Kinh tế thế giới và Việt Nam quý 1 năm 2019, triển vọng và hàm ý cho Việt Nam

 Kinh tế thế giới năm 2018 kém “tươi sáng” so với dự báo ban đầu của các tổ

chức quốc tế. Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, khủng hoảng ở một số nền kinh

tế mới nổi cùng những sai lầm về chính sách và biến động khó lường về địa chính trị đã

ảnh hưởng tới “sức khỏe” của nhiều nền kinh tế trên thế giới, làm cho đầu tư toàn cầu và

tăng trưởng của nhiều nước giảm sút. Trong quý 1/2019, xu hướng bảo hộ mậu dịch chưa

có dấu hiệu giảm, các cuộc xung đột địa chính trị vẫn tiếp diễn, bất đồng giữa các nước

lớn vẫn chưa được giải quyết. khiến cục diện kinh tế toàn cầu tiếp tục bị ảnh hưởng.

Tăng trưởng kinh tế thế giới đã “đi ngang” và dần dần chuyển hướng đi xuống. Hai đầu

tàu kinh tế thế giới mạnh nhất là Mỹ và Trung Quốc đều hứng chịu sự sụt giảm tăng

trưởng vào những tháng cuối năm 2018 và đầu năm 2019. Bài viết này phân tích tình hình

kinh tế vĩ mô của thế giới và Việt Nam năm 2018, dự báo triển vọng năm 2019 và đưa ra

một số hàm ý chính sách cho Việt Nam.

pdf 13 trang kimcuc 17080
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế thế giới và Việt Nam quý 1 năm 2019, triển vọng và hàm ý cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế thế giới và Việt Nam quý 1 năm 2019, triển vọng và hàm ý cho Việt Nam

Kinh tế thế giới và Việt Nam quý 1 năm 2019, triển vọng và hàm ý cho Việt Nam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 
23 
Original Article 
The World and the Vietnamese Economy in 2018: 
Prospects for 2019 and Some Policy Implications for Vietnam 
Nguyen Cam Nhung*, Vu Thanh Huong, Tran Viet Dzung 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Received 21 March 2019 
Revised 28 March 2019; Accepted 28 March 2019 
Abstract: The world economy in 2018 was less “bright” than the initial projections of 
international organizations. The US-China trade war, the crisis in some emerging 
economies, and the faulty policies and unpredictable fluctuations in terms of political 
geography affected many economies across the world, resulting in a reduction in world 
investment and the growth rates of many countries. In the first quarter of 2019, trade 
protectionism showed no sign of reduction, political geography conflicts were on-going, 
and disagreements between powerful countries were not resolved. Consequently, the 
global economy has been negatively affected. The global economic growth rate has been 
“flat” and has gradually reduced. The two biggest economies of the US and China 
suffered from a reduction in economic growth at the end of 2018 and at the beginning of 
2019. This paper analyzes the macroeconomic situation of the world and Vietnam in 
2018, provides some projections for 2019, and then proposes some policy 
recommendations for Vietnam. 
Keywords: Economic growth, inflation rate, monetary, trade, investment. 
 *
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: nhungnc@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4211 
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 
24 
Kinh tế thế giới và Việt Nam quý 1 năm 2019, 
triển vọng và hàm ý cho Việt Nam 
Nguyễn Cẩm Nhung*, Vũ Thanh Hương, Trần Việt Dung 
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 21 tháng 3 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019 
Tóm tắt: Kinh tế thế giới năm 2018 kém “tươi sáng” so với dự báo ban đầu của các tổ 
chức quốc tế. Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, khủng hoảng ở một số nền kinh 
tế mới nổi cùng những sai lầm về chính sách và biến động khó lường về địa chính trị đã 
ảnh hưởng tới “sức khỏe” của nhiều nền kinh tế trên thế giới, làm cho đầu tư toàn cầu và 
tăng trưởng của nhiều nước giảm sút. Trong quý 1/2019, xu hướng bảo hộ mậu dịch chưa 
có dấu hiệu giảm, các cuộc xung đột địa chính trị vẫn tiếp diễn, bất đồng giữa các nước 
lớn vẫn chưa được giải quyết... khiến cục diện kinh tế toàn cầu tiếp tục bị ảnh hưởng. 
Tăng trưởng kinh tế thế giới đã “đi ngang” và dần dần chuyển hướng đi xuống. Hai đầu 
tàu kinh tế thế giới mạnh nhất là Mỹ và Trung Quốc đều hứng chịu sự sụt giảm tăng 
trưởng vào những tháng cuối năm 2018 và đầu năm 2019. Bài viết này phân tích tình hình 
kinh tế vĩ mô của thế giới và Việt Nam năm 2018, dự báo triển vọng năm 2019 và đưa ra 
một số hàm ý chính sách cho Việt Nam. 
Từ khóa: Kinh tế vĩ mô, thế giới, Việt Nam, tăng trưởng, thương mại, đầu tư. 
1. Tổng quan kinh tế thế giới quý 1 
năm 2019* 
1.1. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu 
Kinh tế thế giới duy trì tốt trong nửa đầu 
năm 2018, sau đó xuất hiện những thách thức 
mới khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu có xu 
hướng chậm lại. Nguy cơ khủng hoảng tại các 
nền kinh tế mới nổi do ảnh hưởng từ chính sách 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: nhungnc@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4211 
thắt chặt tiền tệ của Mỹ, lệnh trừng phạt của Mỹ 
lên Iran và đầu tư toàn cầu sụt giảm góp phần 
làm cho mức độ tăng trưởng không đồng đều 
giữa các nước trên thế giới gia tăng. Cụ thể, 
tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, EU, Nhật 
Bản, ASEAN và các nền kinh tế mới nổi đều 
chậm lại từ quý 3 và quý 4. 
Kinh tế Mỹ năm 2018 giảm nhẹ so với dự 
báo của các tổ chức quốc tế hồi đầu năm. Nhờ 
chính sách kích thích tài khóa (cắt giảm thuế và 
tăng chi tiêu) được thực hiện từ đầu năm 2018 
đã phát huy hiệu quả và lan tỏa kích thích đầu 
tư của các doanh nghiệp trong nước nên dù khối 
lượng thương mại bị giảm, đặc biệt là thương 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 25 
mại song phương với Trung Quốc, tăng trưởng 
cả năm 2018 vẫn đạt mức 2,9% (thấp hơn so 
với dự báo 3,1%). Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 
mức kỷ lục còn 3,7% trong năm 2018. Tuy 
nhiên, tỷ lệ thất nghiệp tháng 1/2019 đã tăng 
lên 4% do Chính phủ Mỹ đóng cửa một phần 
trong hơn 1 tháng đã khiến 800.000 nhân viên 
Chính phủ nghỉ việc trong thời gian này và 
buộc khoảng 500.000 người phải làm công việc 
bán thời gian. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 2/2019 đã 
giảm xuống 3,8% nhờ việc Chính phủ Mỹ mở 
cửa trở lại. Nhu cầu tiêu dùng trong nước vững 
chắc tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng 
trưởng kinh tế của Mỹ và tạo thuận lợi cho các 
nhà bán lẻ nước này. Với các chỉ số kinh tế vĩ 
mô tích cực như vậy, FED tự tin tăng lãi suất 
lần 4 trong năm 2018 lên 2,25-2,5%. Do có 
chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát cả 
năm 2018 đạt kỳ vọng của Chính phủ ở mức 
2,44% [1]. Trong tháng 1/2019, lạm phát của 
Mỹ giảm còn 1,6% và xuống còn 1,5% trong 
tháng 2. Thâm hụt thương mại của Mỹ đã mở 
rộng lên 59,8 tỷ USD vào tháng 12/2018, nâng 
tổng thâm hụt thương mại hàng hóa lên mức kỷ 
lục 891,3 tỷ USD năm 2018 - mức cao nhất 
trong 10 năm qua. Đó là do đồng USD mạnh và 
thuế quan trả đũa nhằm vào hàng Mỹ gây sức 
ép giảm khối lượng xuất khẩu. Với động lực 
tăng trưởng từ nội tại nền kinh tế yếu dần do tác 
động của chiến tranh thương mại sẽ khiến tăng 
trưởng kinh tế của Mỹ năm 2019 thấp hơn so 
với năm 2018 và có thể chỉ đạt mức 2,6% [2]. 
Tăng trưởng khu vực EU tiếp tục chậm lại 
và chỉ đạt 1,9% năm 2018, thấp hơn so với năm 
2017 ở mức 2,3%. Do trải qua nhiều yếu tố bất 
lợi về kinh tế và chính trị như căng thẳng 
thương mại, sự suy giảm tốc độ tăng trưởng 
thương mại toàn cầu, sự sụt giảm tăng trưởng 
của nền kinh tế Đức và sự suy thoái kinh tế của 
Ý, cùng tác động của chính sách thắt chặt tiền 
tệ của Mỹ, đồng Euro đã mất giá liên tục so với 
USD từ tháng 2/2018 đến nay [1]. Tình trạng 
kinh tế Đức suy giảm do nhu cầu ôtô nhập khẩu 
tại Trung Quốc, một thị trường tiêu thụ lớn, đã 
giảm mạnh. Sản lượng công nghiệp của Đức 
tháng 1/2019 cũng giảm 3,3% so với cùng 
tháng năm 2018. Trong bối cảnh kinh tế ảm 
đảm của châu Âu, với mức lãi suất thấp không 
khuyến khích tiết kiệm nên tiêu dùng nội địa là 
chỗ dựa đáng tin cậy thúc đẩy tăng trưởng kinh 
tế cho khu vực này trong năm 2019 [2]. 
Kinh tế Nhật Bản suy giảm tăng trưởng 
trong quý 3/2018 ở mức -0,6% rồi nhích lên 
0,5% trong quý 4/2018 đến nay. Tuy nhiên, sự 
phục hồi kinh tế của Nhật Bản vẫn còn yếu do 
nhu cầu tiêu dùng của hộ gia đình yếu. Tâm lý 
tiêu dùng đã giảm từ 42,7 điểm trong tháng 
12/2018 xuống còn 41,9 điểm trong tháng 
1/2019, mức giảm thấp nhất kể từ tháng 
12/2016. Người tiêu dùng đã chú ý hơn về khả 
năng tăng thuế tiêu dùng từ 8% lên 10% dự 
kiến được thực hiện vào tháng 10/2019. Vì vậy, 
Chính phủ đã dành 2.030 tỷ Yên cho các biện 
pháp tài chính, bao gồm chương trình hoàn tiền 
cho các giao dịch mua hàng không dùng tiền 
mặt và phiếu giảm giá cho những hộ gia đình có 
thu nhập thấp hay có con nhỏ. Việc chi tiêu gia 
tăng phục vụ công tác tổ chức Thế vận hội 2020 
cũng sẽ duy trì đà tăng trưởng trong 2019. Tuy 
nhiên, lĩnh vực sản xuất, công nghiệp của Nhật 
Bản đã giảm 0,1% trong tháng 12/2018, sau khi 
giảm 1,0% trong tháng 11/2018. Các đơn hàng 
máy móc suy giảm do tác động của sự trì trệ 
trong thương mại toàn cầu đã khiến xuất khẩu 
của Nhật Bản giảm 8,4% trong tháng 1/2019, 
mức cao nhất kể từ tháng 10/2016 đến nay. Do 
vậy, thâm hụt thương mại lên tới 1,415 nghìn tỷ 
Yên vào tháng 1/2019. Với điều kiện như vậy, 
tăng trưởng của đất nước mặt trời mọc dự kiến 
sẽ chỉ đạt 0,9% vào năm 2019 [3]. 
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt mức 
6,6% năm 2018, mức tăng thấp nhất kể từ năm 
1990 đến nay. Do ảnh hưởng của cuộc chiến 
tranh thương mại, hoạt động thương mại của 
nước này bị ảnh hưởng khá lớn. Kim ngạch 
xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc trong 
tháng 2/2019 giảm lần lượt 20,7% và 5,2%, 
tương đương xuống 135,24 tỷ USD và 131,12 
tỷ USD. Chiến lược “Made in China 2025” 
(MIC2025) đang gặp không ít thách thức trong 
bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung bị 
kéo dài. Chỉ số quản lý sức mua (PMI) giảm từ 
mức 50,2 điểm tháng 11/2018 xuống 49,7 điểm 
tháng 12/2018, mức thấp nhất trong 19 tháng 
trước đó. Để có thể vượt qua nhiều áp lực khi 
tăng trưởng nền kinh tế chững lại và những tác 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 
26 
động của cuộc chiến thương mại với Mỹ, ngoài 
việc nới lỏng hơn nữa hoạt động kiểm soát đối 
với các công ty nước ngoài đang tiếp cận thị 
trường Trung Quốc, nước này còn kích thích 
các hoạt động kinh tế bằng cách thúc đẩy chi 
tiêu và cắt giảm hàng tỷ USD tiền thuế, cụ thể 
cắt giảm gần 2.000 tỷ Nhân dân tệ (CNY) 
(tương đương 298 tỷ USD) tiền thuế và các loại 
phí. Chính phủ dự tính giảm thuế giá trị gia 
tăng (VAT) từ 16% xuống còn 13% trong 
ngành công nghiệp chế biến và các lĩnh vực 
khác. Thuế VAT đối với các ngành vận tải và 
xây dựng sẽ được giảm từ 10% xuống 9% và 
VAT cho các công ty sản xuất sẽ giảm từ 16% 
xuống 13%. Thêm vào đó, Chính phủ đã 
tăng cường hỗ trợ tín dụng cho các công ty tư 
nhân, các doanh nghiệp nhỏ để góp phần thúc 
đẩy tăng trưởng và tạo việc làm. Với điều 
kiện kinh tế như hiện nay, dự đoán tăng trưởng 
kinh tế Trung Quốc trong năm 2019 ước đạt 
6-6,5% [3]. 
ASEAN chỉ giữ được tốc độ tăng trưởng ổn 
định trong 9 tháng đầu năm 2018, bước sang 
quý 4 bức tranh kinh tế diễn ra khá đa dạng. Do 
bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh thương mại 
Mỹ - Trung, tác động của môi trường kinh tế 
toàn cầu cùng sự tăng trưởng chậm lại của các 
nền kinh tế lớn trên thế giới nên chỉ số PMI 
trong lĩnh vực sản xuất của các nền kinh tế 
ASEAN (ngoại trừ Brunei, Campuchia và Lào) 
bị đình trệ trong tháng 10 và tháng 11/2018. 
Đối với lĩnh vực thương mại, Singapore và 
Malaysia có sự tăng trưởng trong xuất khẩu, và 
Malaysia có thặng dư thương mại đạt mức cao 
trong quý 4/2018. Tuy nhiên, Philippines liên 
tục bị thâm hụt thương mại trong những năm 
gần đây. Hoạt động thương mại của Thái Lan 
cũng không khả quan, thâm hụt thương mại ở 
mức 4.032 tỷ USD trong tháng 1/2019. Tại Hội 
nghị cấp cao ASEAN tổ chức ở Singapore vào 
giữa tháng 11/2018, các nước ASEAN đã ký 
thỏa thuận thương mại điện tử đầu tiên, tạo điều 
kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại 
điện tử xuyên biên giới. Đây được coi là điểm 
sáng góp phần thúc đẩy tăng trưởng thương mại 
nội khối và tạo đà tăng trưởng cho các các nước 
thành viên ASEAN trong thời gian tới [1, 2]. 
1.2. Thương mại toàn cầu tăng trưởng 
Bất chấp những biến động phức tạp của tình 
hình thương mại thế giới năm 2018 như chiến 
tranh thương mại Mỹ - Trung, những chia rẽ 
trong quan điểm của các quốc gia tại Hội nghị 
G20, những khó khăn của WTO trong việc điều 
chỉnh thương mại đa phương, tính đến hết 11 
tháng đầu năm, thương mại toàn cầu năm 2018 
vẫn tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ năm 
trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu đến 
hết tháng 11/2018 đạt 16.351 tỷ USD so với 
mức 13.461 tỷ USD của năm 2016 và 14.819 tỷ 
USD năm 2017 (Hình 1) [4, 5]. 
So với 11 tháng năm 2017, thương mại toàn 
cầu 11 tháng năm 2018 tăng trưởng ở mức độ 
rất cao, tăng 1.532 tỷ USD, tương đương với 
mức tăng trưởng 10,34% (Hình 1). Đây cũng là 
mức tăng cao nhất kể từ năm 2012 đến nay. 
Đặc biệt, tổng kim ngạch thương mại thế giới 
11 tháng năm 2018 đã vượt mức 15.000 tỷ USD 
của 11 tháng năm 2014 - mức cao của thương 
mại toàn cầu kể từ sau khủng hoảng tài chính 
tiền tệ năm 2008. 
j 
Hình 1. Kim ngạch xuất khẩu toàn cầu từ tháng 1 đến tháng 11 giai đoạn 2011-2018 (Đơn vị: Tỷ USD). 
Nguồn: Tính toán của tác giả từ WTO (2019a). 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 27 
1.3. Giá cả toàn cầu 
Giá dầu thế giới đột ngột giảm mạnh trong 
tháng 11 và 12 sau khi chứng kiến xu hướng 
tăng liên tục từ tháng 6/2017 do Mỹ và hai quốc 
gia khác trong top 3 nước sản xuất dầu lớn hàng 
đầu thế giới là Saudi Arabia và Nga đã nâng sản 
lượng khai thác dầu với tốc độ kỷ lục, trong khi 
nhu cầu dầu thế giới quay đầu giảm do tăng 
trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại. Tuy nhiên, từ 
tháng 1/2019 đến nay, giá dầu liên tục tăng trở 
lại và đạt 67,5 USD/thùng dầu Brent. Đó là nhờ 
quyết tâm của OPEC trong việc nỗ lực tái lập 
cân bằng trên thị trường dầu thô. OPEC và các 
nước đồng minh đã thống nhất thỏa thuận cắt 
giảm sản lượng và tiếp tục duy trì đến hết tháng 
6/2019 để giữ được đà tăng giá dầu. 
Do đồng USD tăng giá so với các đồng tiền 
chủ chốt khác, giá dầu thô tăng trong 3 quý đầu 
năm 2018 góp phần làm tăng CPI của nhiều 
nước nên lạm phát toàn cầu năm 2018 tăng 
3,78%, cao hơn so với mức 3,2% năm 2017. 
Thị trường hàng hóa năm 2019 sẽ phải vượt qua 
những thách thức từ tăng trưởng toàn cầu yếu 
hơn, thắt chặt các điều kiện tín dụng hơn và gia 
tăng sức mạnh của đồng USD. Nếu đà tăng giá 
dầu thô tiếp tục diễn ra trong thời gian tới thì 
lạm phát toàn cầu có thể tiếp tục tăng nhẹ trong 
năm 2019. 
k 
Hình 2. Biến động giá dầu thế giới. 
Nguồn: EIA 
l
1.4. Đầu tư toàn cầu tiếp tục giảm 
FDI toàn cầu đã giảm liên tiếp trong 3 năm 
qua. Dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2018 
sụt giảm 19% so với năm 2017, ước đạt 1,2 tỷ 
USD, mức thấp nhất kể từ khi xảy ra khủng 
hoảng tài chính toàn cầu tới nay. Nguyên nhân 
chính là do điều khoản đánh thuế một lần của 
Đạo luật Việc làm và Giảm thuế (TCJA) do 
Thượng viện Mỹ đưa ra từ cuối năm 2017 đã 
khiến khoản thu nhập ở nước ngoài quay trở về 
công ty mẹ ở Mỹ thay vì tái đầu tư. Từ đầu năm 
2018, các công ty đa quốc gia (MNE) đã 
chuyển thu nhập đang nắm giữ tại các chi 
nhánh ở nước ngoài về nước để không phải trả 
thêm thuế. Tái đầu tư thu nhập ở nước ngoài 
luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dòng vốn 
FDI của Mỹ ra nước ngoài. Dòng vốn FDI ra 
nước ngoài của Mỹ trong thời gian này đã sụt 
giảm nghiêm trọng khiến cho dòng FDI toàn 
cầu cũng sụt giảm [6]. 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 
28 
Dòng vốn FDI vào các nước phát triển giảm 
đến 40% đạt khoảng 451 tỷ USD - mức thấp 
nhất kể từ năm 2004, thấp hơn mức 652 tỷ USD 
năm 2009 và mức 595 tỷ USD năm 2014. Tốc 
độ tăng trưởng vốn FDI ở các nước đang phát 
triển diễn ra không đồng đều giữa các vùng. 
Dòng FDI vào các nước đang phát triển chỉ tăng 
3%, chiếm đến 56% FDI toàn cầu năm 2018, 
đạt khoảng 694 tỷ USD. FDI tập trung chủ yếu 
ở các nước Đông Á và các nước Đông Nam Á 
chiếm 1/3 FDI toàn cầu. FDI vào các nền kinh 
tế chuyển đổi đạt 44 tỷ USD năm 2018, giảm 
8% so với năm 2017. Các nước phát triển ở 
châu Á thu hút được nhiều vốn FDI nhất, đồng 
thời cũng là khu vực có ... ững năm gần đây. Nhật 
Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Hồng 
Kông, Thái Lan thuộc nhóm các đối tác đầu tư 
lớn tại Việt Nam. Trong 2 tháng đầu năm 2019, 
Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 4,3 tỷ 
USD, chiếm 51% tổng vốn đầu tư; Singapore 
đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư 979,1 triệu 
USD, chiếm 11,5% tổng vốn đầu tư vào 
Việt Nam; Hàn Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng 
vốn đầu tư đăng ký là 873 triệu USD, chiếm 
10,3% tổng vốn đầu tư. Các ví trí tiếp theo 
thuộc về Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. 
2.4. Biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái 
Thị trường tiền tệ và ngoại hối chứng kiến 
sự biến động của lãi suất huy động và tỷ giá có 
xu hướng tăng mạnh vào những tháng cuối năm 
2018. Đối với lãi suất liên ngân hàng, tính đến 
ngày 31/10/2018 đã tăng ở tất cả các kỳ hạn so 
với đầu năm, tăng trong khoảng từ 1,9-3,39 
điểm phần trăm ở các kỳ hạn ngắn và từ 0,01-
0,62 điểm phần trăm đối với các kỳ hạn từ 3 
tháng trở lên. Mặc dù lãi suất huy động tăng, 
nhưng do Ngân hàng Nhà nước điều tiết chính 
sách tiền tệ linh hoạt như bơm tiền qua OMO, 
phát hành tín phiếu, ổn định lãi suất USD và 
giảm mặt bằng lãi suất cho vay trong nền kinh 
tế, mặt bằng lãi suất cho vay VND không tăng 
mà phổ biến ở mức 6-9%/năm đối với ngắn 
hạn, 9-11%/năm đối với trung và dài hạn. 
Trong khi thị trường ngoại hối quốc tế 
chứng kiến USD tăng giá so với hầu hết các 
đồng tiền mạnh khác trong năm 2018 thì VND 
biến động khá trái chiều so với các đồng tiền 
mạnh ở thị trường ngoại hối trong nước. VND 
chỉ mất giá gần 1,8% so với đồng USD, mất giá 
so với Euro 3,6%, mất giá so với JPY 1,8% và 
mất giá 4,2% so với CNY tính từ đầu năm 2018 
đến nay. Như vậy, việc áp dụng chính sách tỷ 
giá hối đoái trung tâm gắn VND với rổ tiền tệ 
gồm 8 đồng tiền chưa thực sự thực chất. Cụ thể, 
xu hướng biến động của VND/Euro và 
VND/JPY có nét tương đồng hoàn toàn so với 
biến động của USD/Euro và JPY/USD trong 
suốt năm 2018. Điều này chứng tỏ VND vẫn 
được gắn khá chặt so với đồng USD. Trong khi, 
Trung Quốc điều hành để CNY mất giá sâu hơn 
so với đồng USD nhằm tạo thuận lợi cho các 
nhà xuất khẩu trong bối cảnh căng thẳng 
thương mại Mỹ - Trung đang gia tăng. VND 
tăng giá mạnh so với CNY lại là điều bất lợi 
cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam sang 
Trung Quốc. Nhưng đối với các nhà nhập khẩu 
hàng hóa từ Trung Quốc, nếu họ sử dụng đồng 
CNY thì lại có lợi hơn so với lựa chọn đồng 
USD để thanh toán. Bởi vì, đồng USD tăng giá 
làm hàng hóa nhập khẩu quy ra VND có giá cao 
hơn, trong khi CNY mất giá so với VND thì 
hàng hóa nhập khẩu thanh toán bằng CNY quy 
ra VND có giá rẻ hơn. 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 
32 
Hình 8. Tỷ giá hối đoái giữa VND và các đồng tiền 
của các nền kinh tế đối tác chủ chốt. 
(từ ngày 1/1/2018 đến ngày 19/3/2019) 
Nguồn: Pacific Exchange Rate Services. 
3. Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam 
năm 2019 
3.1. Triển vọng kinh tế thế giới 
Những bất ổn địa chính trị và tranh chấp 
thương mại giữa Mỹ và các nước đối tác vẫn 
chưa có chiều hướng giảm sẽ tiếp tục gây ảnh 
hưởng tiêu cực đến dòng chảy thương mại và 
đầu tư của các nền kinh tế chủ chốt, từ đó tác 
động tới tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Dự đoán 
trong năm 2019, thương mại toàn cầu vẫn tiếp 
tục tăng trưởng nhưng với tốc độ chậm hơn, 
phản chiếu bức tranh của những căng thẳng và 
mâu thuẫn giữa các đối tác thương mại lớn toàn 
cầu, những bất ổn trong chính sách kinh tế toàn 
cầu và những phản ứng của chính sách tài chính 
tiền tệ trước những căng thẳng đó. Theo dự báo 
của WTO, khối lượng thương mại toàn cầu sẽ 
tăng với tốc độ 3,7% trong năm 2019 (đã điều 
chỉnh theo thời vụ), trong đó lượng thương mại 
của các nước phát triển tăng 3,3% và của các 
nước đang phát triển tăng 4,5%. Dự báo lượng 
thương mại của các nước châu Á vẫn tăng với 
tốc độ cao nhất là 4,9%, tiếp theo là châu Mỹ 
(3,6%) và châu Âu (3,2%). 
Tình trạng căng thẳng thương mại kéo dài 
đã và tiếp tục làm chậm tốc độ tăng trưởng của 
thương mại quốc tế, làm suy yếu các hoạt động 
sản xuất, tất yếu sẽ dẫn đến sự gián đoạn chuỗi 
giá trị toàn cầu và ảnh hưởng đến dòng 
vốn FDI. 
Kinh tế Mỹ năm 2019 khó giữ được đà tăng 
trưởng như năm 2018. Tuy nhiên, trong bối 
cảnh kinh tế châu Âu, Anh, Nhật Bản và 
Trung Quốc đều đang đà giảm dần sẽ tiếp tục 
hỗ trợ cho đồng USD tăng giá. Như vậy, đồng 
USD sẽ tiếp tục tăng giá nhẹ và vẫn được các 
nhà đầu tư lựa chọn làm kênh trú ẩn an toàn. 
Các nước OPEC đang nỗ lực tái cân bằng 
cung cầu trên thị trường dầu mỏ nên giá dầu thế 
giới có thể sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. 
Những căng thẳng thương mại có thể vẫn tiếp 
diễn và sẽ tạo ra những bất ổn định ngay trên 
các thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu, gây 
cản trở tăng trưởng toàn cầu trong những năm 
tới. Tăng trưởng của Mỹ có giảm nhẹ nhưng 
nhờ có sự tăng trưởng của một số nước ở châu 
Á nên tăng trưởng toàn cầu năm 2019 chỉ giảm 
nhẹ so với năm 2018. 
3.2. Triển vọng kinh tế Việt Nam 
Kinh tế Việt Nam đón nhận nhiều tín hiệu 
tích cực như bội chi ngân sách giảm đáng kể, 
cán cân thương mại thặng dư trong đó FDI vẫn 
giữ vai trò là tác nhân chủ chốt thúc đẩy hoạt 
động thương mại của Việt Nam gia tăng. Tuy 
nhiên, thương mại của Việt Nam vẫn tiếp tục 
phụ thuộc lớn vào khu vực FDI (FDI chiếm tới 
75% giá trị xuất khẩu) mà không có nhiều sản 
phẩm thể hiện sự chuyển giao công nghệ ở Việt 
Nam cũng như chưa có sức bật nội lực từ các 
doanh nghiệp trong nước. Lĩnh vực mà dòng 
vốn FDI vào chủ yếu tập trung vào ngành công 
nghiệp chế biến, chế tạo góp phần đẩy mạnh 
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 
Năm 2019, thương mại Việt Nam sẽ đối 
mặt với những thách thức và khó khăn nội tại 
như việc tham gia các hiệp định thương mại tự 
do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA). Thêm vào 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 33 
đó, hạn chế về trình độ công nghệ dẫn đến Việt 
Nam sẽ có nhiều thách thức trong việc phát 
triển các xu hướng thương mại mới một cách 
bền vững như thương mại số, thương mại điện 
tử qua biên giới Mỹ và Trung Quốc là hai đối 
tác lớn của Việt Nam nên cả tác động tích cực 
và tác động tiêu cực từ cuộc chiến thương mại 
giữa hai quốc này đến Việt Nam đều lớn. Do 
đó, nếu Việt Nam biết tận dụng những khía 
cạnh tích cực, vượt qua những khía cạnh tiêu 
cực thì sẽ có khả năng tạo đột phá trong thương 
mại. Một mặt, chiến tranh thương mại Mỹ - 
Trung đem đến những sức ép mới khi Việt Nam 
đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ 
thị trường Trung Quốc, gia tăng cạnh tranh trên 
thị trường nội địa khi cả Mỹ và Trung Quốc có 
thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam. Các 
nước khác cũng muốn chớp cơ hội từ cuộc 
chiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu sang 
Mỹ và Trung Quốc nên việc Việt Nam tăng 
xuất khẩu sang hai thị trường này không phải là 
điều dễ dàng. Thêm vào đó, Việt Nam còn đứng 
trước nguy cơ Trung Quốc có thể mượn đường 
Việt Nam, lách luật để xuất khẩu vòng sang thị 
trường Mỹ và từ đó ảnh hưởng đến quan hệ 
thương mại Việt Nam - Mỹ, khiến Việt Nam có 
thể nằm trong nguy cơ bị Mỹ áp thuế trong 
tương lai. Tuy nhiên, cuộc chiến thương mại 
Mỹ - Trung cũng có những tác động tích cực 
với Việt Nam như đem lại cơ hội tăng xuất 
khẩu hàng hóa sang Mỹ và Trung Quốc đối với 
các sản phẩm hai bên áp thuế lẫn nhau, với các 
sản phẩm sử dụng sản phẩm bị áp thuế làm 
nguyên liệu đầu vào. Việt Nam có thể sẽ được 
hưởng lợi từ những thay đổi trong chuỗi cung 
ứng khi các doanh nghiệp nước ngoài chuyển 
một phần sản xuất ra khỏi Trung Quốc để tránh 
các biện pháp khắt khe của Mỹ áp dụng với 
hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc. Bên cạnh đó, 
cũng có một số yếu tố khác thúc đẩy tích cực 
thương mại Việt Nam trong năm 2019. Đó là 
Việt Nam sẽ chịu những tác động tiêu cực từ 
nền kinh tế thế giới và cuộc chiến thương mại 
Mỹ - Trung, nhưng khả năng chống chịu của 
nền kinh tế đã tốt hơn và nền kinh tế đang được 
điều hành tốt hơn thông qua các đợt điều chỉnh 
ngân hàng, thị trường chứng khoán. Đó là tín 
hiệu lạc quan về khả năng Hiệp định Thương 
mại Tự do Việt Nam - EU sẽ có thể được thông 
qua vào khoảng cuối tháng 5 năm nay; hiệp 
định CPTPP có hiệu lực sẽ đem đến các cơ hội 
mới để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Ngoài 
ra, sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Hàn 
Quốc và sự tăng trưởng khá vững vàng của EU 
- hai trong các đối tác thương mại hàng đầu của 
Việt Nam cũng sẽ là những yếu tố thúc đẩy 
thương mại của Việt Nam. 
Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô về cơ bản vẫn 
được đảm bảo, lạm phát được dự báo trong tầm 
kiểm soát, thanh khoản hệ thống ngân hàng 
được duy trì tốt, dự trữ ngoại hối được duy trì ở 
mức cao là căn cứ để đảm bảo tỷ giá và lãi suất 
không có biến động quá lớn là điều kiện thuận 
lợi ổn định kinh tế vĩ mô giúp cho tăng trưởng 
kinh tế tiếp tục được ghi nhận trong năm 2019. 
Mặc dù vậy, mô hình tăng trưởng cải thiện chưa 
rõ rệt, vẫn chủ yếu dựa vào các nguồn lực như 
vốn đầu tư và tín dụng, trong khi chất lượng, 
hiệu quả sử dụng các nguồn lực này chưa cao. 
Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế năm 2018 
cũng như xem xét triển vọng phát triển của các 
nhân tố có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế 
Việt Nam trong năm 2019 bao gồm: tăng 
trưởng kinh tế giới; chỉ số giá tiêu dùng thế 
giới; giá dầu thế giới; một số đánh giá tác động 
của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; tỷ lệ 
đầu tư/GDP; biến động tỷ giá, biến động lãi 
suất, nhóm nghiên cứu dự báo tăng trưởng GDP 
của Việt Nam 2019 sẽ dao động trong khoảng 
6,9-7,1%. 
4. Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam 
Từ những kết quả đạt được trong năm 2018, 
Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục tăng cường ổn 
định kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại các ngành, lĩnh 
vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng bao 
trùm, tiếp tục nâng cao năng suất, hiệu quả và 
sức cạnh tranh của nền kinh tế. 
Cần theo sát từng động thái và dự đoán các 
kịch bản của cuộc chiến thương mại 
Mỹ - Trung, hoạch định các giải pháp cho từng 
kịch bản đó để ở thế sẵn sàng chuẩn bị cho mọi 
khả năng, kể cả là khả năng xấu nhất. Chính 
phủ cần cập nhật thường xuyên và nhanh chóng 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 
34 
danh mục hàng hóa bị áp thuế của Mỹ và Trung 
Quốc cũng như tỷ giá CNY/USD và có kênh 
thông tin nhanh chóng cho doanh nghiệp để 
doanh nghiệp có phản ứng kịp thời. 
Cần tiếp tục thực hiện hiệu quả tiến trình 
hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động theo dõi, 
đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng FDI trên 
thế giới, không ngừng cải thiện môi trường đầu 
tư để tận dụng vị thế của Việt Nam trong thị 
trường ASEAN và cơ hội do các hiệp định 
thương mại tự do tạo ra để thu hút vốn FDI, 
gồm cả doanh nghiệp Mỹ và doanh nghiệp 
nước khác đang đầu tư tại Trung Quốc, nếu như 
có sự chuyển dịch đầu tư ra khỏi Trung Quốc 
của các doanh nghiệp này. Tạo sự liên kết, lan 
tỏa giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp 
trong nước để các doanh nghiêp Việt Nam dần 
nâng cấp công nghệ, hình thành phát triển công 
nghiệp hỗ trợ và phát triển cụm liên kết ngành 
theo từng chuỗi giá trị, gia nhập mạng sản xuất 
và chuỗi giá trị toàn cầu. 
Việt Nam cũng nên cân nhắc một số biện 
pháp để ngăn hàng hóa Trung Quốc chuyển 
hướng ồ ạt sang thị trường Việt Nam như sử 
dụng chính sách tỷ giá, áp dụng các biện pháp 
phi thuế quan hợp lý và theo đúng luật pháp 
quốc tế như tăng cường kiểm tra chất lượng 
hàng hóa Trung Quốc tại các điểm kiểm soát 
biên giới, nâng cao yêu cầu về chất lượng đối 
với hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc. Việc 
Chính phủ nỗ lực giảm chi phí cho các nhà xuất 
khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất bằng 
cách cắt giảm tối đa các thủ tục và giấy phép, 
đồng thời tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tìm 
kiếm thị trường mới cũng là giải pháp cần thiết. 
Cần xác định rằng chiến lược cốt lõi của 
Việt Nam để đối phó với những biến động của 
tình hình kinh tế thế giới nói chung, cuộc chiến 
thương mại nói riêng là thúc đẩy ổn định vĩ mô, 
ổn định giá trị của VND, tăng cường thực hiện 
các FTA đã ký kết để tăng xuất khẩu và duy trì 
đà tăng trưởng, đồng thời tận dụng được cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để thúc đẩy sự 
phát triển của thương mại điện tử, thương mại 
số, theo kịp những xu hướng mới của thương 
mại quốc tế. 
Việc điều hành tỷ giá, sau đúng 3 năm kể từ 
ngày Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng tỷ 
giá trung tâm gắn theo 8 đồng tiền, thực tế diễn 
ra VND vẫn luôn được gắn theo đồng USD. 
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu 
rộng, sự đa dạng hóa các đồng tiền trong thanh 
toán ngày càng gia tăng thì việc áp dụng thực 
chất hơn nữa tỷ giá trung tâm là rất cần thiết. 
Tuy nhiên, theo kết quả của nhóm nghiên cứu, 
Ngân hàng Nhà nước chỉ nên áp dụng tỷ giá 
trung tâm gắn vào 5 đồng tiền gồm USD, EUR, 
JPY, CNY và SGD, trong đó tỷ trọng của đồng 
USD là lớn nhất chứ không nhất thiết phải gồm 
8 đồng tiền như Ngân hàng Nhà nước đã 
công bố. 
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục điều hành 
chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp 
chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính 
sách vĩ mô khác. Nếu FED vẫn tiếp tục tăng lãi 
suất thêm 1 lần nữa trong năm 2019 như đã 
tuyên bố thì trong thời gian tới VND sẽ tiếp tục 
có xu hướng mất giá so với USD. Với sự kết 
hợp của chính sách thắt chặt tiền tệ dần dần, 
chính sách quản lý nhằm thu hẹp thâm hụt 
thương mại, và khuyến khích các công ty Mỹ 
hồi hương tiền mặt đang ở nước ngoài, cũng 
như những thay đổi về quy định hạn chế việc tài 
trợ mua lại và tài trợ xuyên biên giới có thể dẫn 
đến áp lực huy động USD ở châu Á, tăng chi 
phí thanh toán bằng USD và sự mất giá của 
đồng nội tệ trong khu vực. Việt Nam cần theo 
dõi và có những phương án đối phó kịp thời với 
biến động tỷ giá trong khu vực. 
Lời cảm ơn 
Bài viết nằm trong khuôn khổ Đề tài 
KT.18.04 của Trường Đại học Kinh tế - Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] WB, Development Economics - Prospects, 
December 2018. 
[2] WB, Development Economics - Prospects, 
January 2019a. 
N.C. Nhung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 23-35 35 
[3] WB, Development Economics - Prospects, 
February 2019b. 
[4] WTO, Monthy world trade data, 2019a, truy cập 
ngàyhttps://www.wto.org/english/res_e/statis_e/sh
ort_term_stats_e.htm 
[5] WTO, World Trade Outlook Indicator, 2019b, 
truy cập từ 
https://www.wto.org/english/news_e/news19_e/w
toi_19feb19_e.pdf 
[6] UNCTAD, Investment Trends Monitor Issue 31: 
Global FDI flows continue their in 2018, New 
York and Geneva: United Nation, 2019. 
[7] Tổng cục Hải quan, “Tình hình xuất khẩu, nhập 
khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và năm 
2018”, 2019a, truy cập ngày 15/01/2019, 
https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQ
uan/ViewDetails.aspx?ID=1559&Category=Phân
%20t%C3%ADch%20định%20kỳ&Group=Phân
%20t%C3%Adch. 
[8] Tổng cục Hải quan, “Tình hình xuất khẩu, nhập 
khẩu hàng hoá của Việt Nam tháng 2 và 2 tháng 
đầu năm 2019”, 2019b, truy cập ngày 15/03/2019, 
https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQ
uan/ViewDetails.aspx?ID=1612&Category=&Gro
up=Phân%20t%C3%ADch.

File đính kèm:

  • pdfkinh_te_the_gioi_va_viet_nam_quy_1_nam_2019_trien_vong_va_ha.pdf