Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ

Dân ca quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc bộ (Việt

Nam) với hình thức đối đáp diễn xướng điển hình. Bài viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu

định tính (thu thập, phân tích tư liệu; phân loại, miêu tả các kiểu lịch sự, phương thức thể hiện lịch

sự trong dân ca quan họ). Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ được thể hiện trên hai phương

diện: lịch sự quy ước và lịch sự chiến lược. Các loại lịch sự này được thể hiện bằng các phương

thức: phương thức thể hiện lịch sự chiến lược (dùng từ ngữ xưng hô, dùng các từ ngữ tình thái,

lịch sự trong sự vận động chiến lược giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ, lịch sự trong

những lời rào đón, đưa đẩy); phương thức thể hiện lịch sự quy ước (lịch sự trong văn hóa ứng xử

có tính quy thức xã hội). Nghiên cứu lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ đã cho thấy đặc điểm

văn hóa ứng xử của con người Kinh Bắc: ưa sự nhẹ nhàng, tế nhị trong giao tiếp.

pdf 6 trang kimcuc 10080
Bạn đang xem tài liệu "Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ

Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 103 - 108 
 Email: jst@tnu.edu.vn 103 
 LỊCH SỰ GIAO TIẾP TRONG DÂN CA QUAN HỌ 
Nguyễn Diệu Thương*, Phạm Quốc Tuấn 
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Dân ca quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc bộ (Việt 
Nam) với hình thức đối đáp diễn xướng điển hình. Bài viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu 
định tính (thu thập, phân tích tư liệu; phân loại, miêu tả các kiểu lịch sự, phương thức thể hiện lịch 
sự trong dân ca quan họ). Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ được thể hiện trên hai phương 
diện: lịch sự quy ước và lịch sự chiến lược. Các loại lịch sự này được thể hiện bằng các phương 
thức: phương thức thể hiện lịch sự chiến lược (dùng từ ngữ xưng hô, dùng các từ ngữ tình thái, 
lịch sự trong sự vận động chiến lược giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ, lịch sự trong 
những lời rào đón, đưa đẩy); phương thức thể hiện lịch sự quy ước (lịch sự trong văn hóa ứng xử 
có tính quy thức xã hội). Nghiên cứu lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ đã cho thấy đặc điểm 
văn hóa ứng xử của con người Kinh Bắc: ưa sự nhẹ nhàng, tế nhị trong giao tiếp. 
Từ khóa: Ngôn ngữ học; lịch sự quy ước; lịch sự chiến lược; các phương thức lịch sự; dân ca quan họ. 
Ngày nhận bài: 02/5/2019; Ngày hoàn thiện: 20/5/2019; Ngày duyệt đăng: 06/6/2019 
COMMUNICATION POLITENESS IN QUAN HO FORK SONGS 
Nguyen Dieu Thuong
*
, Pham Quoc Tuan 
TNU - University of Education 
ABSTRACT 
Quan ho folk songs are the typical folk songs of the Northern Delta region (Vietnam) with the 
typical form of call and respond singing. The paper used qualitative research methods (collecting, 
analyzing materials, classifying, describing types of politeness, methods of expressing politeness 
in Quan ho folk songs). The communicate politeness in the folk songs is shown in two aspects: 
conventionalized politeness and strategic politeness. These types are expressed by the following 
methods: strategic politeness (using vocative words, modal words, using hedges words, using 
strategic movement in communication associated speech acts); conventionalized politeness (using 
standard in social behavioral culture). Studying politeness in Quan ho folk songs has shown the 
cultural behavior of Kinh Bac people: love of lightness, subterness in communication. 
Keywords: Linguistics; conventionalized politeness; strategic politeness; methods of expressing 
politeness; Quan ho folk songs. 
Received: 02/5/2019; Revised: 20/5/2019; Approved: 06/6/2019 
* Corresponding author. Email: dieuthuong2212@gmail.com
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 
 Email: jst@tnu.edu.vn 104 
1. Giới thiệu 
Trong giao tiếp, nói đúng, đủ thông tin chưa 
hẳn đã đạt được hiệu quả. Người Việt có câu: 
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn 
nói tiếng dịu dàng dễ nghe. “Dễ nghe” ở đây 
không chỉ đảm bảo quy tắc “đúng, đủ” mà 
còn là nói làm sao cho “lọt lỗ tai”, tức người 
nghe có thể dễ dàng chấp nhận được. Muốn 
vậy, cần thiết phải đảm bảo quy tắc lịch sự 
trong hội thoại. 
Theo G.M. Green, lịch sự là những chiến lược 
nhằm duy trì hay thay đổi quan hệ liên cá 
nhân. Điều này được nõi rõ trong định nghĩa 
của J. Thomas: “Phép lịch sự được xem như 
là một (hay một loạt chiến lược) được người 
nói dùng để hoàn thành một số mục đích như 
thiết lập hoặc duy trì những quan hệ hài hòa. 
Trong khi đó, tác giả Lakoff đã phân loại lịch 
sự thành: lịch sự quy thức và phi quy thức, 
lịch sự bạn bè (khuyến khích tình cảm bạn 
bè). G.N. Leech đã xây dựng quy tắc lịch sự 
dựa trên hai khái niệm tổn thất (cost) và lợi 
ích (benefit). Lý thuyết của Brown và 
Levinson được xem là nhất quán và có sự ảnh 
hưởng rộng rãi nhất. Khác với Leech, Brown 
và Levinson đã xây dựng lý thuyết của mình 
trên khái niệm thể diện (mượn của Goffman). 
Thể diện gồm: thể diện âm tính (là mong 
muốn không bị can thiệp, được hành động tự 
do theo cách mình đã chọn), thể diện dương 
tính (được phản ánh trong ý muốn mình được 
ưa thích, tán thưởng, tôn trọng, đánh giá cao). 
Khi phân tích, Brown và Levinson đã chỉ ra 
các khái niệm liên quan, hành vi đe dọa thể 
diện, chiến lược lịch sự [1, tr. 257-268]. Từ 
vấn đề lý thuyết về lịch sự của Brown và 
Levinson, đã có nhiều công trình nghiên cứu 
vận dụng lý thuyết đó soi chiếu tới các vấn đề 
giao tiếp cụ thể. Nhìn chung, hiện nay, khi 
xem xét đến sự khác biệt trong cách thức thể 
hiện lịch sự, các công trình đã chỉ ra rằng có 
sự khác biệt theo giới tính, độ tuổi, tính cách 
và văn hóa. Trước hết, bản sắc văn hóa được 
bộc lộ từ chính cách con người thể hiện lịch 
sự trong giao tiếp. Chẳng hạn: 
Lỗ mũi mười tám gánh lông 
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho 
Đêm nằm thì ngáy o o 
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà 
 (Ca dao) 
Bài ca dao nói đến vẻ “kém duyên” của người 
phụ nữ. Đó là hành vi “chê”. “Chê” đối với 
bất cứ ai thì cũng đã là đe dọa thể diện. Thêm 
nữa, lại là chê hình thức và “ý tứ” của người 
phụ nữ thì lại càng là bất lịch sự. Nhưng điều 
đó được “hóa giải” là: “râu rồng trời cho”, 
“ngáy cho vui nhà”. Cách nói rất hài hước (sử 
dụng biện pháp tu từ phóng đại) đã là một 
bước giảm nhẹ sự đe dọa thể diện của hành vi 
“chê”. Mặt khác, sự “tháo ngòi” khi đẩy đến 
đỉnh của hành vi “chê” được lý giải bởi chính 
cái sự “chồng yêu”. Từ đó, cho thấy người 
Việt rất coi trọng tình cảm. Tình cảm là yếu 
tố có thể quyết định và làm chuyển hóa những 
điều dù có là vạn “tường thành” trở ngại. Vì 
thế mà: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/ Thất 
bát sông cũng lội, tam thập lục đèo cũng 
qua...”, “Yêu nhau cau sáu bổ ba/ Ghét nhau 
cau sáu bổ ra làm mười”... Đây chính là một 
quy luật tâm lý của người Việt. Cũng bởi vậy 
mà, câu ca dao trên dù có là “chê” nhưng đặt 
trong mục đích giao tiếp nên vẫn đảm bảo 
được tính lịch sự. Qua đó, muốn thấy được 
truyền thống văn hóa đặc thù của một dân tộc 
thì nghiên cứu dựa trên các sáng tác tập thể ra 
đời gắn liền với bối cảnh sinh hoạt cộng đồng 
là điều không thể thiếu. Dân ca quan họ là 
một sáng tác có tầm quan trọng như thế. Tìm 
hiểu phép lịch sự trong dân ca quan họ sẽ thấy 
được văn hóa giao tiếp đặc thù của người dân 
kinh Bắc nói riêng và con người Việt Nam 
nói chung. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng 
phương pháp nghiên cứu định tính. Để có 
nguồn tư liệu (là những ngữ liệu thể hiện tính 
lịch sự trong giao tiếp), tác giả đã tiến hành 
phân tích tư liệu, phân loại các kiểu, các 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 
 Email: jst@tnu.edu.vn 105 
phương thức thể hiện lịch sự được sử dụng 
(chủ yếu qua các bài hát đối đáp) trong ca từ 
được thu thập từ các nguồn tài liệu chính: 
website: https://quanhobacninh.vn, Các bài 
hát đối quan họ, Dân ca quan họ Bắc Ninh, 
Không gian văn hóa quan họ Bắc sông Cầu. 
Các thủ pháp: miêu tả; đối chiếu, so sánh 
cũng được tác giả sử dụng trong quá trình thu 
thập, phân tích và phân loại tư liệu. 
3. Kết quả và bàn luận 
Dựa trên phạm vi chuẩn mực lịch sự, phép 
lịch sự có thể phân chia thành hai loại: lịch sự 
quy ước (mang tính chất xã hội) và lịch sự 
chiến lược (mang tính chất cá thể). Lịch sự 
quy ước có tính chuẩn mực ứng xử gắn liền 
với quan niệm văn hóa chung của cộng đồng. 
Lịch sự chiến lược là lịch sự được xây dựng 
dựa trên những tính toán về các mức độ hiệu 
lực đe dọa thể diện bởi hành vi ở lời của cá 
nhân trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể; từ đó, 
sẽ vận dụng các biện pháp bù đắp để nhằm 
giảm thiểu mức độ đe dọa. Trong giao tiếp, 
các nhân vật giao tiếp phải đồng thời chú ý, 
cân nhắc, tạo ra sự hài hòa giữa hai kiểu 
chuẩn mực này. Cũng trong quy luật này, dân 
ca quan họ đã thể hiện sự vận dụng linh hoạt 
bởi các chiến lược lịch sự. Khi các liền anh, 
liền chị tham gia giao tiếp, họ không chỉ thực 
hiện các chiến lược giao tiếp gắn với các hành 
vi ngôn ngữ mà còn rất chú trọng đến những 
chuẩn mực là những phép tắc ứng xử truyền 
thống của dân tộc. Điều đó được thể hiện cụ 
thể như mục 3.1 và 3.2 dưới đây. 
3.1. Lịch sự chiến lược 
3.1.1. Lịch sự trong cách xưng hô 
Từ xưng hô trong tiếng Việt rất đa dạng. Có 
các cặp từ xưng hô có tính hô ứng: cùng/ 
ngang bậc (tôi, tớ, tao...), không cùng bậc/ 
trên, dưới (anh - em, chị - em, chú - cháu...). 
Đối với mối quan hệ gia đình, mọi người sẽ 
xưng hô theo mối quan hệ họ hàng huyết 
thống. Nếu chỉ có mối quan hệ xã hội thì tuổi 
tác thường được lấy làm tiêu chuẩn để xác 
định cách xưng hô. Trong trường hợp mới 
gặp, còn chưa hiểu về đối phương thì người ta 
thường vận dụng cách xưng hô theo quy tắc 
lịch sự: “xưng khiêm - hô tôn”. Sau thời gian 
quen biết, cách xưng hô có thể được điều 
chỉnh cho phù hợp. Cách xưng hô: người - 
em; anh Hai/ chị Hai - em... trong dân ca 
quan họ đã trở nên phổ biến. Đó là lối đối đáp 
rất đặc trưng. Các liền anh, liền chị, dù không 
biết tuổi tác ra sao nhưng đều hô “anh Hai 
(Ba,...)”, “chị Hai (Ba....)” và xưng “em”. 
Điều đó thể hiện sự tôn kính bằng cách đặt 
đối phương là bề trên. Ngoài ra, cách xưng hô 
người - em (Người về, em vẫn ngậm ngùi... 
[2]; Người về em dặn người rằng/ Đâu hơn 
người lấy, đâu bằng người đợi em... [2]). 
Người là ai? Là anh? Là chị? Hay là “mình”? 
Cách gọi như có sự phân thân vừa rất tình tứ 
ngọt ngào, gần gũi, trìu mến vừa cho thấy sự 
tôn trọng nhất mực. Điều này còn được liên 
tưởng đến cách xưng hô trong ca dao... Có 
điều đáng chú ý, nếu “người” được dùng để 
hô gọi theo ngôi thứ hai có sắc thái ý nghĩa 
khác với “người” được dùng ở ngôi thứ ba. Ở 
ngôi thứ ba, chúng thường được dùng ghép 
với các đại từ chỉ định: người đó, bên đó... lại 
tạo khoảng cách xa xôi (Người á đó có nơi 
song bên ả đó có nơi rồi chị rằng Năm ơi 
người đó có nơi song bên ả đó có nơi rồi... [3, 
tr. 111]). Đại từ “ai” được dùng để xưng hô 
mang ý nghĩa bất định: nào ai... [3, tr. 16], 
nhớ đến ai... [3, tr. 15], ai làm đến nỗi nhớ 
thương thế này... [3, tr. 136], lòng này ai tỏ 
cho nhau hỡi lòng [3, tr. 137]. Qua đó, nét ý 
nhị, duyên dáng, nhẹ nhàng trong ca từ lại 
càng mượt mà, chạm đến được trái tim của 
muôn người, muôn đời. 
Ngoài ra, dân ca quan họ còn sử dụng các từ 
xưng hô thường gặp: chàng, thiếp. Điều này, 
làm cho không gian diễn xướng quan họ có 
thêm âm hưởng trang trọng và thơ mộng. 
Cách xưng hô hoán dụ, ẩn dụ cũng được sử 
dụng để tạo nét ý nhị trong dân ca quan họ: 
Xin quan họ đừng quản ngại chúng chê bạn 
cười là tôi nói ra... [4, tr. 20], duyên tình ơi, 
Bây giờ rồng lại gặp mây/ Để rồng than thở 
với mây đôi lời [5, tr. 403]. 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 
 Email: jst@tnu.edu.vn 106 
Như vậy, cách xưng hô trong quan họ có sự 
đa dạng nhưng gắn với mục đích và hoàn 
cảnh giao tiếp đã thể hiện được sự khác nhau 
về sắc thái biểu cảm cũng như mối quan hệ 
tiệm tiến hay tiệm thoái của nhân vật trữ tình. 
Nhìn chung đều cho thấy sự ý nhị, văn hoa..., 
mềm mại, khéo léo, đậm tình người, dịu dàng 
mà đằm thắm ân tình xứ Bắc. 
3.1.2. Lịch sự thể hiện qua việc sử dụng các 
tình thái từ 
Xen giữa các thực từ, loạt các tình thái từ lặp 
đi lặp lại là nét riêng chỉ có trong dân ca quan 
họ (... ối a, tính ta, ư hừ... ạ) có tác dụng làm 
mềm hóa, đồng thời như nhịp tả sự dùng 
dằng, nhẹ nhàng mà kín đáo, e ấp... Bên cạnh 
đó, việc sử dụng nhiều từ ạ còn cho thấy sự 
kính trọng trong giao tiếp giữa các liền anh, 
liền chị. Đồng thời, nó còn tạo ra sự xa cách, 
nhiệt thành nhưng không vồn vã, mà rất thanh 
nhã:  đường đấy ạ [4, tr. 7]. 
3.1.3. Lịch sự trong sự vận động chiến lược 
giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ 
Quy tắc khiêm - tôn không chỉ thể hiện trong 
cách xưng hô mà còn thấy ngay trong cách 
ứng xử gắn liền với các hành vi ngôn ngữ. Đó 
vừa là chiến lược giao tiếp mềm dẻo linh hoạt 
của các nhân vật giao tiếp (cụ thể là các liền 
anh, liền chị) vừa là quy tắc ứng xử của xã 
hội Việt Nam. 
Trước hết, khen là hành vi ngôn ngữ có tác 
dụng làm tăng thể diện của người nghe. Tuy 
nhiên, có những trường hợp, hình thức của phát 
ngôn là lời khen nhưng lại làm đe dọa thể diện 
của người nghe nếu thiếu đi điều kiện chân 
thành. Tuy nhiên, xét trong các bài dân ca quan 
họ, không có trường hợp nào như vậy. Trong 
các bài hát dân ca quan họ, sử dụng hành vi 
khen là một chiến lược tạo ra tính lịch sự cho 
phát ngôn. Hành vi khen được tạo ra bằng cách 
sử dụng các tính từ chỉ tính chất, phẩm chất tích 
cực (Người ngoan tôi hỏi nhời này có nên [3, tr. 
21]. Bên cạnh đó, nhiều hơn là phương thức 
khen gián tiếp bởi cấu trúc so sánh với đặc điểm 
của yếu tố so sánh mang tính chất, phẩm chất 
tích cực (Anh Hai, anh Ba nói mà như sấm bên 
Đông, chớp động bên Tây, mưa tỉnh Hà Nội mà 
đây ướt đường đấy ạ [2]), Chị Hai đứng đấy 
miệng cười như hoa/ Mây tuôn suối tóc tuyết 
nhường màu da [3, tr. 53]. 
Quy tắc lịch sự không chỉ là sử dụng những 
hành vi làm tăng thể diện của người nghe mà 
còn làm giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện. 
Trách là hành vi ngôn ngữ có mức độ đe dọa 
đến thể diện dương tính của người nghe. 
Trong dân ca quan họ, ta thường gặp lối trách 
rất duyên như sau: Anh rằng Năm ơi chứ mấy 
em ngồi rồi trách là phận i má ơ má a đào... 
[2], tơ hồng là tơ hồng đa đoan... trách ông 
Thiên... đưa đẩy là đưa đẩy cái tơ hồng... 
Người là người ngoan sao mà khéo i i la ơi 
hư ơi hừ là hời hư la hới hời hư phụ lòng là 
phụ lòng với nhau... chốn sông sâu sao đưa 
đẩy đưa đẩy cái tơ ơ hồng...” [4, tr. 11]. 
Chuyện tình dang dở, không đến được với 
nhau, thay vì trách người lại là trách tơ hồng, 
ông Thiên, phận má đào. Ở đây, ta thấy quan 
điểm triết lý đạo Phật về duyên phận được lấy 
làm cái cớ rất duyên đã tránh được sự tổn hại 
thể diện dương tính và giảm bớt sự tổn thất 
thể diện âm tính cả người nói và người nghe. 
Duyên tình lỡ làng, nhân vật trữ tình nhiều 
khi không trách mà chỉ than (phận em là 
phận trái duyên, duyên em nhỡ...). Nhân vật 
trữ tình đã mượn chữ “duyên” gắn với thuyết 
duyên khởi, duyên sinh, nhân duyên của triết 
lý Phật giáo. Không phải do tại anh, ko phải 
tại em... Từ đó, lời than đã giảm đáng kể mức 
độ tổn hại thể diện của người than mà cũng 
không làm ảnh hưởng đến thể diện của đối 
phương. Vẫn giãi bày được tâm sự thở than 
nhưng không hề bi lụy. 
Dân ca quan họ là các câu hát giao duyên. 
Nói đến dân ca quan họ không thể không nói 
đến hành vi tỏ tình. Hành vi tỏ tình được gợi 
đến từ những cái cớ rất duyên, rất ý tứ; được 
dẫn dắt từ sự việc này, đến sự việc khác một 
cách tự nhiên (Bạn tình ơi... duyên tình cách 
mấy con sông nên tôi phải lụy đò. Bởi chưng 
trời tối nên tôi phải lụy cô bán hàng trống 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 
 Email: jst@tnu.edu.vn 107 
cơm. Khen ai là khen khéo vỗ,... khéo gảy... 
nên tôi trót say huê... nên tôi phải đi tìm 
huê Xin quan họ đừng quản ngại chúng chê 
bạn cười là tôi nói ra... [4, tr. 20]. Như vậy, 
hành vi tỏ tình được thực hiện bằng cách nói 
vòng, rào đón đưa đẩy. Đây là chiến lược làm 
tăng thể diện dương tính của người nghe 
(được yêu thích) và giảm mức độ đe dọa thể 
diện dương tính của người nói (phòng ngừa 
trường hợp bị cười chê)... Ngoài việc tỏ tình 
bằng hành vi ngôn ngữ trực tiếp, hành vi ngôn 
ngữ gián tiếp cũng là một phương thức được 
sử dụng thể hiện lịch sự chiến lược (Khách 
đến í đến chơi hự hừ nhà là chơi hự hừ nhà/ 
Đốt than ớ ơ dậu mà quạt i nước mấy pha trà 
mời người xơi i là chén có a trà này, quý i vậy 
í ơ ớ ở o sông i cạn í ơ đất liền Gần chùa là 
chùa chả i bén mấy duyên hương í i chút nào 
là sáng có ả trăng xuống, sáng i cả í ơ ớ ở o 
sáng i cả í ơ vườn đào [2]). Trong chuyện 
tình cảm, các nhân vật khẳng định tình cảm 
dành cho nhau một cách gián tiếp bởi các 
hình ảnh có tính chất biểu trưng qua hành vi 
kể, trần thuật (Lên thác i i là em lại a bên nay 
a xuống ghềnh... em có quản bao nhọc nhằn 
[4, tr. 8]). Đây là hành vi tôn vinh thể diện 
dương tính đối với người nghe. Người nghe 
được đề cao vì nhân vật trữ tình em đã không 
quản ngại khó khăn, gian khổ để có được 
“tình yêu”. Đồng thời, thể diện của nhân vật 
trữ tình cũng được tăng lên (khẳng định ý chí 
và mong muốn được thừa nhận, thấu hiểu). 
3.1.4. Lịch sự trong những lời rào đón, đưa đẩy 
Song song với việc sử dụng các hành vi ngôn 
ngữ, để giảm thiểu sự đe dọa thể diện, cần 
thiết phải sử dụng các phương thức lịch sự. 
Trong đó có những lời rào đón, đưa đẩy. 
Đó là những lời nói tỏ tình trực tiếp nhưng lại 
được đưa đẩy, rào đón bằng những lời lẽ 
“phòng thủ”: nào đâu dám, thực đâu có 
dám dỗ dành..., tiện đây, xin Quan họ đừng 
quản ngại chúng chê ấy chê bạn cười là tôi 
nói ra[2]. Ngoài ra, việc sử dụng lối nói 
vòng dựa trên các trường liên tưởng (dùng cái 
cớ để nói xa, nói gần) cũng là một cách nói 
đưa đẩy (Gấm đây là đôi tay i vừa thêu là 
thêu em vừa dệt gấm hoa đôi em dệt ơ đôi ba 
người ... Em thêu này chăn loan tay em cùng 
là thêu như gối phượng cùng màn chăn... đưa 
về tới bạn tri âm...tìm không là không thấy 
bạn ơ đôi ba người ơi ấy trên con đường trên 
đường luốn những ngẩn ngơ ... nhớ ai nay em 
chờ là mai như em đợi... [4, tr. 74]. 
Bên cạnh đó, sự rào đón còn thể hiện ở việc 
sử dụng lập luận dự báo về kết quả... để 
thuyết phục: Người về tính toán làm chi/ Yêu 
nhau trò chuyện vân vi/ Kẻo mai khiếm khuyết 
điều gì lại bảo tại tôi/ Người về tính toán làm 
chi/ Yêu nhau người quyết ngay đi/ Kẻo mai 
tiếng bấc tiếng chì lại bảo tại tôi/ Người về 
tính toán làm chi/ Yêu nhau sớm quyết duyên 
đi/ Kẻo mai quá lứa đỗi thì lại bảo tại tôi 
[3, tr. 102]. 
3.2. Lịch sự quy ước 
Lịch sự quy ước là loại lịch sự được thực hiện 
dựa trên những lễ nghĩa, phong tục, văn hóa 
ứng xử có tính quy thức xã hội. Người Việt 
Nam có câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện. 
Miếng trầu trong tâm thức người Việt Nam là 
biểu tượng của tình cảm chân thành, sâu sắc. 
Vậy nên, người quan họ đã thể hiện sự hiếu 
khách bằng những câu hát mời trầu: Gặp đây 
ăn một miếng trầu. Không ăn cầm lấy, không 
ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng. Miếng trầu 
không chỉ là đầu câu chuyện, mà còn gợi ra nét 
ý tứ về một câu chuyện khác- câu chuyện 
“chung một nhà”: Trầu này trầu tính trầu tình. 
Trầu này trầu tính trầu tình. Ăn vào cho đỏ, ăn 
vào cho đỏ môi mình môi ta Anh còn son. 
Em còn son. Ước gì ta được làm con một nhà 
[2]. Cơ sở của sự liên tưởng từ chuyện mời 
trầu gợi chuyện “một nhà” là bởi văn hóa 
“nghĩa cau trầu” (miếng cau, lá trầu là vật đính 
ước hôn lễ theo phong tục cưới xin người 
Việt). Cùng với mời trầu, người quan họ còn 
thể hiện lòng hiếu khách của mình bằng hành 
động mời trà: Khách đến í đến chơi hự hừ nhà 
là chơi hự hừ nhà/ Đốt than ớ ơ dậu mà quạt i 
nước mấy pha trà mời người xơi i là chén có a 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 
 Email: jst@tnu.edu.vn 108 
trà này, quý i vậy í ơ ớ ở o sông i cạn í ơ đất 
liền [2]. Ngoài sự lịch sự được thể hiện bằng 
văn hóa hiếu khách “mời nước, mời trầu” thì 
lịch sự quy ước còn được thấy trong lời ăn ý ở, 
tập tục nói năng, đi đứng,... Đó là những giá trị 
văn hóa truyền thống rất cốt lõi trong cách ứng 
xử của người Việt “người nói phải có người 
nghe”: Anh rằng Tư ơi chứ em lắng tai nghe 
lời anh Tư nói i ai ơi bên hữu a tình là anh 
rằng Tư ơi chứ em lắng tai nghe lời anh Tư nói 
i ai ơi ...[4, tr. 26]. Đó là sự lễ phép trong cách 
ứng xử với mẹ cha: Anh về thưa với mẹ cha. 
Em về thưa với mẹ cha [2]. Ngoài ra, tình 
nghĩa thủy chung son sắt luôn được đề cao và 
là một thước đo trong giao tiếp quan họ. Chính 
vì vậy, chúng ta gặp rất nhiều lời hát ân tình: 
Anh biết rồi nên vì người giữ lời hứa rằng năm 
xưa ơ chúng mình, yêu i ơ nhau là trước sau 
tình đừng phai dù rằng ai xin chớ đứng ngồi 
[2]/ Đừng làm rồng ngược mây xuôi. Nhớ khi 
hò hẹn, nhớ lời thủy chung [5, tr. 403] 
4. Kết luận 
Ca hát quan họ là một hình thức sinh hoạt văn 
hóa độc đáo của người dân vùng Kinh Bắc xưa- 
Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Đó là một 
tổng thể những giá trị văn hóa, văn nghệ dân 
gian hợp thành, là kiệt tác sáng tạo truyền 
miệng của nhân dân qua nhiều thế hệ. Qua các 
làn điệu dân ca, chúng ta thấy được những nét 
văn hóa coi trọng “lễ nghĩa” và cách ứng xử ý 
nhị, mềm mại, khéo léo của người dân Kinh 
Bắc. Bài viết tập trung miêu tả các phương thức 
thể hiện phép lịch sự trong giao tiếp qua các làn 
điệu dân ca quan họ. Nhìn chung, có thể nhận 
thấy rằng lịch sự chiến lược (mang tính chất cá 
thể hóa gắn liền với tình huống giao tiếp) trong 
dân ca quan họ luôn chịu ảnh hưởng của phông 
văn hóa vùng đất kinh Bắc. Chính vì thế; quan 
niệm, hành động của cá nhân cũng là những 
chuẩn mực ứng xử chung của cộng đồng. Điều 
này có thể lý giải bởi dân ca quan họ là những 
sáng tác tập thể có tính diễn xướng của quần 
chúng nhân dân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn 
ngữ học (Tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996. 
[2]. Web: https://quanhobacninh.vn/, truy cập 
ngày 20 tháng 03 năm 2019. 
[3]. Trung tâm văn hóa Tỉnh Bắc Giang, Các bài 
hát đối quan họ, Bắc Giang, 2010. 
[4]. Lâm Minh Đức (ký âm và tuyển chọn), Dân 
ca quan họ Bắc Ninh, Nxb Thanh Niên, Hà 
Nội, 2005. 
[5]. Trung tâm văn hóa Tỉnh Bắc Giang, Không 
gian văn hóa quan họ Bắc sông Cầu, Bắc 
Giang, 2014. 

File đính kèm:

  • pdflich_su_giao_tiep_trong_dan_ca_quan_ho.pdf