Lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm các nước đang phát triển và trường hợp Việt Nam

Nghiên cứu này được tiến hành nhằm kiểm định mối quan hệ phi tuyến tính giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp tự hồi quy với mẫu nghiên cứu 17 nước đang phát triển, trong đó có VN

giai đoạn từ năm 2000 đến 2012. Kết quả ước lượng mô hình cho thấy tồn tại

một ngưỡng lạm phát mà khi lạm phát vượt trên ngưỡng này sẽ gây tác động tiêu

cực đến tăng trưởng kinh tế. Dựa trên thực tiễn VN, nhóm nghiên cứu thảo luận

nguyên nhân của sự khác biệt về tăng trưởng giữa VN so với các nước khác và

đề ra một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao năng lực kiểm soát lạm phát ở mức

độ hợp lí và phát huy mặt tác động tích cực mà lạm phát có thể mang lại cho nền

kinh tế VN.

pdf 11 trang kimcuc 13240
Bạn đang xem tài liệu "Lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm các nước đang phát triển và trường hợp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm các nước đang phát triển và trường hợp Việt Nam

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm các nước đang phát triển và trường hợp Việt Nam
Số 21 (31) - Tháng 03-04/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
23
1. Đặt vấn đề
Lạm phát là hiện tượng kinh 
tế vĩ mô phổ biến, có ảnh hưởng 
sâu rộng đến các mặt kinh tế, chính 
trị, xã hội của các quốc gia trong 
các giai đoạn phát triển kinh tế. Vì 
“lạm phát là một căn bệnh mãn 
tính, những lúc ngớt cơn chỉ là 
thời kỳ ủ bệnh và khi phát cơn thì 
như một ngọn lửa bùng” (Maurice 
Flamant, 1992) nên việc ổn định 
và kiểm soát lạm phát luôn là một 
trong những mục tiêu quan trọng 
hàng đầu trong việc điều hành kinh 
tế vĩ mô của mỗi quốc gia.
Trong những thập kỷ vừa qua, 
kinh tế thế giới có nhiều biến động, 
đặc biệt là các cuộc khủng hoảng 
kinh tế toàn cầu đã làm tụt giảm tốc 
độ tăng trưởng kinh tế và khiến lạm 
phát tăng cao ở nhiều nước. Trong 
đó ở VN xuất hiện chu kỳ vòng 
xoáy “tăng trưởng thấp - lạm phát 
cao”. Do chính sách kỳ vọng quá 
mức về tăng trưởng cao mà lạm 
dụng yếu tố tiền tệ đã khiến lạm 
phát hình thành ở mức cao, gây tác 
động ngược đối với tăng trưởng 
kinh tế. Trong bối cảnh lạm phát 
liên tục biến động và ảnh hưởng 
đáng kể đến định hướng chính 
sách kinh tế vĩ mô như vậy, từ năm 
2011, Chính phủ VN đã quan tâm 
đến một chính sách tiền tệ mới - 
chính sách lạm phát mục tiêu mà 
theo đó duy trì mức lạm phát hợp lí 
và ổn định trở thành mục tiêu hàng 
đầu của chính sách tiền tệ. Chiến 
lược thực hiện mục tiêu lạm phát là 
một quy trình phức tạp. Trước hết, 
Ngân hàng Trung ương phải xây 
dựng cho mình một điểm hoặc một 
khoảng mục tiêu lạm phát. Trên thế 
giới đã có nhiều nghiên cứu chứng 
minh cho sự tồn tại của ngưỡng 
lạm phát đối với các mẫu các nước 
khác nhau như Sarel (1996), Khan 
và Senhadji (2001), Drukker và 
cộng sự (2005),. Riêng ở VN 
chưa có nhiều tác giả thực hiện các 
nghiên cứu định lượng để xác định 
ngưỡng lạm phát, chính vì thế, 
nhóm nghiên cứu sử dụng phương 
pháp định lượng nhằm tìm ra 
ngưỡng hiệu quả cho lạm phát, từ 
đó đề ra các chính sách kiểm soát 
lạm phát và phát huy tính tương hỗ 
trong mối quan hệ này, không để 
lạm phát trở thành yếu tố bất lợi 
cho nền kinh tế.
Bài nghiên cứu sử dụng phương 
pháp tự hồi quy với bảng số liệu 
của 17 nước Albania, Armenia, 
Brazil, Chile, Colombia, Ghana, 
Guatemala, Hungary, Indonesia, 
Israel, Mexico, Peru, Philippines, 
Romania, Thailand, Turkey và VN 
từ năm 2000 đến 2012 được thu 
thập từ nguồn số liệu của World 
Bank từ năm 2000 đến 2012 nhằm 
tìm ra mối quan hệ giữa tăng trưởng 
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế: 
Nghiên cứu thực nghiệm các nước 
đang phát triển và trường hợp Việt Nam
THS. NGuyễN MiNH SÁNG & NGô Nữ Diệu KHuê
Đại học Ngân hàng TP. HCM
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm kiểm định mối quan hệ phi tuyến tính giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp tự hồi quy với mẫu nghiên cứu 17 nước đang phát triển, trong đó có VN 
giai đoạn từ năm 2000 đến 2012. Kết quả ước lượng mô hình cho thấy tồn tại 
một ngưỡng lạm phát mà khi lạm phát vượt trên ngưỡng này sẽ gây tác động tiêu 
cực đến tăng trưởng kinh tế. Dựa trên thực tiễn VN, nhóm nghiên cứu thảo luận 
nguyên nhân của sự khác biệt về tăng trưởng giữa VN so với các nước khác và 
đề ra một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao năng lực kiểm soát lạm phát ở mức 
độ hợp lí và phát huy mặt tác động tích cực mà lạm phát có thể mang lại cho nền 
kinh tế VN. 
Từ khoá: Lạm phát; tăng trưởng kinh tế; ngưỡng lạm phát; VN.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 21(31) - Tháng 03-04/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
kinh tế và lạm phát. Với kỹ thuật 
sử dụng biến giả cho mỗi quốc gia, 
nhóm nghiên cứu áp dụng kết quả 
hồi quy thu được giải thích cho 
trường hợp VN. 
2. cơ sở lý thuyết về mối quan 
hệ giữa lạm phát và tăng trưởng 
kinh tế
- Các tác động tích cực của 
lạm phát đối với tăng trưởng 
kinh tế
Thứ nhất, lạm phát có thể tác 
động tích cực đến tăng trưởng kinh 
tế thông qua kênh tiết kiệm và đầu 
tư. Sidrauski (1967) nhấn mạnh 
lạm phát thấp ở mức hợp lí sẽ làm 
đầu tư trở nên hấp dẫn hơn là nắm 
giữ tiền mặt vì việc nắm giữ tiền 
mặt làm giảm giá trị của nó nhanh 
hơn so với đầu tư. Khi nền kinh tế 
xảy ra lạm phát luôn có độ trễ thời 
gian giữa tăng giá sản phẩm đầu 
ra và tăng giá chi phí đầu vào biểu 
hiện ở độ trễ về tăng tiền lương. 
Tobin (1972) nhận định lạm phát 
vừa phải như là chất bôi trơn của 
nền kinh tế (grease effect), lạm 
phát giúp các nhà sản xuất có thể 
giảm chi phí thực sự để mua đầu 
vào lao động, từ đó gia tăng tiết 
kiệm và đầu tư, khuyến khích họ 
mở rộng quy mô sản xuất. 
Thứ hai, lạm phát có mối quan hệ tỷ 
lệ thuận với tăng trưởng thông qua 
tác động kích cầu. Lạm phát tạo ra 
tâm lý giá tăng nên mọi người có 
xu hướng tiêu dùng nhiều hơn hoặc 
mua hàng hóa tích trữ, do đó làm 
gia tăng tổng cầu. Bên cạnh đó, 
lạm phát thường kéo theo việc phá 
giá của đồng nội tệ, nâng cao sức 
cạnh tranh của nền kinh tế và có 
xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng. 
Cầu xuất khẩu tăng kích thích tăng 
cầu hàng hóa, dịch vụ trong nước 
- nguồn cho xuất khẩu. Trong lý 
thuyết tổng cầu của Keynes, một 
nền kinh tế chịu tác động của cả 
hai nhân tố tổng cung và tổng cầu. 
Song, nhân tố quyết định trực tiếp 
đến sản lượng và việc làm là tổng 
cầu. Tuy nhiên, tổng cầu thường 
thấp hơn tổng cung do khuynh 
hướng tiết kiệm trong sử dụng thu 
nhập, đó là nguyên nhân của khủng 
hoảng kinh tế. Để đảm bảo tăng 
trưởng cần có sự can thiệp của Nhà 
nước thông qua các chính sách như 
mở rộng chính sách tài khóa, tiền 
tệ nhằm nâng cao tổng cầu, trong 
đó việc giảm lãi suất sẽ tạo ra lạm 
phát, từ đó kích thích mọi người sử 
dụng tiền mặt để tiêu dùng, đầu tư 
kinh doanh.
Thứ ba, nhà nước có thể thông 
qua việc gia tăng cung tiền để tăng 
cường phát triển giáo dục - đào tạo, 
khoa học - công nghệ, xây dựng 
cơ sở hạ tầng,.Việc đầu tư xây 
dựng thêm trường học, cơ sở giáo 
dục, viện nghiên cứu, tăng lương 
cho cán bộ nhân viên, xây dựng 
nhà máy, xí nghiệp, sẽ góp phần 
nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực, trình độ khoa học - công nghệ, 
đáp ứng các điều kiện cơ sở hạ tầng 
phục vụ cho các yêu cầu phát triển 
kinh tế.
- Các tác động tiêu cực của 
lạm phát đối với tăng trưởng 
kinh tế
Thứ nhất, lạm phát làm biến 
đổi giá tương đối và phân bổ sai 
các nguồn lực. Fischer (1993) 
cho rằng lạm phát làm sai lệch 
trong việc phân phối các nguồn 
tài nguyên do những thay đổi bất 
lợi đối với giá cả tương quan. Khi 
nền kinh tế xảy ra lạm phát, giá 
của các hàng hóa thay đổi khác 
nhau dẫn tới giá tương đối của 
chúng cũng thay đổi, các quyết 
định của người tiêu dùng bị biến 
dạng và thị trường mất khả năng 
phân bổ nguồn lực hiệu quả. 
Thứ hai, lạm phát làm suy 
giảm đầu tư - hoạt động nguồn, 
đầu vào của nền kinh tế. Tính 
không chắc chắn trong sự biến 
động của lạm phát chính là 
nguyên nhân làm suy giảm đầu 
tư trong dài hạn. Vì các nhà đầu 
tư không thể tính toán chính xác 
lãi suất thực thu được từ hoạt 
động đầu tư nên họ không dám 
liều lĩnh đầu tư nhiều, đặc biệt 
vào các dự án dài hạn. Fischer 
(1993) xây dựng lược đồ nhằm 
xác định “kênh truyền tải” từ 
thực thi chính sách kinh tế vĩ mô 
đến tăng trưởng như sau: lạm 
phát tăng→đầu tư suy giảm→tỷ 
lệ tăng năng suất suy giảm→tăng 
trưởng kinh tế suy giảm. 
Theo Choi và đồng sự (1996), 
Azariadas và Smith (1996), nếu 
lạm phát tăng cao sẽ làm giảm 
mức lãi suất thực tế mà người 
đi vay phải trả cho người cho 
vay, thậm chí âm. Tình huống đó 
dẫn tới có nhiều người muốn trở 
thành người đi vay hơn là người 
tiết kiệm, do đó tạo ra sự mất cân 
bằng trong thị trường vốn và tín 
dụng. Bên cạnh đó, lạm phát cao 
còn làm biến dạng thuế (Romer, 
2001) làm suy giảm động cơ tiết 
kiệm của các chủ thể gửi tiền mà 
tiết kiệm lại là nguồn của đầu tư. 
Lạm phát cao còn gây ra “chi phí 
mòn giày”, “chi phí thực đơn”, 
“nhầm lẫn và bất tiện”. 
Thứ ba, lạm phát có thể tác 
động tiêu cực đến tăng trưởng 
kinh tế thông qua những thay 
đổi trong chính sách tỷ giá. Bởi 
lạm phát thường kéo theo việc 
nâng tỷ giá làm tăng chi phí nợ 
nước ngoài tính bằng ngoại tệ 
của các doanh nghiệp và Chính 
phủ có nợ vay nước ngoài, từ đó 
gia tăng nguy cơ vỡ nợ của các 
doanh nghiệp và Chính phủ. Đối 
với một số nền kinh tế mở nhưng 
24
Số 21 (31) - Tháng 03-04/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
tỷ giá hối đoái không hoàn toàn linh hoạt, lạm phát 
có thể làm thâm hụt cán cân thương mại. Khả năng 
cạnh tranh của một quốc gia có lạm phát cao sẽ bị 
xóa mòn bởi sự tuân thủ tỷ giá danh nghĩa cố định 
(Hossain và Chowhury, 1996).
- Nghiên cứu của Sarel năm 1996 về “Tác động 
phi tuyến tính của lạm phát đối với tăng trưởng kinh 
tế”
Thủ tục ước tính ngưỡng lạm phát của Sarel, về cơ 
bản là chạy một loạt các hồi quy OLS với các giá trị 
ngưỡng π* khác nhau và tìm kiếm giá trị ngưỡng của 
lạm phát tại lần hồi quy tối đa hóa hệ số xác định R2 
(R-squared) hoặc tối thiểu chỉ số sai số bình phương 
trung bình (Root Mean Square Error - RMSE). Phương 
trình Sarel được xác định như sau: 
Δy = α + β1.π + θ.X +Є nếu π ≤ π*
Δy = α + β1.π + β
2
.(π – π*) + θ.X + Є nếu π > π* 
(1)
Trong đó: Δy là tăng trưởng kinh tế, π là tỷ lệ lạm 
phát, π* là ngưỡng lạm phát, X là véc-tơ của tất cả các 
biến giải thích khác và θ là véc-tơ tham số tương ứng, Є 
là sai số ngẫu nhiên, với E[Є]=0 và var[Є]=σ2. Hệ số β
2
chỉ ra sự khác biệt trong các tác động của lạm phát đối 
với tăng trưởng giữa hai phía ngưỡng. Sarel sử dụng 
kiểm định t kiểm định β
2
 để kiểm tra xem ngưỡng tìm 
được có ý nghĩa thống kê hay không. Khi lạm phát nhỏ 
hơn hoặc bằng với ngưỡng thì tác động của lạm phát 
đến tăng trưởng được thể hiện qua hệ số β
1
. Khi lạm 
phát cao hơn ngưỡng thì tổng β
1
+β
2 
 sẽ đại diện cho các 
tác động của lạm phát lên tăng trưởng.
Sử dụng dữ liệu của 87 quốc gia, Sarel thấy rằng 8% 
là ngưỡng thích hợp của lạm phát. Dưới ngưỡng này 
lạm phát ảnh hưởng không đáng kể, thậm chí là tích 
cực, trong khi đó, nếu lạm phát trên ngưỡng này, nó có 
ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
- Nghiên cứu của Khan và Senhadji năm 2001 
“Tác động của ngưỡng lạm phát trong mối quan hệ 
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế” 
Để kiểm định sự tồn tại của tác động ngưỡng lạm 
phát đến tăng trưởng, Khan và Senhadji (2001) sử dụng 
phương pháp kinh tế lượng để ước tính ngưỡng mà 
trước đó đã được phát triển bởi Chan và Tsay (1998) và 
E. Hansen (1999). Mô hình cụ thể như sau:
dlog(y
it
)
= γ
0
 + µ
i
 + µ
t
 + γ
1
.(1 – d
it
).{log(π
it
) – log(π*)} 
+ γ
2
.d
it
.{log(π
it
) – log(π*)} + β.X + e
it 
 (dùng cho quốc 
gia i trong thời gian t)
(2)
Trong đó: dlog(y
it
) là tốc độ tăng trưởng GDP thực, 
µ
i
 là tác động cố định, µ
t 
là tác động thời gian, π
it
là tỷ lệ lạm phát, π* là ngưỡng lạm phát, d
it 
là biến 
giả (nhận giá trị 1 khi π
it 
>π* và nhận giá trị 0 khi 
π
it
≤π*), X là véc-tơ các biến giải thích gồm tổng 
vốn đầu tư trên GDP (igdp), tốc độ tăng trưởng dân 
số (dlog(pop)), logarit của thu nhập bình quân đầu 
người ban đầu (log(ly
0
)), tốc độ tăng trưởng của tỷ 
giá thương mại (dlog(tot)) và độ lệch chuẩn của tỷ 
giá thương mại (σ
tot
), e
it 
là sai số ngẫu nhiên.
Theo mô hình (2), ảnh hưởng của lạm phát đến 
tăng trưởng GDP được biểu thị bởi γ
1
 trong thời gian 
mà lạm phát là thấp hơn hoặc bằng ngưỡng và γ
2
trong thời gian tỷ lệ lạm phát cao hơn ngưỡng. Tuy 
nhiên, việc sử dụng biến đổi dạng logarit yêu cầu loại 
bỏ những quan sát có giá trị lạm phát âm. Với mô 
hình được lựa chọn, phương trình cơ bản (2) được 
ước lượng lặp lại với các giá trị khác nhau của π*. 
Chan (1993) và Hansen (1999) đề xuất ước lượng 
bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất, ngưỡng 
lạm phát được chọn sẽ là giá trị π* tương ứng với ước 
lượng cho ra giá trị RSS nhỏ nhất. Sau khi tìm được 
giá trị của ngưỡng thì tiến hành kiểm định ngưỡng 
với các giả thiết: H
0
: γ
1
= γ
2 
và H
1
: γ
1
≠γ
2
.
Khan và Senhadji (2001) phân tích ngưỡng tác 
động giữa lạm phát và tăng trưởng bằng việc sử dụng 
tập hợp dữ liệu bao gồm 140 quốc gia từ giai đoạn 
1960-1998. Kết quả thực nghiệm cho thấy có sự tồn 
tại của một ngưỡng mà ngoài mức này, lạm phát gây 
ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Ngược lại, dưới 
ngưỡng lạm phát không có tác động hoặc tác động 
tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả cũng chỉ 
ra rằng ngưỡng này thì nhỏ cho các nước phát triển 
(1%-3%), được so sánh với các nước đang phát triển 
(tương ứng 11%-12%). 
3. Phương pháp nghiên cứu
Để ước lượng mô hình xác định mối quan hệ 
phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế vào lạm phát, bài 
nghiên cứu sử dụng bảng dữ liệu cân bằng của 17 
quốc gia đang phát triển từ năm 2000 đến 2012 với 
tổng số 221 quan sát. Nhóm nghiên cứu chọn 17 nước 
này để nghiên cứu và áp dụng cho trường hợp VN vì 
những lý do sau: Thứ nhất, các quốc gia này đều đang 
theo đuổi chính sách lạm phát mục tiêu (Hammond, 
Roger, IMF, 2011). Để thực hiện tốt chính sách lạm 
phát mục tiêu, Ngân hàng Trung ương phải xác định 
một mức lạm phát mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 
trước mắt (ví dụ 7% hay 8%) bằng cách đưa ra những 
công thức, mô hình tính toán cụ thể. Bài nghiên cứu 
25
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 21(31) - Tháng 03-04/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
này nhằm mục đích góp phần xác định ngưỡng lạm phát 
làm cơ sở cho việc đưa ra mức lạm phát mục tiêu cho 
các nước đang theo đuổi chính sách này. Thứ hai, so 
với nhóm nước phát triển, ngưỡng lạm phát tối ưu đối 
với nhóm nước đang phát triển ở mức cao hơn. Do vậy, 
trong tổng số 28 quốc gia đang áp dụng chính sách lạm 
phát mục tiêu, nhóm nghiên cứu giới hạn mẫu gồm các 
quốc gia đang phát triển theo thống kê của ISI (2013), 
Liên Hiệp Quốc (2012, 2013). Bởi vì, các nước phát 
triển đã phát triển hoàn thiện nền kinh tế thị trường đối 
với các loại thị trường, sản lượng đã ở rất gần với mức 
tiềm năng, trong khi nhiều nước đang phát triển vẫn còn 
vận hành trong nền kinh tế phi thị trường, lạm phát có 
xu hướng tăng do các quyết định mang tính chất hành 
chính, các yếu tố sản xuất tiềm năng chưa khai thác hết. 
Hơn nữa, do lịch sử lâu dài của lạm phát khiến các nước 
đang phát triển chấp nhận hệ thống chỉ số hóa rộng rãi 
để phủ nhận phần nào tác động tiêu cực của lạm phát. 
Thứ ba, lạm phát ở 17 quốc gia này có sự tương đồng 
với nhau. Theo xếp hạng “Highest Inflation: Countries” 
β
20
.RO + β
21
.TH + β
22
.TU + ε 
(3)
Mô hình hồi quy tổng quát 2: 
GDP = C + β
1
.(1 – D).{f(INF) – ln(INF*)} + 
β
2
.D.{f(INF) – ln(INF*)} + β
3
.IGDP + β
4
.INV + 
β
5
.POP + β
6
.TOT + β
7
.AL + β
8
.AR + β
9
.BR + β
10
.
CH + β
11
.CO + β
12
.GH + β
13
.GU + β
14
.HU + β
15
.IN 
+ β
16
.IS + β
17
.ME + β
18
.PE + β
19
.PH + β
20
.RO + β
21
.
TH + β
22
.TU + ε
(4)
Với f(INF)=INF – 1 nếu INF≤1 và bằng ln(INF) 
nếu INF>1.
D là biến giả, nhận giá trị bằng 0 nếu INF≤ INF* 
và bằng 1 nếu INF>INF*
C: tiêu biểu cho tung độ gốc của VN và các β
i
với i=7,8,9, , 22 là các hệ số tung độ gốc khác 
biệt cho ta biết các tung độ gốc của Albania, 
Armenia, Brazil, Chile, Colombia, Ghana, 
Guatemala, Hungary, Indonesia, Israel, Mexico, 
Peru, Philippine ... u <0.05, đồng thời các 
trị số t đều ≥2. Các biến còn lại 
do giá trị p>0.05 nên không có ý 
nghĩa thống kê. Để đảm bảo độ 
tin cậy cao cho các kết quả hồi 
quy, nhóm nghiên cứu tiến hành 
kiểm tra sự cần thiết của các biến 
(1-D).{f(INF)-ln(INF*)}, POP, 
TOT. Kết quả các kiểm định biến 
thừa cho thấy các trị số p của 
kiểm định thừa biến đều>0.05, 
do vậy nhóm nghiên cứu loại các 
biến trên khỏi mô hình.
lạm phát cao hơn ngưỡng sẽ gây tác động tiêu cực 
đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
4.3. Thảo luận kết quả hồi quy đối với trường hợp 
VN
Theo mô hình hồi quy tổng quát 1: 
GDP = 49.72597 – 0.091939D(INF–INF*) – 
9.293041IGDP + 0.539471INV + 14.19342AL 
+ 13.52699AR + 22.91624BR + 25.32348CH 
+ 19.2255CO + 2.086982GH + 15.44504GU 
+ 25.79768HU + 7.665525IN + 35.78262IS + 
23.98445ME + 18.39755PE + 10.16423PH + 
19.47391RO + 13.56134TH + 27.24839TU + ε 
(5) 
với INF*=11%, D=1 nếu INF>11% và bằng 0 
trong các trường hợp còn lại.
Theo mô hình hồi quy tổng quát 2: 
GDP= 49.65507 – 2.234077D{f(INF)–ln(INF*)} 
– 9.271040IGDP + 0.538730INV + 14.11071AL 
+ 13.45670AR + 22.82248BR + 25.21462CH 
+ 19.13246CO + 2.166505GH + 15.35758GU 
+ 25.68207HU + 7.589385IN + 35.64992IS + 
23.87456ME + 18.30871PE + 10.09396PH + 
Biến Hệ số Sai số chuẩn Giá trị t Giá trị p
C 49.65507 9.595146 5.175019 0.0000
D.{f(INF)-ln(INF*)} -2.234077 1.127219 -1.981937 0.0488
IGDP -9.271040 1.597318 -5.804129 0.0000
INV 0.538730 0.079251 6.797749 0.0000
AL 14.11071 2.728302 5.171975 0.0000
AR 13.45670 2.007490 6.703248 0.0000
BR 22.82248 4.013467 5.686474 0.0000
CH 25.21462 4.439041 5.680195 0.0000
CO 19.13246 3.390730 5.642580 0.0000
GH 2.166505 1.450916 1.493198 0.1370
GU 15.35758 2.903805 2.288777 0.0000
HU 25.68207 4.902844 5.238198 0.0000
IN 7.589385 1.826878 4.154293 0.0000
IS 35.64992 6.071025 5.872142 0.0000
ME 23.87456 4.508634 5.295298 0.0000
PE 18.30871 3.113851 5.879763 0.0000
PH 10.09396 2.083823 4.843962 0.0000
RO 19.40984 3.607047 5.381089 0.0000
TH 13.47836 2.745653 4.908980 0.0000
TU 27.05684 4.520232 5.985719 0.0000
Bảng 6: Kết quả hồi quy theo các biến độc lập tại ngưỡng lạm phát 12%
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
Trước khi kết luận mô hình tổng quát cuối cùng, 
nhóm nghiên cứu kiểm tra xem giữa các biến độc 
lập trên có quan hệ tuyến tính với nhau hay không. 
Kết quả cho thấy các trị số giữa các biến độc lập đều 
nhỏ hơn 0.8 nên không xảy ra sự tương quan giữa các 
biến độc lập. Sử dụng phương pháp đồ thị để kiểm 
định phương sai nhiễu thay đổi, đồ thị biến thiên 
của phần dư cho thấy các giá trị của phần dư dao 
động trong một khoảng xác định, do vậy theo nhóm 
nghiên cứu mô hình không có phương sai nhiễu 
thay đổi. Sử dụng Durbin-Watson kinh nghiệm với 
1<d=2.206215<3 nên kết luận không có hiện tượng 
tự tương quan của nhiễu.
Như vậy, tiến hành các thủ tục xác định ngưỡng 
lạm phát theo mô hình hồi quy tổng quát 2, nhóm 
nghiên cứu tìm được ngưỡng lạm phát có ý nghĩa 
thống kê tại mức 12%. Khi lạm phát dưới ngưỡng 
12%, tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh 
tế là không đáng kể do p-value [ (1-D).{f(INF)-
ln(INF*)}]=0.2900>0.05. Với các giá trị lạm phát 
trên ngưỡng 12%, hệ số góc của D.{f(INF)-ln(INF*)} 
đạt -2.234077 và giá trị p=0.0488<0.05 chứng tỏ khi 
30
Số 21 (31) - Tháng 03-04/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
19.40984RO + 13.47836TH + 27.05684TU + ε 
(6) 
với INF*=12%, D=1 nếu INF>12% và bằng 0 trong các trường hợp 
còn lại.
So sánh kết quả hồi quy sau cùng theo hai mô hình 1 và 2, ta nhận 
thấy ngưỡng lạm phát, hệ số chặn và các hệ số góc của các biến giải 
thích không có sự chênh lệch nhiều. Khi lạm phát trên ngưỡng tối ưu thì 
tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng. Ngược lại, khi lạm phát dưới 
ngưỡng thì tác động này là không rõ ràng. Trong cả hai mô hình 1 và 2, 
giá trị tung độ gốc của VN đều nhỏ hơn hầu hết các nước do hệ số hồi quy 
của các biến giả đại diện cho các quốc gia khác đều dương. Điều này có 
nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, với cùng một mức lạm 
phát, tăng trưởng kinh tế của VN yếu hơn các nước khác. Lí do có thể là 
bởi các “đặc điểm riêng biệt” của mỗi quốc gia. 
Thứ nhất, do chính sách quản lý của mỗi quốc gia khác nhau, trong đó 
có chính sách tỷ giá hối đoái. Ở VN, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ 
giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát làm thâm hụt cán cân thương mại. 
Tuy Ngân hàng Nhà nước vẫn công bố VN theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi 
có quản lý nhưng chế độ tỷ giá thực tế lại là chế độ neo tỷ giá với đồng 
đô la Mỹ với mức độ biến động khá nhỏ (Phạm Thị Hoàng Anh, 2013). 
Vì vậy, khi dòng vốn nước ngoài chuyển về VN nhiều gây áp lực tăng 
giá nội tệ so với ngoại tệ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ mua vào ngoại tệ, từ 
đó tăng nội tệ vào lưu thông, gây nguy cơ lạm phát cho nền kinh tế. Hạn 
chế của việc neo tỷ giá với đô la Mỹ thể hiện ở hình 1, khi mà tỷ giá thực 
biến động mạnh (đặc biệt là từ năm 2003 đến năm 2009) thì tỷ giá danh 
nghĩa ít biến động qua các năm, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh 
nghiệp xuất khẩu của VN và tăng cầu hàng nhập khẩu. Các nước khác như 
Turkey, Albania lại áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi tự do, Indonesia áp dụng 
chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý.
Thứ hai, do hiệu quả kinh tế ở mỗi nước khác nhau, trong đó nhóm 
nghiên cứu đề cập đến hiệu quả của tiền vốn đầu tư. “Tăng trưởng của chúng 
ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào 
mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn 
chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu 
tư nhà nước”, trong khi nguồn vốn 
trong nước lại hạn chế, thu ngân 
sách có hạn đã gây sức ép gia tăng 
lạm phát tiền tệ. Tính chung mười 
năm 2001-2010, đầu tư của khu 
vực Nhà nước chiếm 42.5% trong 
tổng vốn đầu tư toàn xã hội và 
ngân sách nhà nước thường xuyên 
bội chi với mức bội chi hàng năm 
trên dưới 5% GDP. Song trên thực 
tế, những nguồn vốn đó đã không 
được sử dụng hiệu quả do đầu tư 
công dàn trải, trình độ quản lý điều 
hành hạn chế, sự thiên lệch trong 
phân bổ các nguồn lực, hơn nữa 
còn xảy ra thất thoát, tham nhũng. 
Nhiều dự án kéo dài tiến độ, làm 
tồn đọng vốn đầu tư, không tạo ra 
giá trị tăng thêm cho nền kinh tế, 
nhiều doanh nghiệp nhà nước làm 
ăn thua lỗ, lãng phí mà điển hình 
như Tập đoàn công nghiệp tàu thủy 
(Vinashin), Tổng công ty hàng hải 
VN (Vinalines),. Hệ số ICOR 
của VN ở mức cao trong tương 
quan so sánh với các nước khác. 
Cụ thể trong năm 2004, trong khi 
ICOR của Thailand chỉ 4.9, của 
Philippines 5.2, Colombia 5.4, 
Chile 6.8 thì ICOR của VN đến 
6.9 (Ib Larsen, Huong Lan Pham, 
Martin Rama, 2004).
Thứ ba, trình độ phát triển 
khoa học - công nghệ và chất 
lượng nguồn nhân lực của mỗi 
quốc gia khác nhau. Lực lượng 
lao động tri thức là động lực cho 
sự phát triển kinh tế và nâng cao 
năng lực cạnh tranh của quốc gia. 
Tuy nhiên, trong cơ cấu chi ngân 
sách qua các năm, các khoản chi 
cho giáo dục - đào tạo, khoa học 
- công nghệ còn hạn chế, phân 
bổ ngân sách chưa hợp lí, do 
đó chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu 
Hình 1: Diễn biến một số biến số kinh tế vĩ mô ở VN (1999-2009)
Nguồn: Đỗ Thị Kim Hảo (2010)
31
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 21(31) - Tháng 03-04/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi Nghiên Cứu & Trao Đổi
phát triển kinh tế. Trong đánh giá 
xếp hạng Chỉ số đổi mới/sáng tạo 
toàn cầu của Tổ chức sở hữu trí 
tuệ toàn cầu phối hợp với một 
số đại công ty, tổ chức phi chính 
phủ năm 2013, VN tụt sâu xuống 
nửa dưới của thế giới, xếp thứ 
76/141 quốc gia (INSEAD và 
WIPO, 2012).
5. Kết luận và gợi ý chính sách
Kết luận
Kết luận từ các kết quả được 
tính toán ở chương 4 cho thấy: 
đối với 17 nước đang phát triển 
bao gồm Albania, Armenia, 
Brazil, Chile, Colombia, Ghana, 
Guatemala, Hungary, Indonesia, 
Israel, Mexico, Peru, Philippines, 
Romania, Thailand, Turkey, VN, 
ngưỡng lạm phát tìm được ở mức 
11%-12%. Khi lạm phát dưới 
ngưỡng này, tác động của lạm phát 
đến tăng trưởng kinh tế là không rõ 
ràng, và khi lạm phát trên ngưỡng 
này thì lạm phát tác động tiêu 
cực đến tăng trưởng kinh tế. Kết 
quả hồi quy còn hạn chế do mẫu 
nghiên cứu chưa đồng đều, thời 
gian nghiên cứu chưa đủ dài. Tuy 
nhiên, nhóm nghiên cứu đã nỗ lực 
giải thích sự khác biệt giữa VN với 
các nước khác. 
Một số đề xuất cho VN
Về chính sách tỷ giá hối đoái: 
Để hạn chế ảnh hưởng âm của lạm 
phát đến cán cân thương mại thông 
qua chế độ neo tỷ giá với đô la Mỹ, 
Ngân hàng Nhà nước nên điều 
hành tỷ giá theo chiều hướng linh 
hoạt, cũng như nâng cao sức cạnh 
tranh của các doanh nghiệp xuất 
khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm 
soát nhập khẩu, tăng dự trữ ngoại 
hối. Việc điều hành tỷ giá linh hoạt 
cần được thực hiện đồng bộ với các 
giải pháp ưu đãi về đầu tư nhằm 
duy trì nguồn vốn ODA, FDI tiếp 
tục chảy vào VN như thông thoáng 
hóa cơ chế, chính sách, ưu đãi về 
thuế khóa, đất đai,.
Về lựa chọn mô hình tăng 
trưởng: Thực tế đã chứng minh 
mô hình tăng trưởng dựa vào thâm 
dụng vốn đầu tư của VN trong thời 
gian qua là không hiệu quả khi lạm 
phát tăng cao mà tăng trưởng vẫn 
ở mức thấp, do vậy cần thiết phải 
lựa chọn một mô hình tăng trưởng 
đổi mới, dựa vào yếu tố khoa học 
- công nghệ, nguồn nhân lực chất 
lượng cao. Về mặt dài hạn, định 
hướng chính sách cho mô hình 
tăng trưởng nên xác định tỷ lệ tăng 
trưởng hợp lí, và không nên trông 
chờ vào chính sách mở rộng tiền 
tệ, thay vào đó nên tận dụng triệt 
để nguồn vốn từ trong nền kinh tế 
thông qua kênh trung gian là ngân 
hàng trở thành nguồn vốn đầu tư 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng 
chính sách lãi suất hấp dẫn hơn, 
tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm của 
cá nhân, tăng lãi suất kỳ hạn dài, 
thưởng vật chất,.
Về nâng cao hiệu quả của các 
hoạt động đầu tư: Chính phủ cần 
cân nhắc đầu tư đúng đối tượng và 
tăng cường giám sát để phát huy 
hiệu quả của đồng tiền đầu tư cũng 
như giảm sức ép gây ra lạm phát. 
Trong những năm qua, đối tượng 
thụ hưởng chính của các chính 
sách kích cầu của Chính phủ là 
khối các doanh nghiệp nhà nước 
hơn là các doanh nghiệp tư nhân. 
Trong khi năng lực của khu vực 
nhà nước còn yếu, vì vậy trong thời 
gian tới, Chính phủ một mặt cần 
tiếp tục tái cấu trúc mạnh mẽ các 
doanh nghiệp nhà nước hoạt động 
kém hiệu quả, rà soát lại các dự án 
đầu tư công để thu hồi hiệu quả từ 
các đồng vốn đã bỏ ra, đẩy nhanh 
tiến độ các công trình đầu tư còn 
tồn đọng để nhanh chóng đưa vào 
sử dụng phục vụ phát triển kinh tế 
quốc gia, mặt khác nên tích cực tạo 
dựng môi trường cạnh tranh bình 
đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc 
các thành phần kinh tế khác nhau, 
đặc biệt là khu vực tư nhân.
Về phát triển giáo dục - đào tạo, 
khoa học - công nghệ: Chính phủ 
cần chi đúng mức và phân bổ ngân 
sách hiệu quả hơn cho giáo dục - 
đào tạo, dạy nghề, cũng như phát 
triển trình độ khoa học - công nghệ 
hơn là tiếp tục chi phí cho việc đầu 
tư công dàn trải nhưng không có 
hiệu quả, đồng thời học hỏi kinh 
nghiệm đào tạo của các nước phát 
triển hơn, cải cách, nâng cao chất 
lượng đào tạo của VN bằng việc áp 
dụng các chương trình giảng dạy 
tiên tiến, chăm lo phát triển nguồn 
vốn con người - động lực cho tăng 
32
Số 21 (31) - Tháng 03-04/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
33
trưởng kinh tế quốc gia.
Về thực thi chính sách lạm phát 
mục tiêu: Trong quản lý điều hành 
kinh tế vĩ mô, trước mắt Chính 
phủ cần cân đối giữa hai mục tiêu 
kiểm soát lạm phát - ổn định kinh 
tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế, giữ 
lạm phát ở mức độ vừa phải xoay 
quanh ngưỡng hiệu quả của nó 
phối hợp với kỳ vọng tăng trưởng 
ở mức độ hợp lí. Đồng thời, các 
nhà làm chính sách cần cần tập 
trung hoàn thiện và cập nhật hệ 
thống cơ sở dữ liệu đầy đủ và thực 
hiện một nghiên cứu định lượng 
riêng cho trường hợp VN. Trong 
thời gian tới, để có thể áp dụng 
hoàn toàn chính sách lạm phát mục 
tiêu mà VN đang định hướng theo 
đuổi, cần tăng cường tính độc lập 
của Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo 
Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn 
chủ động trong công tác điều hành 
chính sách tiền tệ để đạt được mục 
tiêu lạm phát đề ra mà không còn 
bị chi phối bởi các mong muốn của 
Chính phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Akhtar Hossain và Anis Chowdhury (1996), 
Monetary and Financial Policies 
in Developing Countries: Growth 
and Stabilization, Taylor & Francis 
e-Library.
Phạm Thị Hoàng Anh (2011), “Tác động của 
kiều hối tới lạm phát tại VN giai đoạn 
1996-2010”, Học viện ngân hàng, Hà 
Nội.
Anderson, Dennis (1990), “Investment 
and Economic Growth”, World 
Development, 18, pp. 1050-1079.
Bloomberg (2012), Highest Inflation: 
Countries, U.S.A.
Bruce E. Hansen (1999), “Threshold effects 
in non-dynamic pannels: Estimation, 
testing, and inference”, Journal of 
Econometrics, 93(2), pp.365-368.
Bruce E. Hansen (2000), “Sample 
Splitting and Threshold Estimation”, 
Econometrica, 68, pp.575-603.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bahaj S., L. Nielsen & I. Lopes (2007). The New Euroland FCI: A Useful but Flawed Tool, 
European Weekly Analyst, No 07/33, Goldman Sachs, September.
Bernanke, Ben S., (1990). On the Predictive Power of Interest Rates and Interest Rate Spreads, 
New England Economic Review, November 1990, 51-68. 
Brave, S & R. A. Butters (2011). Monitoring Financial Stability: A Financial Conditions Index 
Approach. Economic Perspectives, First Quarter, Federal Reserve Bank of Chicago, pp. 
22-43. 
Burke, Orlaith. (2011). Statistical Methods. Autocorrelation. Non-Stationary Series. 
Department of Statistics. University of Oxford. 
D‘Antonio, P. (2008). A View of the U.S. Subprime Crisis, in DiClemente, R. and K. 
Schoenholtz, EMA Special Report, September, Citigroup Global Markets Inc., pp. 26-
28. 
Davidson, Russell, & MacKinnon, James G. (2004). Econometric Theory and Methods. New 
York: Oxford University Press. p. 623
3. Kết luận
Hiện nay, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng 
đồng thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước 
trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Chúng tôi cho 
rằng, việc ủng hộ và tham gia tích cực AEC sẽ giúp VN tăng cường vị thế 
và uy tín trên diễn đàn ASEAN cũng như các diễn đàn quốc tế khác, nắm 
bắt được những cơ hội và chủ động đối phó với những thách thức trong 
tiến trình hợp tác khu vực nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lý Hoàng Ánh, Trần Mai Ước (2014) AEC - Những thách thức cơ bản và vấn đề đặt ra, HTKH 
“Bối cảnh quốc tế mới và tác động tới Cộng đồng kinh tế ASEAN”, Trường Đại học Kinh 
tế Luật, ĐHQG Tp.HCM
Liên Hợp Quốc - Ủy ban kinh tế -xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (1999), Những bài học 
từ kinh nghiệm tăng trưởng của khu vực Đông và Đông Nam Á, NXB Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội.
Phạm Đức Thành (2002), Trương Duy Hòa, Kinh tế các nước Đông Nam Á thực trạng và triển 
vọng, NXB Khoa học xã hội.
ASEAN Economic Community Scorecard, ASEAN Secretariat, 3/2012
Kazushi Shimizu (2011), The ASEAN Charter and the ASEAN Economic Community, Eco. 
J. of Hokkaido Univ., Vol.40 (2011), pp. 73-83
World Development Report 1997: The State in a Changing World, https://openknowledge.
worldbank.org/handle/10986/5980
Xây dựng chỉ số...
(Tiếp theo trang 22)
Một số vấn đề cơ bản...
(Tiếp theo trang 17)

File đính kèm:

  • pdflam_phat_va_tang_truong_kinh_te_nghien_cuu_thuc_nghiem_cac_n.pdf