Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

M TẮT

Sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã không ngừng phát triển, đóng góp ngày

càng lớn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, so với yêu

cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội

nhập kinh tế quốc tế, kinh tế tư nhân ở nước ta còn bộc lộ một số hạn chế. Để nghiên cứu rõ hơn

về kinh tế tư nhân, bên cạnh việc chỉ ra những thành tựu cơ bản của khu vực kinh tế tư nhân, trong

bài viết này, tác giả tập trung đánh giá những hạn chế của kinh tế tư nhân trong những năm qua.

Từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế để kinh tế tư nhân thực

sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay.

pdf 6 trang kimcuc 4780
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 165 - 169 
 Email: jst@tnu.edu.vn 165 
KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
Ngô Cẩm Tú 
Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã không ngừng phát triển, đóng góp ngày 
càng lớn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, so với yêu 
cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội 
nhập kinh tế quốc tế, kinh tế tư nhân ở nước ta còn bộc lộ một số hạn chế. Để nghiên cứu rõ hơn 
về kinh tế tư nhân, bên cạnh việc chỉ ra những thành tựu cơ bản của khu vực kinh tế tư nhân, trong 
bài viết này, tác giả tập trung đánh giá những hạn chế của kinh tế tư nhân trong những năm qua. 
Từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế để kinh tế tư nhân thực 
sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt 
Nam hiện nay. 
Từ khóa: Kinh tế tư nhân; thành tựu; hạn chế; kinh tế thị trường; định hướng XHCN. 
Ngày nhận bài: 08/5/2019; Ngày hoàn thiện: 17/6/2019; Ngày duyệt đăng: 18/6/2019 
THE PRIVATE ECONOMY IN THE SOCIALIST MAKET 
ECONOMY IN VIETNAM TODAY 
Ngo Cam Tu 
TNU - University of Information Technology and Communication 
ABSTRACT 
After more than 30 years of renovation, the private economy in Vietnam has been constantly 
developing, making a valuable contribution to the country's renovation and socio-economic 
development. However, compared to the requirements of the period of accelerating 
industrialization and modernization associated with the development of knowledge economy and 
international economic integration, the private economy in the country also reveals some 
limitations. In order to study the private economy thorougly, besides generalizing the process of 
innovation of the Party's thinking about the private economy, the author focused on assessing the 
status of the private economy in recent years. Since then, several initial solutions are proposed to 
overcome the limitations so that the private economy really becomes the driving force of the 
socialist-oriented market economy in Vietnam today. 
Keywords: Private economy; achievements; limit; market economy; socialist orientation. 
Received: 08/5/2019; Revised: 17/6/2019; Approved: 18/6/2019 
Email: nctu@ictu.edu.vn 
Ngô Cẩm Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 165 - 169 
 Email: jst@tnu.edu.vn 166 
1. Đặt vấn đề 
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên 
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao 
gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư 
nhân. Việc thừa nhận sự tồn tại và phát triển 
kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam là một bước phát triển 
trong tư duy của Đảng. Trước thời kỳ đổi mới, 
kinh tế tư nhân được coi là kinh tế phi xã hội 
chủ nghĩa không có vai trò động lực thúc đẩy 
nền kinh tế, là đối tượng bị cải tạo và xóa bỏ. 
Việc nóng vội xóa bỏ kinh tế tư nhân là một 
trong những nguyên nhân chủ yếu kìm hãm sự 
phát triển lực lượng sản xuất và dẫn đến cuộc 
khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 
80 của thế kỷ XX. Bắt đầu từ Đại hội VI (12-
1986), nền kinh tế nhiều thành phần đã được 
thừa nhận chính thức trong văn kiện Đảng. Từ 
năm 1986 đến năm 1998, Đảng ta đã có những 
bước phát triển đáng kể về kinh tế tư nhân, tuy 
nhiên về chính sách và luật pháp nhằm phát 
triển khu vực kinh tế này vẫn còn nhiều hạn 
chế. Đại hội IX (1-2001), Đảng ta khẳng định 
“Thực hiện nhất quán chính sách phát triển 
kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh 
tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu 
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển 
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.[1] 
Đại hội X, Đảng có những khẳng định mới: 
“Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một 
trong những động lực của nền kinh tế”[2]. Đại 
hội XI (năm 2011) xác định phải hoàn thiện cơ 
chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư 
nhân. Đại hội XII (năm 2016) của Đảng khẳng 
định “một động lực quan trọng” của nền kinh tế 
và nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách 
khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh 
kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực 
kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của 
nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát 
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp 
khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập 
đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp 
vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”[3]. 
Như vậy, để phát triển kinh tế tư nhân trở 
thành một trong những động lực quan trọng 
của nền kinh tế cần nghiên cứu, phân tích 
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của 
hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm phát 
triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ hội nhập 
kinh tế quốc tế và trong bối cảnh cách mạng 
công nghiệp 4.0 hiện nay. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Bài báo được nghiên cứu dựa trên phương pháp 
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ 
nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả sử 
dụng một số phương pháp như: phân tích, tổng 
hợp để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu. 
3. Nội dung 
3.1. Khái quát những thành tựu cơ bản của 
kinh tế tư nhân trong thời gian qua 
- Một là, trong những năm qua kinh tế tư nhân 
đã không ngừng phát triển và có những đóng 
góp ngày càng lớn mạnh vào sự nghiệp phát 
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời 
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Từ năm 2016, 
mỗi năm có thêm hơn 100.000 doanh nghiệp 
thành lập mới. Trong hai năm 2017 – 2018 có 
gần 259.000 doanh nghiệp được thành lập 
mới. Kinh tế tư nhân đóng góp hơn 30% tổng 
thu ngân sách nhà nước. Các tập đoàn kinh tế 
lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường 
quốc tế; các doanh nghiệp mở rộng thị 
trường, liên kết đầu tư sẽ thúc đẩy mạnh mẽ 
quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam 
với nền kinh tế thế giới. 
- Hai là, kinh tế tư nhân phát triển trên nhiều 
phương diện; hoạt động đa dạng ở hầu hết các 
ngành, các lĩnh vực; bước đầu đã hình thành 
được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy 
mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng 
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc 
tế. Hiện nay, Việt Nam có một số những 
doanh nghiệp tư nhân với quy mô rất lớn như: 
Trường Hải, Vinamilk, Hòa Phát, Vingroup 
với những bước tiến mạnh mẽ về đầu tư và 
công nghệ. Ví dụ như: Tập đoàn SunGroup 
đầu tư xây dựng sân bay quốc tế Vân Đồn hay 
tập đoàn Vinfast cho ra mắt dòng sản phẩm 
xe hơi đầu tiên ở Việt Nam 
Ngô Cẩm Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 165 - 169 
 Email: jst@tnu.edu.vn 167 
- Ba là, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ 
tăng trưởng khá và chiếm tỷ trọng 39-40% 
GDP; năm 2018 đóng góp 42,1% GDP của 
nền kinh tế. Sự tăng trưởng và mở rộng ngày 
càng lớn của khu vực kinh tế tư nhân đã có 
những đóng góp to lớn vào quá trình phát 
triển đất nước. 
- Bốn là, kinh tế tư nhân tạo công ăn việc làm 
góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện điều 
kiện sống cho nhân dân đồng thời góp phần 
đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao 
động trong nước và quốc tế. Thêm vào đó, các 
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân 
còn đóng góp to lớn vào việc xây dựng các 
công trình văn hóa, trường học, thể dục thể 
thao, các công trình phúc lợi xã hội góp 
phần đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. 
- Năm là, đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn 
mạnh, không ngừng nâng cao năng lực kinh 
doanh và quản trị doanh nghiệp. 
3.2. Những hạn chế cơ bản của kinh tế tư nhân 
Bênh cạnh những thành tựu đã đạt được trong 
thời gian qua, kinh tế tư nhân còn có một số 
những hạn chế, những đóng góp của kinh tế 
tư nhân chưa tương xứng với tiềm năng thực 
tế. Biểu hiện cụ thể như sau: 
- Thứ nhất, mặc dù khu vực kinh tế tư nhân 
chiếm tỷ trọng lớn trong GDP nhưng chưa có có 
sự thay đổi như kỳ vọng. Trong những năm 
qua, Nhà nước ngày càng tạo điều kiện thuận 
lợi cho khu vực kinh tế tư nhân và có khá nhiều 
chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp dân 
doanh nhưng sức sống của doanh nghiệp tư 
nhân khá èo uột. Hàng năm có gần một trăm 
ngàn doanh nghiệp được thành lập mới nhưng 
khoảng 50% số đó bị giải thể hoặc phá sản. 
Theo Báo cáo thường niên doanh nghiệp năm 
2017/2018 của Phòng Công nghiệp và thương 
mại Việt Nam (VCCI): năm 2017 có 126.859 
doanh nghiệp doanh nghiệp đăng ký thành lập 
thì có 60.553 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt 
động, chiếm 47.8%; năm 2018 có trên 131.200 
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới thì có 
90.651 doanh nghiệp (chiếm 69%) tạm ngừng 
hoạt động, trong đó 27.126 doanh nghiệp đăng 
ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và 63.525 
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng 
ký hoặc chờ giải thể. Tỷ trọng của kinh tế tư 
nhân trong GDP gần như không tăng lên trong 
suốt giai đoạn 2000 – 2016, thậm chí còn có xu 
hướng giảm (Bảng 1). 
- Thứ hai, quy mô của kinh tế tư nhân phổ 
biến là nhỏ và siêu nhỏ. Do đó, năng lực đầu 
tư cho công nghệ và khả năng cạnh tranh còn 
hạn chế. Nếu tính cả các hộ kinh doanh cá thể 
thì có tới 90% cơ sở kinh tế tư nhân có quy 
mô vốn dưới 1 tỷ đồng. Riêng trong khối 
doanh nghiệp thì lượng vốn bình quân 1 
doanh nghiệp tư nhân khoảng 27 tỷ đồng, 
trong khi vốn của doanh nghiệp nhà nước là 
2.616 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài là 372 tỷ đồng. 
- Thứ ba, năng lực quản lý và tổ chức sản xuất 
còn lạc hậu, không chuyên nghiệp, mang nặng 
tính gia đình; chưa thực sự theo hướng hiện đại 
để bắt kịp xu thế của sản xuất kinh doanh trong 
thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. 
- Thứ tư, chất lượng sản phẩm, dịch vụ chưa 
đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế. Sản 
phẩm của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam 
đa số là đáp ứng nhu cầu của thị trường trong 
nước. Các doanh nghiệp của Việt Nam hiện 
chưa thực sự mạnh dạn đầu tư công nghệ, kinh 
doanh với công nghệ thô sơ mang tính tự phát 
do đó sức cạnh tranh về giá cả và chất lượng 
của sản phẩm Việt Nam còn hạn chế so với các 
nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia 
Bảng 1. Tỷ trọng các thành phần kinh tế trong GDP giai đoạn 2000 - 2016 
Đơn vị tính: % 
Năm 2000 2005 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 
Kinh tế Nhà nước 38,52 37,62 29,34 29,01 29,39 29,01 28,73 28,69 28,50 
Kinh tế tập thể 8,56 6,65 3,99 3,98 4,00 4,03 4,04 4,01 3,95 
Kinh tế tư nhân 39,62 41,47 38,97 39,89 40,62 39,49 39,29 39,13 39,40 
Kinh tế có vốn Đầu 
tư nước ngoài 
13,28 15,16 15,15 15,66 16,04 17,36 17,89 18,07 18,20 
Nguồn: Kinh tế 2016 - 2017: Việt Nam và thế giới, Thời báo kinh tế Việt Nam, tr.102 
Ngô Cẩm Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 165 - 169 
 Email: jst@tnu.edu.vn 168 
- Thứ năm, hiệu quả sản xuất kinh doanh 
thấp: Hiệu suất sinh lời trên tài sản (ROA), 
hiệu suất sinh lời trên vốn (ROE), hiệu suất 
sinh lời trên doanh thu (ROS) của doanh 
nghiệp tư nhân chỉ bằng ¼ so với doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bằng ½ 
so với doanh nghiệp nhà nước. Các chỉ số trên 
trong năm 2015 như sau: 
Bảng 2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh 
của DN theo loại hình kinh tế 
Đơn vị tính: % 
Chỉ số Kinh tế tư 
nhân 
Kinh tế 
nhà nước 
Kinh tế có 
vốn ĐTNN 
ROA 2,9 6,6 12,9 
ROE 5,7 13,9 24,8 
ROS 4,6 8,0 10,6 
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính tri, số 9/2017, tr.77 
- Thứ sáu, có nhiều yếu tố văn hóa mà đội 
ngũ các chủ doanh nghiệp tư nhân còn thiếu: 
thiếu tính liên kết, tính cộng đồng, hỗ trợ 
nhau trong kinh doanh; thiếu tầm nhìn dài 
hạn; trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh 
doanh chưa được coi trọng; thiếu tinh thần tự 
tôn dân tộc trong kinh doanh. Nghị quyết 
Trung ương 5 khóa XII (Nghị quyết số 10-
NQ/TW) đã chỉ rõ: “Tình trạng vi phạm pháp 
luật và cạnh tranh không lành mạnh trong 
kinh tế tư nhân còn khá phổ biến. Việc sản 
xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, 
không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; 
gian lận thương mại diễn ra nghiêm trọng, 
phức tạp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân không 
bảo đảm lợi ích của người lao động, nợ bảo 
hiểm xã hội, báo cáo tài chính không trung 
thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn thuế và nợ 
thuế kéo dài. Xuất hiện những quan hệ không 
lành mạnh giữa các doanh nghiệp của tư nhân 
và cơ quan quản lý nhà nước, can thiệp vào 
quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có 
đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích nhóm”, 
gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy 
giảm lòng tin của nhân dân”. 
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 
Về phía nhà nước: 
- Môi trường kinh doanh còn hạn chế, khu 
vực kinh tế tư nhân còn nhiều rào cản. Theo 
Báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB), năm 
2019 môi trường kinh doanh của Việt Nam 
xếp hạng 69/190 nền kinh tế được khảo sát. 
- Hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, 
các hiệp hội ngành nghề chưa thực sự hiệu quả; 
chưa làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi 
hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, người 
lao động và người sử dụng lao động. 
Về nội tại khu vực kinh tế tư nhân: 
- Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực quản 
lý có trình độ thấp. Phần lớn các chủ doanh 
nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về 
lĩnh vực quản lý và quản trị doanh nghiệp. 
- Thiếu vốn: Các cơ sở kinh tế tư nhân chủ 
yếu hoạt động nhờ vốn đi vay nhưng lại 
không đủ các điều kiện vay vốn từ các ngân 
hàng thương mại do không có chiến lược kinh 
doanh dài hạn, không đủ uy tín với các tổ 
chức, tín dụng, thủ tục vay vốn phức tạp, lãi 
suất cao. 
- Trình độ công nghệ lạc hậu: Hiện nay, máy 
móc, thiết bị, công nghệ sản xuất mà các 
doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đang sử 
dụng tụt hậu so với mức trung bình của thế 
giới khoảng 40 – 50 năm. Hiệu quả sử dụng 
máy móc, thiết bị công nghệ thấp, hệ số công 
suất sử dụng máy móc, thiết bị chỉ đạt khoảng 
25 – 30%. 
- Chủ thể sản xuất kinh doanh trong khu vực 
kinh tế tư nhân chưa có triết lý kinh doanh 
sáng rõ; thiếu tinh thần tự tôn dân tộc. 
3.4. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trở 
thành động lực quan trọng của nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
Về phía nhà nước: 
- Hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách, 
môi trường tâm lý xã hội trong quá trình xây 
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa. Tạo lập môi trường đầu tư, kinh 
doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân. 
+ Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng 
giữa các thành phần kinh tế. Mọi doanh 
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải 
hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng 
trước pháp luật. Đảm bảo cơ chế, chính sách 
khuyến khích, phát triển kinh tế tư nhân phù 
hợp với cơ chế thị trường. 
Ngô Cẩm Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 165 - 169 
 Email: jst@tnu.edu.vn 169 
+ Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ 
kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu 
quả hoạt động. 
+ Tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn 
lực đất đai, vốn, công nghệ. Bên cạnh đó, 
Chính phủ cần thay đổi chiến lược thu hút đầu 
tư nước ngoài. 
- Hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, 
hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn 
nhân lực, nâng cao năng suất lao động. 
+ Thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân ứng 
dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao hiệu 
quả sản xuất, kinh doanh. 
+ Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về 
phát triển nguồn nhân lực. 
+ Xây dựng tiêu chuẩn đào tạo nguồn nhân 
lực chất lượng cao. 
+ Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy 
vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam 
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa và hội nhập quốc tế. 
- Đổi mới nội dung, phương thức tăng cường 
sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức 
chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp đối với 
kinh tế tư nhân. 
+ Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác 
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo 
sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và 
các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán 
trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và 
Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả, công 
khai, minh bạch các chính sách khuyến khích 
phát triển kinh tế tư nhân. 
+ Cùng với việc quán triệt, phổ biến quan 
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà 
nước, các địa phương đều xác định lấy hiệu 
quả hoạt động để vận động, thuyết phục chủ 
doanh nghiệp và người lao động tích cực 
tham gia vào tổ chức, thành lập và duy trì 
hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể chính trị 
- xã hội. 
Về phía các chủ thể kinh tế tư nhân: 
- Trước hết, các chủ thể kinh tế tư nhân cần 
nhận thức rằng: động lực của mọi sự phát triển 
nằm ở bên trong sự vật. Vì vậy để phát triển thì 
các chủ thể phải tự thân vận động, không nên 
trông chờ vào sự hỗ trợ ngày càng lớn từ phía 
nhà nước. Môi trường vĩ mô tác động tới khu 
vực kinh tế tư nhân là yếu tố khách quan và 
bình đẳng với mọi chủ thể trong cùng khu vực 
kinh tế. Vì vậy chỉ có những chủ thể thông 
minh, bản lĩnh mới có thể tồn tại và phát triển 
bền vững trên thị trường. 
- Thứ hai, phải rất coi trọng việc học tập nâng 
cao trình độ mọi mặt: về lý luận chính trị, về 
chuyên môn nghề nghiệp, về kỹ năng quản lý 
và về các kỹ năng mềm khác (kỹ năng giao 
tiếp, ứng xử; kỹ năng sử dụng công nghệ 
thông tin, khả năng ngoại ngữ). 
- Thứ ba, phải xây dựng cho mình một triết lý 
kinh doanh thông thái, phù hợp với thời đại 
và phải kết hợp hài hòa lợi ích của bản thân, 
của doanh nghiệp với việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội. 
4. Kết luận 
Kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng đối 
với việc phát triển kinh tế - xã hội trong nền 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để phát huy vai 
trò đích thực của kinh tế tư nhân cần đánh giá 
đúng những thành tựu và hạn chế trong những 
năm qua và nguyên nhân dẫn đến các hạn chế 
đó. Mặt khác phải có sự đồng tâm, nhất trí 
của tất cả các lực lượng xã hội để thực hiện 
đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển kinh tế 
tư nhân trở thành một động lực quan trọng 
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ 
đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 
2010, phần II, tr. 25. 
[2]. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội, 2006, tr. 83. 
[3]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 
2016, tr. 108. 
  Email: jst@tnu.edu.vn 170 

File đính kèm:

  • pdfkinh_te_tu_nhan_trong_nen_kinh_te_thi_truong_dinh_huong_xa_h.pdf