 6 năm, đó cũng là khoảng thời gian cần thiết 
để đàm phán gia nhập GPA 
Thay đổi đầu tiên đó là gói cải cách về sự minh bạch và mức độ tin cậy của hệ 
thống mua sắm công. Sự minh bạch và mức độ tin cậy là mục đích tối quan trọng của bất 
kỳ hệ thống mua sắm công nào. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là lợi ích lớn nhất 
mà GPA mang lại cho các nước thành viên (R.D.Anderson, 2011b, trang 140-148). Để 
thực hiện được gói cải cách này cần làm một số việc sau: 
- Thống nhất các văn bản liên quan. Kể từ năm 2005, để thiết lập một hệ thống 
mua sắm công theo mô hình hiện đại, luật đấu thầu và hàng loạt các nghị định và thông 
tư hướng dẫn đã được ban hành. Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng thực thi những 
quyết định của mình liên quan đến các cơ quan thực hiện mua sắm công thuộc quyền 
điều hành. Do đó toàn bộ hệ thống luật này trở nên chồng chéo, phức tạp gián tiếp làm 
giảm tính minh bạch của toàn hệ thống. Luật đấu thầu 2013, phần nào đã giải quyết 
được vấn đề này. Vì thế, chúng tôi khuyến nghị Bộ Tư pháp phối hợp cùng với MPI tiếp 
tục đơn giản hóa và thống nhất các luật liên quan ở mọi cấp độ thành một thể thống 
nhất 
- Thành lập cơ quan có thẩm quyền, độc lập không liên quan đến các cơ quan tiến 
hành mua sắm công để giải quyết các tranh chấp xuất phát từ quá trình mua sắm 
công/đấu thầu. Cơ quan này có thể là một nhánh của Bộ kế hoạch và đầu tư hoặc thanh 
tra chính phủ và có mối quan hệ mật thiết với Bộ Công an trong việc phòng chống tham 
nhũng. Cơ quan này phải đưa ra được một quy trình hiệu quả nhanh chóng để giải 
quyết vấn đề áp dụng luật. Ngoài ra VCCI, cũng có thể hướng dẫn các công ty giải quyết 
tranh chấp thông qua phương án trọng tại, để tránh quá tải cho hệ thống tòa án, hệ 
thống được đánh giá là không đủ năng lực để giải quyết các vấn đề nêu trên 
- Hình thành trung tâm thông tin quốc gia về mua sắm công. Hệ thống này sẽ 
đóng vai trò như một cổng thông tin mua sắm công ở đó không chỉ có các thông tin về 
gói thầu trên phạm vi toàn quốc mà còn có các văn bản hiện hành có liên quan đến gói 
thầu. Hiện tại ở Việt Nam đã có Báo đấu thầu phát hành rộng rãi toàn quốc cùng với 
trang web trực tuyến của mình, và cổng thông tin mua sắm công quốc gia tuy nhiên hệ 
thống hiện nay của Việt Nam còn nhiều bất cập như không được cập nhật thường xuyên, 
thiếu những thông tin quan trọng để hoàn thành hồ sơ thầu và phần tiếng anh còn yếu. 
Ngoài ra, chức năng tra cứu cần được củng cố và mở rộng để các doanh nghiệp có thể dễ 
dàng tìm được thông tin. Không chỉ có nhà thầu nước ngoài mà các nhà thầu trong nước 
cũng gặp phải vấn đề trên khi tìm kiếm và nghiên cứu thông tin đấu thầu ở Việt Nam 
- Ban hành Nghị định đặc biệt quản lý hoạt động mua sắm công có sự tham gia của 
các DNNN và tập đoàn kinh tế. Như đã trình bày ở trên, DNNN thường được kiểm soát 
bởi các bộ, nên có ưu thế lớn khi công ty con của chúng tham gia vào hoạt động đấu thầu 
của cơ quan thuộc chính bộ quản lý DNNN đó. Do vậy, cần thiết phải có luật riêng liên 
quan đến hoạt động tham gia đấu thầu và đấu thầu của các DNNN để duy trì sự cạnh 
tranh lành mạnh trên thị trường cũng như đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí 
- Thúc đẩy đối thoại giữa chính phủ và doanh nghiệp và các tổ chức NGO. Trước 
khi tiến hành đưa ra một quyết định gì, thay vì việc lờ đi ý kiến từ doanh nghiệp, MPI 
nên tham vấn và trao đổi ý kiến với doanh nghiệp để có được những phản hồi hữu ích 
giúp xây dựng môi trường mua sắm công thân thiện. Đồng thời, trong quá trình tiến 
hành đấu thầu, MPI cũng cần phải thu thập thông tin liên quan đến vi phạm của cơ 
quan đấu thầu hay các doanh nghiệp đấu thầu từ phía NGOs và các tổ chức dân sự khác 
để đối phó với tham nhũng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, Mặt trận tổ quốc Việt Nam 
tổ chức dân sự lớn nhất Việt Nam cũng nên có thêm quyền trên thực tế để giám sát các 
dự án sử dụng ngân quỹ đặc biệt là dự án xây dựng cơ sở hạ tầng7. 
Thay đổi thứ hai đó là việc tập trung vào việc sửa đổi các hình thức đấu thầu sao 
cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Theo Nghị định 63/2014 của Chính phủ, ngưỡng để 
7 Về mặt pháp lý, Điều 26 khoản 1 Chương V của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam có nêu rõ Đối tượng giám 
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên 
chức 
tiến hành chỉ định thầu là không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu dịch vụ và 1 tỷ 
đồng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp; ngưỡng của chào hàng cạnh tranh là 
không quá 5 tỷ đồng. Điều này gián tiếp giúp các cơ quan đấu thầu tránh khỏi việc đấu 
thầu công khai bằng việc chia nhỏ các gói thầu. Để phù hợp hơn với GPA và các điều 
khoản mua sắm chính phủ khác, luật đấu thầu nên được sửa đổi thay thế 5 hình thức 
đấu thầu hiện nay bằng 3 hình thức tiêu chuẩn trong GPA đó là (rộng rãi, hạn chế và 
chỉ định). Luật cũng có thể giữ lại hình thức mua sắm trực tiếp để tránh phải trải qua 
thủ tục hành chính đấu thầu kéo dài, đồng thời giảm ngưỡng áp dụng cho chỉ định thầu 
xuống. 
Thay đổi cần thiết cuối cùng trong hệ thống mua sắm công đó là phát triển hệ 
thống mua sắm điện tử. Chính phủ nên bổ sung những quy định liên quan đến hoạt 
động mua sắm điện tử để hoàn thiện Quyết định số 1402/2016 của Thủ tướng chính phủ 
về Kế hoạch tổng thể và lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng giai đoạn 2016 - 2025. Điều 
này sẽ hoàn thành hai mục tiêu. Thứ nhất là tăng tính minh bạch đồng thời hỗ trợ cho 
sự phát triển của khu vực IT. Thứ hai, chính phủ và các hãng sẽ tiết kiệm thời gian tiền 
bạc để hoàn thành các thủ tục hành chính. Ngoài ra cần phải chú ý sự tích hợp giữa hệ 
thống mua sắm công điện tử và cổng thông tin quốc gia về mua sắm công đã được trình 
bày ở trên 
3.2 Thay đổi cần thiết trong hệ thống kinh tế 
Tiếp theo sẽ là những khuyến nghị về thay đổi cần thiết trong hệ thống kinh tế 
Đối với DNNN, một vài biện pháp có thể được thực thi để thúc đẩy tính cạnh 
tranh. Biện pháp đầu tiên đó là tư nhân hóa các DNNN, tính tới ảnh hưởng của doanh 
nghiệp này với xã hội. Chính phủ chỉ duy trì sở hữu tuyệt đối ở các DNNN đóng vai trò 
quan trọng trong việc phân phối phúc lợi xã hội như nước, điện trong khi đó các DNNN, 
Chính phủ có thể giảm tỷ lệ nắm giữ ở mức thích hợp nhằm tránh bán tài sản công một 
cách ồ ạt dưới giá trị. Biện pháp thứ hai đó là củng cố hoạt động quản lý vốn tại các 
DNNN khi các doanh nghiệp này đầu tư ngoài ngành rất nhiều. Điều này dẫn đến phân 
bổ nguồn vốn ngân sách kém hiệu quả gián tiếp gây nên nợ công cao. Biện pháp thứ ba 
đó là thay đổi cách thức trả lương sao cho thu hút được nguồn lực chất lượng cao. Nguồn 
nhân lực cuối cùng sẽ tạo nên sức cạnh tranh cho DNNN khi đối mặt với doanh nghiệp 
nước ngoài. Biện pháp thứ tư là giảm dần việc trao đặc quyền cho các DNNN, đặt họ vào 
áp lực cao của cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần có biện pháp để tách riêng chức năng xã hội 
của các DNNNs với chức năng thị trường. Hoạt động của các DNNN theo chức năng thị 
trường sẽ được điều tiết bởi các bộ luật dạng như GATT cả ở trong nước và nước ngoài; 
trong khi đó hoạt động của các DNNN theo chức năng xã hội sẽ phải tuân theo các luật 
như GPA. Kết quả là lợi ích nhóm và chủ nghĩa gia đình trị ở các DNNN sẽ bị ngăn 
ngừa 
Đối với các công ty tư nhân, để tăng tính cạnh tranh, đặc biệt là tận dụng cơ hội để 
trở thành nhà thầu phụ khi thị trường mua sắm công trong nước được mở cửa, một vài 
biện pháp sau đây có thể được thực hiện. Biện pháp đầu tiên là thực hiện các chính sách 
giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc, 
đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế; tuy nhiên lại đối 
mặt với sự chèn ép từ DNNN và sự vượt trội của doanh nghiệp nước ngoài. Những chính 
sách giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể là thành lập các hiệp hội doanh nghiệp, ưu 
đãi trong vay vốn thương mại. Biện pháp thứ hai đó là thực thi các chính sách phát 
triển công nghiệp hỗ trợ ở những ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh như chế 
biến thực phẩm, gia công phần mềm và vật liệu xây dựng Mục tiêu là sau khi tự do hóa 
thị trường mua sắm công, các công ty Việt Nam có thể đủ năng lực dành được những 
hợp đồng thầu phụ từ những nhà sản xuất nước ngoài những nhà sản xuất có lợi thế về 
công nghệ thông tin và xây dựng. Biện pháp thứ ba đó là củng cố hoạt động xúc tiến 
thương mại của Việt Nam ở các thị trường nước ngoài nhằm giúp các công ty trong nước 
có thể có thêm thông tin về thị trường nước ngoài nói chung và thị trường mua sắm 
công nước ngoài nói riêng 
Tiếp theo chúng ta xem xét sự thay đổi cần thiết ở hệ thống đầu tư công. Việc mở 
rộng đầu tư công theo nhu cầu phát triển xã hội dẫn tới những khó khăn trong việc 
quản lý, từ đó đầu tư công không thực sự tạo ra nền tảng cơ bản cho phát triển kinh tế 
bền vững. Để cải thiện đầu tư công kém hiệu quả cũng như tạo động lực mạnh mẽ cho 
Việt Nam tận dụng những cơ hội được tạo ra bởi GPA, chính sách đầu tư công tập trung 
cần được kích hoạt. Chính sách đầu tư tập trung phải đảm bảo được ba điều kiện. Thứ 
nhất đó là lĩnh vực được chọn đầu tư phải có khả năng tạo ra sự thu hút FDI trong tương 
lai; nó có thể là giáo dục, công nghệ và giao thông vận tải. Thứ hai, đó là đảm bảo đầu tư 
hiệu quả ở các ngành công nghiệp hỗ trợ như trong giao thông vận tải là vật liệu xây 
dựng, máy móc để giúp chúng ta có được hợp đồng thầu phụ. Thứ ba đó là trực tiếp dẫn 
chuyển nguồn vốn khác ngoài vốn Nhà nước như ODA tới những dự án liên quan để 
đáp ứng nhu cầu vốn thực tế. Kết quả từ sự đầu tư kể trên nhất định sẽ đáp ứng rất 
nhanh sự thay đổi pháp lý khi Việt Nam gia nhập GPA và các hiệp định đa phương 
khác có điều khoản về mua sắm công. Ngoài ra, Việt Nam có thể mở rộng phạm vi của 
hình thức đầu tư đối tác công tư trong đầu tư công, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng. 
Bên cạnh việc tiết kiệm tiền cho ngân sách, thặng dư ngân sách nếu có từ các biện pháp 
trên có thể được phân bổ lại một cách hiệu quả. Nói một cách khác, sự tham gia tích cực 
hơn của tư nhân vào đầu tư công cuối cùng sẽ làm tăng hiệu quả đáng kể cho toàn hệ 
thống. 
Tài liệu tham khảo 
1. Hiệp định WTO về mua sắm chính phủ sửa đổi 2012, xem chi tiết tại 
https://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/rev-gpr-94_01_e.htm 
2. Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, xem chi tiết tại 
825 
3. Nghị định 63/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu 
thầu về lựa chọn thầu, xem chi tiết tại 
4. Quyết định 1402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Kế hoạch tổng 
thể và lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng giai đoạn 2016-2025, xem chi tiết tại 
ode=detail&document_id=43635 
5. R.D.Anderson và các cộng sự, 2011, “Assessing the value of future accessions 
to the WTO agreement on government procurement (GPA): some new data sources, 
provisional estimates, and an evaluative framework for individual WTO members 
considering accession”, Working paper ERSD-2011-15 
6. R.D.Anderson và S.Arrosmith, 2011, The WTO regime on Government 
Procurement: challenge and reform, Cambridge: Cambridge University Press 
7. Stephanus Pertrus, 2009, Public procurement law: a comparative analysis, 
University of South Africa 
8. Vũ Văn Phúc, 2012, Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Việt Nam sau 5 
năm gia nhập WTO, NXB Chính trị Quốc gia 
9. Vũ Văn Phúc, 2012, Đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế, NXB 
Chính trị Quốc gia 
10. VCCI, Văn kiện hiệp định TPP và các tóm tắt, chi tiết xem tại 
11. UNCTAD, 2013, Note of the course on Dispute Settlement in International 
Trade, Investment and Intellectual Property: module on government procurement, 
Geneva: United Nations 

File đính kèm:

  • pdfloi_ich_va_chi_phi_tiem_nang_khi_viet_nam_gia_nhap_hiep_dinh.pdf