Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng cơ chế pháp lý phòng, chống mua bán người: Bài học đối với Việt Nam
Hiện nay, tội phạm mua bán người đang diễn biến hết sức phức tạp. Đây
không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia, mỗi khu vực mà còn là vấn đề của quốc tế. Điều này,
đòi hỏi mỗi quốc gia phải hình thành những cơ chế pháp lý hữu hiệu đồng bộ và tương thích
với quy định quốc tế trong đấu tranh với tội phạm buôn bán người. Việc nghiên cứu kinh
nghiệm của các quốc gia, trong đó có các quốc gia có mối liên quan chặt chẽ tới tình hình
mua bán người ở Việt Nam như là Trung Quốc, Philipin và Thái Lan, là kênh tham khảo để
Việt Nam có thể hoàn thiện cơ chế pháp lý (CCPL) phòng, chống mua bán người trong thời
gian tới.
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng cơ chế pháp lý phòng, chống mua bán người: Bài học đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng cơ chế pháp lý phòng, chống mua bán người: Bài học đối với Việt Nam
58 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG XÂY DỰNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI: BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM Đỗ Thị Lý Quỳnh* Ngày tòa soạn nhận được bài báo:5/9/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/3/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/3/2020 Tóm tắt: Hiện nay, tội phạm mua bán người đang diễn biến hết sức phức tạp. Đây không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia, mỗi khu vực mà còn là vấn đề của quốc tế. Điều này, đòi hỏi mỗi quốc gia phải hình thành những cơ chế pháp lý hữu hiệu đồng bộ và tương thích với quy định quốc tế trong đấu tranh với tội phạm buôn bán người. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia, trong đó có các quốc gia có mối liên quan chặt chẽ tới tình hình mua bán người ở Việt Nam như là Trung Quốc, Philipin và Thái Lan, là kênh tham khảo để Việt Nam có thể hoàn thiện cơ chế pháp lý (CCPL) phòng, chống mua bán người trong thời gian tới. Từ khóa: mua bán người, cơ chế pháp lý, vấn đề quốc gia và quốc tế, Việt Nam. * Học Viện An ninh Nhân dân Đặt vấn đề Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (Nghị định thư TIP) bổ sung cho Công ước của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước TOC) là văn bản có ý nghĩa tiến bộ nhất cả về mặt chính trị và pháp lý, là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống buôn bán người cũng như trong việc bảo vệ nạn nhân. Nghị định này được Liên hiệp quốc thông qua vào ngày 15/11/2000 và là cơ sở để các quốc gia soi chiếu và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán người. Tuy nhiên, hiện nay mỗi quốc gia đã hình thành nên các cơ chế pháp lý riêng biệt để phòng, chống mua bán người. Do vậy, việc nghiên cứu CCPL của các quốc gia trong đó nổi bật là Trung Quốc, Thái Lan, Philipin là một trong những kênh soi chiếu để vận dụng vào việc hoàn thiện CCPL phòng, chống mua bán người ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 65 (3/2020) 58-64 59Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 1. Cơ chế pháp lý phòng, chống mua bán người của một số quốc gia trên thế giới 1.1. Tại Trung Quốc Tại Điều 240 BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1997 quy định các mức phạt đối với từng hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em trong đó mức phạt cao nhất lên đến tử hình và tịch thu toàn bộ tài sản của đối tượng phạm tội. Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc chỉ coi hành vi bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy nội tạng là mua bán người mà không coi hành vi giao người, nhận tiền thông qua việc cưới là mua bán người. Trong khi nhu cầu chủ yếu của Trung Quốc là mua bán cô dâu nhằm giải quyết sự thiếu hụt nữ giới ở nước này. Đây cũng là một khó khăn trong công tác phối hợp cũng như ngăn chặn các hành vi mua bán người từ Việt Nam. Ngoài ra, pháp luật Trung Quốc tại Điều 241 BLHS còn quy định về hành vi mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán thì bị xử phạt từ 3 năm, cải tạo lao động hoặc bị quản chế. Nhưng nếu không ngăn cản họ trở về nơi cư trú cũ theo nguyện vọng của họ, không có hành vi lạm dụng trẻ em bị đem bán, không ngăn cản các nỗ lực giải thoát cho họ thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 242 quy định về hành vi dùng bạo lực hoặc uy hiếp ngăn cản nhân viên thi hành công vụ nhà nước giải thoát cho phụ nữ, trẻ em bị đem bán. Điều 416 quy định trách nhiệm của nhân viên trong các cơ quan nhà nước trong giải cứu phụ nữ và trẻ em. Nếu không tiến hành giải cứu khi có thông tin sẽ bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động. Nếu ngăn cản việc giải cứu sẽ phạt tù từ 2 năm đến 7 năm hoặc cải tạo lao động. Như vậy, rõ ràng mặc dù quy định pháp luật về tội buôn bán phụ nữ trẻ em khá nặng với hình phạt cao nhất là tử hình nhưng nhìn chung quy định này còn những khác biệt cơ bản so với nghị định thư ở cả hành vi, phương thức và mục đích. Ngoài ra, luật Trung Quốc còn có thiếu sót khi nam giới không được đề cập là nạn nhân và Trung Quốc mặc dù là đích đến của tội phạm mua bán người và các hành vi mua bán người trong quốc gia diễn biến phức tạp nhưng Trung Quốc vẫn chưa có luật phòng, chống mua bán người như các nước trong khu vực và các nhà quản lý Trung Quốc thường xây dựng các kế hoạch, phương án phòng chống mua bán người qua các từng giai đoạn và hiện nay là giai đoạn 2013-2020. Trẻ em vị thành niên theo quy định pháp luật Trung Quốc là dưới 18 tuổi. 1.2. Tại Thái Lan Thái Lan đã ban hành Luật phòng, chống buôn bán người từ năm 2008 gồm 57 điều trong đó đưa ra khái niệm về buôn bán người, về mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi, về hỗ trợ nạn nhân và hợp tác quốc tế cũng như thành lập Ủy ban chống buôn bán người và quỹ buôn bán người. Định nghĩa về buôn bán người 60 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion của Thái Lan tương đồng với các cách định nghĩa của Nghị định thư về hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, mua bán, chuyển giao cùng phương thức như ép buộc, cưỡng bức, bắt cóc, lừa gạt, sử dụng vũ lực và nhấn mạnh yếu tố bóc lột. Về hình phạt, pháp luật Thái Lan quy định hình phạt dựa vào độ tuổi của nạn nhân cũng như đối tượng thực hiện hành vi phạm tội. Cụ thể như sau: Mua bán người phạt tù từ 4 - 10 năm, phạt tiền từ 56 triệu đến 140 triệu đồng (quy ra tiền Việt Nam); Nạn nhân từ 15 - 18 tuổi: phạt tù từ 6 - 12 năm, phạt tiền từ 84 triệu đến 168 triệu đồng; Nạn nhân dưới 15 tuổi: phạt tù từ 8 đến 15 năm, phạt tiền từ 112 triệu đến 210 triệu đồng. Đặc biệt, nếu là tội phạm có tổ chức thì các thành viên phải chịu hình phạt năng hơn gấp 1/2 lần hình phạt mà pháp luật quy định. Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới Thái Lan, hoặc tội phạm được thực hiện bởi các cán bộ nhà nước thì xử phạt gấp 2 lần hình phạt mà pháp luật quy định. Cán bộ trực tiếp làm công tác chống buôn bán người, cán bộ làm công tác thực thi pháp luật tham gia buôn bán người thì sẽ bị xử phạt gấp 3 lần hình phạt mà pháp luật quy định. Thái Lan quy định khá chặt chẽ, cụ thể và hướng tới tăng nặng hình phạt đối với những hành vi được thực hiện bởi tội phạm có tổ chức, bởi đưa nạn nhân ra khỏi biên giới, bởi người trong bộ máy nhà nước. Thái Lan cũng quy định trách nhiệm hình sự của các pháp nhân. Ngoài ra, luật này còn quy định các chế tài cụ thể nhằm ngăn ngừa việc lộ bí mật của nạn nhân. Bên cạnh đó, cá nhân, tổ chức cung cấp tài sản, nơi hội họp cho những đối tượng buôn bán người thì có thể sẽ bị xét thêm tội trong Luật chống rửa tiền và tịch thu hết tài sản thu được. Thái lan đã thành lập 2 Ủy ban về vấn đề này, đó là Ủy ban quốc gia chống buôn bán người và Ủy ban điều phối và giám sát công tác phòng, chống buôn bán người với những nhiệm vụ cơ bản như: ủy ban quốc gia chống buôn bán người có trách nhiệm tư vấn cho chính phủ trong ban hành pháp luật, tổ chức bộ máy, hợp tác quốc tế. Ủy ban điều phối và giám sát có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, giám sát việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ, thúc đẩy nâng cao nhận thức và đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu. Ủy ban quốc gia chống buôn bán người do Thủ tướng làm chủ tịch và các bộ trưởng khác là thành viên. Ủy ban điều phối và giám sát do Phó Thủ tướng làm chủ tịch và Phó Chủ tịch là Bộ trưởng bộ an ninh con người và phát triển xã hội, vận hành đường dây nóng 1300 hoạt động 24/7. Ngoài ra, Thái Lan cũng thành lập quỹ buôn bán người từ việc tịch thu tài sản do phạm tội buôn bán người có và sự ủng hộ của các xã hội để từ đó hỗ trợ cho các nạn nhân của buôn bán người. 61Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 1.3. Tại Philippin Ngày 30/9/2003 luật chống buôn bán người - đạo luật số 9208 ra đời đánh dấu quyết tâm của chính phủ Philipin trong việc đảm bảo quyền con người và phòng, chống mua bán người. Luật này đã đưa ra định nghĩa về buôn bán người tại Điều 3 - định nghĩa khá tương đồng với định nghĩa của Nghị định thư với 3 dấu hiệu về hành vi, phương thức và mục đích. Định nghĩa các hành vi cụ thể từ giới thiệu, môi giới, lợi dụng hợp đồng hôn nhân, tổ chức các tour du lịch, nhận nuôi trẻ em, lừa gạt bắt cóc nhằm mục đích mua bán người. Tuy nhiên, luật này còn quy định về các hành vi thúc đẩy việc buôn bán người (Điều 5) như cung cấp nhà ở, lưu trú; cung cấp giấy tờ giả; quảng cáo, in ấn tài liệu phục vụ mua bán người; và đáng chú ý là việc coi hành vi “cố ý thu lợi về tài chính hoặc lợi ích khác từ lao động hoặc dịch vụ của một người trong tình trạng như nô lệ, lao động cưỡng bức hoặc nô lệ, hoặc lợi dụng lao động hoặc dịch vụ đó”. Tại Điều 6, quy định các hành vi mua bán người được coi là nghiêm trọng khi mua bán trẻ em; tội phạm có tổ chức hoặc với 3 nạn nhân trở lên; đối tượng phạm tội là bố mẹ, anh chị em, cán bộ công chức. Điều 7 quy định về việc bảo vệ nạn nhân, bảo mật thông tin nạn nhân Điều 10 quy định về các hình phạt cụ thể như: hành vi mua bán người bị phạt tù 20 năm, phạt tiền từ 1 - 2 triệu pesos; các hành vi thúc đẩy bị phạt tù 15 năm và phạt tiền từ 5 trăm nghìn - 1 triệu pesos; các hành vi mua bán người nghiêm trọng sẽ bị tù chung thân và phạt tiền từ 2-5 triệu pesos; hành vi vi phạm về bảo mật thông tin nạn nhân bị phạt đến 6 năm và phạt tiền từ 5 trăm nghìn - 1 triệu pesos. Vi phạm điều 6 hình phạt có thể lên đến chung thân, phạt tiền từ 2 - 5 triệu pesos. Vi phạm điều 7 hình phạt lên tới 6 năm tù, phạt tiền từ 500 nghìn - 1 triệu pesos. Ngoài ra, pháp luật Philipin còn quy định rõ trách nhiệm của các pháp nhân tập đoàn hiệp hội, công ty, câu lạc bộ hay bất kỳ pháp nhân nào vi phạm thì chủ công ty, người quản lý cũng phải chịu hình phạt, tước giấy phép kinh doanh vĩnh viễn. Hoặc cán bộ không tuân thủ các quy định trong luật sẽ bị đuổi việc và chấm dứt mọi quyền lợi. Đặc biệt, tại Điều 11 quy định nếu sử dụng nạn nhân, dịch vụ do hành vi buôn bán người gây ra vì mục đích mại dâm nếu phạm tội lần đầu sẽ bị phạt 6 tháng lao động công ích, 50.000 pesos; phạm tội lần thứ hai trở lên sẽ bị phạt 1 năm tù và 100.000 pesos. Năm 2012, bằng đạo luật số 10364, chính phủ Philipin đã sửa đổi bổ sung một số điều trong luật phòng, chống mua bán người năm 2003 nhưng những vấn đề cốt lõi nêu trên không bị thay đổi. Đạo luật này cũng cho phép Philipin thành lập ủy ban liên ngành phòng chống buôn bán người do Bộ trưởng Bộ Tư pháp và bộ trưởng Bộ Phúc lợi và phát triển xã hội đồng chủ tịch, có trách nhiệm phối kết hợp với tất cả các bộ ban ngành khác trong chính 62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion phủ nhằm thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn bán người, đề ra chương trình, xây dựng pháp luật, giám sát, điều phối hoạt động, tuyên truyền giáo dục, giải đáp vướng mắc và triển khai các chương trình tái hòa nhập cho nạn nhân. Ngoài ra, Philipin còn thành lập các đội đặc nhiệm phòng, chống buôn bán người ở những nơi có nguy cơ cao về hoạt động buôn bán người như ở bến cảng, sân bay và khu vực biên giới và vận hành Trung tâm tội phạm xuyên quốc gia là đấu mối thống nhất tiếp nhận tin tức, lưu trữ thông tin và điều phối hoạt động về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia. Đặc biệt, luật chống buôn người của Philipin rất chú trọng tới việc bảo vệ nạn nhân hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng thông qua việc thành lập quỹ ủy thác từ số tiền thu được trong cuộc đấu tranh chống buôn bán người và số tiền do các cá nhân tổ chức ủng hộ để tập trung vào tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân, đào tạo dạy nghề cũng như tư vấn, khám sức khỏe cho nạn nhân. Cấp phép cho các tổ chức nước ngoài tham gia vào hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân và coi giấy chứng nhận nạn nhân của các tổ chức này cấp là cơ sở để thực hiện các biện pháp hỗ trợ nạn nhân. 2. Các giá trị tham khảo đối với Việt Nam Sau khi tham khảo từ hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy, cách thức tổ chức vận hành lực lượng phòng, chống mua bán người ở Trung Quốc, Thái Lan và Philippin. Sự khác biệt trong quy định pháp luật, trong tổ chức bộ máy đã cho thấy sự phức tạp, khó khăn trong hoạt động hợp tác quốc tế. Bên cạnh những khác biệt thì việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn từ các quốc gia này đã mang lại những giá trị tham khảo nhất định cho Việt Nam trong việc hoàn thiện CCPL phòng chống mua bán người trong thời gian tới. Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống pháp luật phòng, chống tội phạm mua bán người đồng bộ với quy định quốc tế trong đó phát huy hiệu quả hoạt động của các tổ chức phi chính phủ cũng như xây dựng quỹ ủy thác dành cho nạn nhân. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng như hiện nay, việc đồng bộ và phù hợp với pháp luật quốc tế là nền tảng cơ bản trong mọi quá trình hợp tác và đặc biệt quan trọng trong đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia trong đó có tội phạm mua bán người. Việc nội luật hóa các công ước và nghị định thư mà Việt Nam ký kết không những là đòi hỏi có tính nguyên tắc được quy định trong Công ước Viên 1969 mà Việt Nam ký kết tham gia mà còn là hoạt động phù hợp với pháp luật Việt Nam (Luật điều ước quốc tế 2016). Hệ thống pháp luật đồng bộ với quy định quốc tế nhưng cũng cần đồng bộ phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành từ hình sự hóa các hành vi trong mua bán người đến tổ chức bộ máy, cách thức vận hành, hoạt động công vụ, biện pháp hợp tác quốc tế, trình tự thủ tục giải cứu, xác minh, tiếp nhận và tái hòa nhập cộng đồng cùng việc đồng bộ với các luật liên quan như luật lao động, 63Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion luật hôn nhân và gia đình, luật xuất nhập cảnh....Cần xây dựng cơ chế để các tổ chức có tư cách pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm do những hành vi mua bán người và thu lợi từ hành vi này gây ra. Cần gắn trách nhiệm của mỗi các nhân, tổ chức trong việc cung ứng và thu lợi từ hoạt động này. Việt Nam cần nghiên cứu tạo dựng nguồn kinh phí từ việc tịch thu tài sản do hoạt động phạm tội mà có để trợ giúp nạn nhân, cũng như nghiên cứu mô hình cấp phép cho các tổ chức phi chính phủ được quyền giám hộ các nạn nhân được giải cứu. Cần phải thống nhất độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi để có cơ sở thực hiện hợp tác đấu tranh. Đồng thời, cũng cần xem xét trách nhiệm hình sự của các pháp nhân có liên quan đến hành vi mua bán người. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới nạn nhân Việt Nam vẫn chủ yếu bị mua bán và đưa sang Trung Quốc, trong khi đó Trung Quốc có hệ thống pháp luật khác biệt không tương đồng với quy định của Nghị định thư cũng như quy định pháp luật Việt Nam, đáng chú ý là Trung Quốc không coi hành vi giao người nhận tiền thông qua việc cưới là mua bán người đã gây trở ngại rất lớn trong việc phối hợp đấu tranh. Việc này trong thời gian ngắn cũng khó được cải thiện như mong muốn vì những vấn đề nội tại trong chính xã hội Trung Quốc. Vì vậy, dẫn đến có vụ việc Việt Nam xác định là mua bán người, nhưng Trung Quốc lại cho rằng hợp pháp. Do vậy, lực lượng chức năng cần tích cực triển khai các biện pháp, các phương án đấu tranh thích hợp như thực hiện tốt hơn nữa việc tuyên tuyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng, quản lý đối tượng cũng như tăng cường hoạt động tuần tra kiểm soát biên giới nhằm đẩy mạnh ngăn chặn hành vi mua bán người từ trong nội địa. Thứ hai, cần nghiên cứu thành lập các lực lượng chuyên trách có chức năng đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia trong đó có tội phạm mua bán người. Để vận hành hiệu quả CCPL phòng, chống mua bán người, hệ thống cần được vận hành thông suốt từ trung ương đến địa phương do một trong những người đứng đầu chính phủ phụ trách nhằm huy động được tối đa các nguồn lực, phân bổ lực lượng, tổ chức từ việc ra chủ trương, kế hoạch, chương trình đến vận hành, kiểm tra và giám sát, từ tổ chức thực hiện đến hợp tác quốc tế. Do vậy, để cơ chế vận hành có hiệu quả trên thực tế tránh phân tán lực lượng cần thành lập lực lượng chuyên trách phụ trách đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia trong đó có tội phạm mua bán người nhằm tạo đầu mối điều phối các hoạt động đấu tranh, hợp tác quốc tế. Để tạo dựng một CCPL toàn diện, đồng bộ, phù hợp có hiệu quả cao không thể không kể đến những cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm được đào tạo bài bản, chuyên sâu. Việc đào tạo này cần được tiến hành nhiều cấp từ đào tạo tại các trường chuyên biệt, đào tạo qua trao đổi kinh nghiệm, trong tập huấn nâng cao tay nghề, đào tạo qua hội thảo trong và ngoài nước. Đặc biệt trong đấu tranh với tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia thì việc đào tạo 64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nâng cao nhận thức về pháp luật quốc tế cũng như pháp luật nước liên quan, cách thức kỹ năng trong quan hệ quốc tế được đặc biệt coi trọng. Mặt khác, do địa bàn phạm tội, địa bàn trung chuyển của tội phạm chủ yếu là vùng biên giới, hải đảo địa bàn phức tạp với chủ yếu là người dân tộc thiểu số trình độ nhận thức thấp cũng như điều kiện kinh tế khó khăn do vậy để hoạt động hiệu quả trong vùng này cán bộ làm công tác phòng, chống cần biết tiếng dân tộc, phong tục tập quán, tâm tư của đồng bào cùng những kỹ năng truyền tải vận động người có uy tín, già làng, trưởng bản cùng người dân trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh trật tự. Các kỹ năng này cần được đào tạo không chỉ với những cán bộ trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống mua bán người mà còn cả hệ thống chính trị, các đoàn thể trong đó tập trung vào hội phụ nữ, đoàn thanh niên... Thứ ba, cơ chế pháp lý phòng, chống mua bán người cần phải được vận hành lồng ghép với các chương trình mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng công tác phòng ngừa Mua bán người là hành vi không những được xác định là tội phạm mà còn phải được xác định và nhìn nhận là vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Tội phạm nảy sinh từ những vấn đề cấp bách của đời sống xã hội, từ vấn đề đói nghèo, từ động cơ mong muốn thoát nghèo, từ những nhân tố bất ổn, bất bình đẳng tồn tại trong xã hội. Do vậy, việc giải quyết nó cũng phải đi từ xã hội, giải quyết những tồn tại, vướng mắc nảy sinh trong lòng xã hội. Bên cạnh việc nâng cao dân trí, trang bị kỹ năng nhận biết, phòng tránh cũng như đầu tư cho lực lượng chuyên trách thì không thể không thể đến việc triển khai và thực hiện các chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền vững, phòng tránh các hình thức di cư không an toàn. Các quốc gia cần phối kết hợp triển khai các mô hình phòng ngừa các hành vi mua bán người và các chương trình liên kết giữa các quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế, bình đẳng giới và đẩy mạnh hoạt động giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng về tội phạm mua bán người. Tài liệu tham khảo: [1]. Đinh Bích Hà dịch (2007), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư Pháp, Hà Nội. tr.159 [2]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật phòng, chống mua bán người 2011 [3]. Bộ Tư pháp (2013), hội thảo “Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về tội mua bán người, tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em - thực trạng và kiến nghị hoàn thiện” [4]. Liên hiệp quốc (2000), Nghị định thư Phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em. [5]. Philippines/RA%209208%20-%20Anti- Traffi cking%20Law.pdf [6]. https://www.offi cialgazette.gov.ph/2013/ 02/06/republic-act-no-10364/ Địa chỉ tác giả: Trung tâm Lưu trữ và Thư viện - Học viện ANND Email: doquynh83@gmail.com
File đính kèm:
- kinh_nghiem_quoc_te_trong_xay_dung_co_che_phap_ly_phong_chon.pdf