Kinh nghiệm quốc tế trong thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Nội dung bài báo, tác giả trình bày một số chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa doanh

nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt

Nam; Thực trạng mối liên kết giữa DNNVV với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam và phân

tích kinh nghiệm của một số quốc gia như: Thái Lan, Malaysia, Chi Lê; Đề xuất một số

khuyến nghị chính sách về liên kết doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam.

pdf 16 trang kimcuc 8880
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm quốc tế trong thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm quốc tế trong thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế trong thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
 1 
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG THÚC ĐẨY 
MỐI LIÊN KẾT GIỮA DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC 
VÀ DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 
Nguyễn Mạnh Tiến1 
Văn phòng Hội đồng Chính sách KH&CN quốc gia 
Đỗ Tiến Vượng 
Trường Đại học Giao thông Vận tải 
Tóm tắt: 
Nội dung bài báo, tác giả trình bày một số chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa doanh 
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt 
Nam; Thực trạng mối liên kết giữa DNNVV với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam và phân 
tích kinh nghiệm của một số quốc gia như: Thái Lan, Malaysia, Chi Lê; Đề xuất một số 
khuyến nghị chính sách về liên kết doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam. 
Từ khóa: Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ngước ngoài; Doanh nghiệp nhỏ và vừa; Doanh 
nghiệp trong nước; Mối liên kết hợp tác; Chính sách. 
Mã số: 18062201 
1. Mở đầu 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có những đóng góp tích cực vào sự phát 
triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian gần đây và trở thành một cấu 
phần quan trọng của nền kinh tế với sự hiện diện trong 19/21 ngành của hệ 
thống phân ngành kinh tế quốc dân, có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trực 
thuộc Trung ương, chiếm 25% trong tổng đầu tư của toàn xã hội (năm 
2017), góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, 
khai thông thị trường quốc tế, phát triển cơ sở hạ tầng, khuyến khích đổi 
mới thủ tục hành chính, Tuy nhiên, hiện nay đang có sự không đồng nhất 
trong nền kinh tế giữa hai khu vực phát triển tách biệt nhau là khối doanh 
nghiệp trong nước và khối doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực 
tế cho thấy, mối liên kết, hợp tác giữa hai khu vực này sẽ không diễn ra một 
cách tự nhiên và bài viết này sẽ làm rõ nguyên nhân vấn đề, tham khảo kinh 
nghiệm quốc tế, và đưa ra một số kiến nghị giải quyết vấn đề. 
1 Liên hệ tác giả: tien16ppt@gmail.com 
2 
Trong phạm vi bài viết này, doanh nghiệp trong nước chủ yếu đề cập tới 
loại hình DNNVV vì đây là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số nên rất cần 
được quan tâm, ưu tiên hỗ trợ để có thể đóng góp nhiều hơn nữa cho nền 
kinh tế nước nhà. Doanh nghiệp FDI được hiểu là doanh nghiệp có yếu tố 
nước ngoài hoặc là chi nhánh của tập đoàn đa quốc gia (TĐĐQG) hoạt 
động trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia khác. Khái niệm về mối liên 
kết được hiểu là quá trình điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các TĐĐQG 
hoặc doanh nghiệp FDI (với vai trò là người mua) và các DNNVV trong 
nước (với vai trò là nhà cung cấp) trong một chuỗi giá trị toàn cầu. 
2. Thực trạng mối liên kết giữa DNNVV và doanh nghiệp FDI ở Việt Nam 
Chương trình thí điểm phát triển nhà cung cấp Việt Nam do Cục Công 
nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Tổ chức Tài chính quốc tế (World 
Bank) khởi động vào tháng 5/2018, triển khai trong vòng 2 năm với mục 
đích nhằm giúp các doanh nghiệp bản địa nâng cao năng lực cạnh tranh, 
thiết lập hoạt động kinh doanh với các TĐĐQG, và giúp các doanh nghiệp 
bản địa dịch chuyển lên các công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao hơn trong 
chuỗi giá trị để có thể sản xuất ra được các sản phẩm phức tạp hơn và cạnh 
tranh tốt hơn trên phạm vi toàn cầu. Chương trình có sự tham gia của 8 
TĐĐQG thuộc các ngành ô tô, điện tử, năng lượng và hàng gia dụng, gồm: 
Toyota, Ford, Panasonic, Bosch và hơn 40 nhà cung cấp bản địa được lựa 
chọn tham gia theo đề cử của các TĐĐQG và các hiệp hội ngành nghề. 
Chương trình hợp tác đào tạo chuyên gia tư vấn Việt Nam về công nghiệp 
hỗ trợ do Bộ Công Thương phối hợp với Tập đoàn Samsung Việt Nam khởi 
động vào tháng 4/2018, đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình phát 
triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. Chương trình sẽ hướng tới 
mục tiêu đào tạo 200 chuyên gia tư vấn bản địa có đủ năng lực để tư vấn và 
đào tạo lại cho các nhà cung cấp địa phương nâng cao năng lực cạnh tranh 
cho ngành công nghiệp hỗ trợ nước nhà. 
Dự án “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hướng tới thị trường châu Âu” thuộc 
khuôn khổ Dự án hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu (EU-
MUTRAP) do Liên minh châu Âu tài trợ, giai đoạn 2014-2017, được thực 
hiện bởi Trung tâm Phát triển Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ (SIDEC), 
Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (Bộ Công Thương). 
Mục tiêu của Dự án tập trung nâng cao năng lực của các nhà sản xuất linh 
phụ kiện tại Việt Nam hướng tới đáp ứng yêu cầu của thị trường châu Âu 
và quốc tế. Hàng năm, Dự án đã xuất bản cuốn niên giám về công nghiệp 
hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam, khi Dự án kết thúc (năm 2017) đã tạo 
lập được cơ sở dữ liệu với gần 200 doanh nghiệp nội địa sản xuất sản phẩm 
công nghiệp hỗ trợ thuộc 3 lĩnh vực cơ khí, điện-điện tử, nhựa và cao su. 
Đây là những doanh nghiệp tiêu biểu, đã thành công trong việc tham gia 
vào mạng lưới sản xuất của các FDI tại Việt Nam hoặc có sản phẩm xuất 
khẩu ra nước ngoài. 
 3 
Đồng thời, một số nguồn dữ liệu có chứa thông tin về các nhà cung cấp địa 
phương như một số niên giám doanh nghiệp do các hiệp hội chuyên ngành, 
công ty tư nhân hoặc tổ chức công lập xây dựng, quản lý và cập nhật thông 
tin dữ liệu thường xuyên. Ví dụ, Trang vàng Việt Nam là một trong những 
niên giám phổ biến nhất (hiện đang là sản phẩm của Tập đoàn VNPT và đã 
tồn tại 25 năm tại Việt Nam) với thông tin của hơn 250 ngàn doanh nghiệp 
lớn nhất trên toàn quốc được cung cấp miễn phí dưới dạng bản in hoặc tra 
cứu trực tuyến; danh bạ doanh nghiệp Việt Nam do VCCI quản lý cũng cho 
phép tra cứu trực tuyến hoặc đĩa CD-ROM với thông tin của trên 30 ngàn 
doanh nghiệp trên toàn quốc. 
Ngoài ra, còn có một số chương trình, dự án hỗ trợ kết nối doanh nghiệp địa 
phương với doanh nghiệp FDI do một số tổ chức quốc tế tại Việt Nam triển 
khai, như Chương trình trao đổi đối tác và thầu phụ (SPX) do UNIDO phối 
hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã sử dụng các công 
cụ chuẩn của UNIDO để hỗ trợ xây dựng mạng lưới các nhà cung cấp Việt 
Nam với các TĐĐQG ở trong và ngoài nước thuộc một số ngành, lĩnh vực 
điện-điện tử, năng lượng, kỹ thuật máy, cao su và nhựa công nghiệp; 
Chương trình huấn luyện xuất khẩu do Trung tâm Xúc tiến Nhập khẩu từ 
các nước đang phát triển của Hà Lan (CBI) hỗ trợ các doanh nghiệp địa 
phương ở Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh trong một số lĩnh vực 
sơn và mạ, chế tạo kim loại, chế biến, để có thể xuất khẩu sang các thị 
trường EU và EFTA. CBI còn có một cơ sở dữ liệu về các nhà cung cấp địa 
phương đã được kiểm chứng, huấn luyện kỹ càng bởi các chuyên gia châu 
Âu khi tiến hành kinh doanh với các đối tác ở châu Âu; gần đây, JETRO đã 
biên soạn danh sách gần 300 nhà cung cấp xuất sắc của Việt Nam để giới 
thiệu đến các doanh nghiệp FDI Nhật Bản phục vụ mục đích kết nối và hợp 
tác phát triển sản xuất. 
Một hình thức khác để kết nối các DNNVV địa phương với các doanh 
nghiệp FDI tại Việt Nam đó là tổ chức các hội chợ thương mại ở trong và 
ngoài nước để các nhà cung cấp và người mua có cơ hội gặp gỡ, trao đổi 
với nhau. Dưới góc độ cơ quan quản lý nhà nước, một số cơ quan trực 
thuộc Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Phòng Thương mại và 
Công nghiệp Việt Nam hàng năm đều có phối hợp với một số tổ chức trong 
và ngoài nước tiến hành các hội chợ thương mại về công nghiệp, sản xuất 
về các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau nhằm tạo điều kiện cho các nhà 
cung cấp địa phương và người mua có cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu cơ hội hợp 
tác. Có thể kể đến chuỗi các sự kiện gồm Vietnam Industrial & 
Manufacturing Fair, Industrial Automation Fiesta, và Robot Fiesta được 
tổ chức thường niên tại Việt Nam do Công ty TNHH Tổ chức Sự kiện 
OMG chủ trì; chuỗi các sự kiện gồm Vietnam Manufacturing Expo, 
Electronics Assembly, Metalex Vietnam được tổ chức thường niên tại 
Việt Nam bởi Reed Tradex (Thái Lan) là nhà tổ chức triển lãm hàng đầu 
của ASEAN và là thành viên của Reed Exhibitions - nhà tổ chức sự kiện 
4 
hàng đầu trên thế giới; sự kiện Triển lãm Công nghiệp hỗ trợ Việt - Nhật 
cũng được tổ chức hàng năm tại Việt Nam do JETRO phối hợp với Cục 
Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức, trong đó, các doanh 
nghiệp Nhật Bản là người mua hàng sẽ trưng bày những sản phẩm họ muốn 
mua (hội chợ thương mại ngược) trong khi nhà cung cấp địa phương là 
những người bán sẽ trưng bày các sản phẩm mà họ có thể cung cấp. 
3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới 
3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan 
Chính sách liên kết doanh nghiệp FDI và DNNVV để nâng cao hiệu suất 
của DNNVV, đặc biệt hướng tới DNNVV sản xuất trong lĩnh vực công 
nghiệp hỗ trợ là trọng tâm của chính sách công nghiệp của Thái Lan. Hai cơ 
quan chịu trách nhiệm chính trong việc này là Ủy ban Đầu tư (Board of 
Investment - BOI, thành lập năm 1966, do Thủ tướng đứng đầu) và Cục 
Phát triển Công nghiệp hỗ trợ (Bureau of Supporting Industry Development 
- BSID, thành lập năm 1994, thuộc Bộ Công nghiệp). 
BOI thành lập Ban phát triển liên kết công nghiệp (BOI Unit for Industrial 
Linkage Development - BUILD, năm 1992) để thúc đẩy và phát triển các 
ngành công nghiệp hỗ trợ, thiết lập liên kết giữa các doanh nghiệp lớn (gồm 
cả các TĐĐQG tại Thái Lan và nước ngoài) với các nhà cung ứng linh kiện 
địa phương nhằm giúp các nhà cung ứng nâng cao chất lượng sản phẩm, 
hiệu quả sản xuất và năng suất lao động, loại bỏ các trở ngại phát sinh khi 
thực hiện các hợp đồng thầu phụ. BUILD hướng tới hỗ trợ thông tin thị 
trường, dịch vụ phù hợp mà không cung cấp đặc quyền về thuế hay ưu đãi 
tài chính. 
Kết quả nổi bật của BUILD đó là Chương trình Người bán gặp Người mua 
(Vendors Meet Customers Program). Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 
1997, BUILD tiến hành tổ chức các cuộc gặp, chuyến thăm nhà máy cho 
các nhà cung cấp, doanh nghiệp lớn để tạo lập các giao dịch mới. Trong 
ngành công nghiệp ô tô có các doanh nghiệp lớn tại Thái Lan tham gia gồm 
General Motors, Mitsubishi Motors và Toyota; trong ngành công nghiệp 
điện và điện tử có các doanh nghiệp lớn tại Thái Lan tham gia gồm Fujitsu 
và Delta Electronics. Năm 2015, triển lãm thầu phụ công nghiệp lớn nhất 
ASEAN (SUBCON Thailand 2015) được tổ chức tại Trung tâm Triển lãm 
và Thương mại quốc tế Bangkok với sự tham gia của hơn 400 nhà thầu phụ 
từ Thái Lan, ASEAN và Nhật Bản; thu hút hơn 24.000 người mua trong và 
ngoài nước từ 15 quốc gia. Các thương hiệu đẳng cấp thế giới như 
Mercedes Benz, Samsung Electronics, Mitsubishi Electric, đã tham dự và 
tương tác với đại diện của các nhà cung cấp Thái Lan. 
Thêm vào đó, BUILD có trách nhiệm phát triển và phổ biến cơ sở dữ liệu 
công nghiệp hỗ trợ ASEAN (ASEAN Supporting Industry Database - 
 5 
ASID) nhằm phát triển liên kết giữa các quốc gia thành viên ASEAN và thị 
trường toàn cầu. Vào tháng 8/2017, số lượng trong ASID là 20.198 doanh 
nghiệp, trong đó có 13.534 doanh nghiệp cung cấp Thái Lan (cụ thể 1.419 
doanh nghiệp trong lĩnh vực ô tô; 1.393 doanh nghiệp trong lĩnh vực điện-
điện tử;... và 965 doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác). 
Thông qua các hoạt động này, BUILD đã gây dựng được tiếng vang tốt, trở 
thành cơ quan có tầm ảnh hưởng ở cả khu vực DNNVV và khu vực công. 
Mặc dù đạt được những thành quả nêu trên nhưng tác động các chương 
trình của BUILD vẫn còn những hạn chế về giới hạn ngân sách đầu tư và 
lĩnh vực hoạt động. 
Trong khi đó, BSID bắt đầu thúc đẩy mạnh ngành công nghiệp hỗ trợ với 
sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản đối với các hoạt động hỗ trợ và đào tạo 
kỹ thuật về công nghiệp hỗ trợ, thiết kế và phát triển sản phẩm mẫu, phát 
triển hệ thống thầu phụ. BSID tập trung chính vào công nghiệp phụ tùng ô 
tô và những ngành công nghiệp linh kiện ứng dụng trong điện, điện tử và 
chế tạo máy, đặc biệt là các sản phẩm khuôn mẫu và khuôn đúc. Chính phủ 
Nhật Bản đã hỗ trợ BSID triển khai Dự án phát triển công nghệ công cụ và 
khuôn mẫu (hỗ trợ về dữ liệu, marketing, công nghệ, xúc tiến hợp tác đầu 
tư) để phát triển ngành công nghiệp khuôn mẫu, đào tạo chuyên gia. 
Ngoài các chương trình của Chính phủ và các Hiệp hội công nghiệp, nhiều 
doanh nghiệp tư nhân Thái Lan cũng triển khai các chương trình phát triển 
nhà cung ứng, ví dụ, Viện Nghiên cứu ô tô Thái Lan (Thailand Automotive 
Institute - TAI) và Viện Nghiên cứu điện-điện tử (Electrical and Electronics 
Institute - EEI) thành lập năm 1998, thực hiện kiểm định các phụ tùng và 
nguyên liệu thô, cung cấp các dịch vụ thông tin, tư vấn và đào tạo cho các 
nhà sản xuất, đặc biệt là những nhà sản xuất trong nước. Ngoài ra, Thái Lan 
còn có nhiều cơ quan và các cơ chế hỗ trợ DNNVV địa phương và doanh 
nghiệp công nghiệp hỗ trợ, vì vậy, Văn phòng xúc tiến DNNVV đã được 
thành lập năm 2000 để điều phối nhất quán các hoạt động giữa các tổ chức 
nêu trên. 
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định đối với ngành công nghiệp hỗ 
trợ trong lĩnh vực ô tô, điện-điện tử nhưng Thái Lan vẫn còn nhiều việc 
phải làm để tăng cường các mối liên kết kinh doanh giữa DNNVV với FDI 
như vẫn cần sự hỗ trợ lâu dài để phát triển năng lực cho DNNVV hoặc nâng 
cấp chất lượng sản phẩm cho các nhà cung cấp địa phương. Mối quan hệ 
dài hạn giữa các TĐĐQG với các DNNVV đòi hỏi phải có sự đảm bảo về 
kết quả thực (tức sản phẩm của các nhà cung cấp phải có sức ảnh hưởng và 
tính cạnh tranh cao). Để có tác động lớn hơn, các chương trình liên kết giữa 
TĐĐQG với các nhà cung cấp bản địa tiềm năng cần được thành lập, kèm 
theo các ưu đãi về tài chính để các doanh nghiệp có điều kiện tích lũy kinh 
nghiệm thực tiễn, kỹ năng và công nghệ cần thiết nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa 
từ những liên kết này. 
6 
3.2. Kinh nghiệm của Malaysia 
Malaysia chú trọng tới chuyển giao công nghệ thông qua kênh FDI để tạo 
sức cạnh tranh cho DNNVV địa phương bằng cách liên kết và học hỏi từ 
các doanh nghiệp FDI có sức cạnh tranh toàn cầu đang hoạt động tại quốc 
gia này. Trên thực tế, Malaysia thúc đẩy chuyển giao công nghệ qua liên 
kết FDI dưới hình thức phát triển công nghiệp hỗ trợ từ những năm 1980 và 
1990. Sự tăng mạnh số lượng FDI vào cuối những năm 1980 nhờ vào 
nguồn đầu tư của Nhật Bản, tại thời điểm đó, do có sự tăng giá của đồng 
Yên nên nhiều doanh nghiệp điện-điện tử của Nhật Bản đã chuyển nhà máy 
từ Nhật Bản sang Malaysia và nhiều nước ASEAN khác. 
Malaysia đã triển khai một số chương trình vào cuối những năm 1980 nhằm 
phát triển liên kết giữa DNNVV với doanh nghiệp FDI, tiêu biểu là Chương 
trình phát triển nhà cung cấp, Chương trình liên kết công nghiệp đã được 
triển khai nhằm hướng dẫn DNNVV đề ra chiến lược liên minh với các tập 
đoàn đa quốc gia để có thể thu được lợi ích từ mạng lưới liên kết, công 
nghệ, đào tạo và tiếp cận thị trường. 
Chương trình phát triển nhà cung cấp được triển khai từ năm 1988 với mục 
đích thành lập các công ty “mỏ neo” hay các doanh nghiệp lớn do Chính 
phủ chỉ định để nuôi dưỡng các “nhà cung cấp” hay DNNVV cần một số hỗ 
trợ đặc biệt để phát triển. Proton là một công ty “mỏ neo” nội địa đầu tiên 
do Chính phủ chỉ định và phải mua các linh phụ kiện của các nhà cung cấp. 
Mặt khác, nhà cung cấp sẽ được hỗ trợ về kỹ thuật, quản lý từ công ty “mỏ 
neo” và hỗ trợ về tài chính từ Chính phủ. Năm 1992, hợp phần linh phụ 
kiện điện-điện tử được giới thiệu và nhiều công ty “mỏ neo” đã được chỉ 
định gồm công ty Sapura Holding, Viễn thông Malaysia, Sharp ... tham gia Chương trình cho thấy: 64% trong số họ đã thuê 
nhân viên mới tại Chi Lê; 76% đã thiết lập mối liên kết hợp tác với các 
doanh nghiệp Chi Lê; 22% đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế tại Chi Lê kể 
từ khi nhận được khoản trợ cấp. 
Một thách thức lớn đó là chỉ có khoảng 20% các doanh nghiệp khởi nghiệp 
nước ngoài tham gia còn hoạt động ở Chi Lê sau khi đáp ứng các yêu cầu 
cơ bản của khoản tài trợ. Để giải quyết vấn đề này, trong năm 2015, 
CORFO đã mở rộng Chương trình bằng cách cung cấp khoản trợ cấp khởi 
nghiệp quy mô quốc gia, vượt cao hơn mức trợ cấp ban đầu. Hơn thế nữa, 
một khoản tài trợ được bổ sung khoảng 100.000 USD dành cho những 
doanh nghiệp tốt nhất thuộc top 1% tham gia Chương trình hàng năm. 
Đồng thời, cũng cần cam kết đối ứng ít nhất 30% tổng giá trị của dự án. 
Tính đến năm 2016, Chương trình này không còn tập trung vào các lĩnh vực 
cụ thể được quan tâm hoặc cố gắng cung cấp các ưu đãi trong những ngành, 
lĩnh vực công nghệ mà Chi Lê có thế mạnh. Kết quả, một số công ty khởi 
nghiệp đã không còn gắn bó chặt chẽ với ngành công nghiệp địa phương 
như kỳ vọng và gặp nhiều khó khăn khi mở rộng quy mô. 
Như vậy, qua kinh nghiệm của Thái Lan, Malaysia và Chi Lê nêu trên có 
thể thấy rằng Thái Lan đã rất thành công trong việc liên kết giữa DNNVV 
với các FDI trong một số lĩnh vực ô tô, điện-điện tử, nhưng chưa thể lan tỏa 
sang các ngành, lĩnh vực khác do kinh phí nhà nước còn rất hạn hẹp. 
Malaysia đã gặp thất bại trong việc thúc đẩy tăng nhanh số lượng các nhà 
cung cấp bản địa khi có sự can thiệp quá sâu của Chính phủ đối với các 
FDI. Bên cạnh đó, Chi Lê cũng không thành công khi thu hút FDI liên quan 
đến R&D (đặc biệt tập trung vào khởi nghiệp) khi chưa có định hướng ưu 
tiên vào những ngành, lĩnh vực mà quốc gia có thế mạnh nên đã không đem 
lại hiệu quả cao trong việc thúc đẩy mối liên kết giữa các tổ chức trong 
nước với các doanh nghiệp FDI và nhiều chuyên gia cho rằng để các ưu đãi 
của Chính phủ có hiệu quả thì các chương trình hỗ trợ cần được kết nối với 
hệ thống đổi mới quốc gia. 
12 
4. Thực trạng mối liên kết giữa DNNVV với doanh nghiệp FDI tại 
Việt Nam 
Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp FDI đều mong muốn hợp tác với các 
doanh nghiệp trong nước để tận dụng các nguồn lực tại địa phương nhằm 
hạ giá thành sản phẩm và tối đa hóa lợi nhuận. Mối liên kết giữa doanh 
nghiệp trong nước hay nhà cung cấp bản địa với các doanh nghiệp FDI có 
thể chia làm 2 nhóm, cụ thể như sau: 
Nhóm thứ nhất gồm các doanh nghiệp địa phương đã, đang hoặc sắp trở 
thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp FDI. Đây là những doanh nghiệp 
có năng lực và ít nhiều đáp ứng được các tiêu chí theo yêu cầu của FDI về 
chất lượng sản phẩm, quy mô đơn hàng, giá cả cạnh tranh, tiến độ giao 
hàng, công nghệ tiên tiến, quản trị nội bộ. Qua khảo sát thực tế thấy rằng, 
các nhà cung cấp thuộc nhóm này đều đạt ít nhất một hoặc một số tiêu 
chuẩn về quản lý chất lượng (ISO 9000, ISO 9001), hệ thống quản lý (5S, 
Kaizen), phương pháp quản lý tiên tiến (Lean, 6 Sigma), quản lý an toàn lao 
động và sức khỏe (OHSAS 18001), quản lý môi trường (ISO 14000), quản 
lý năng lượng (ISO 50001), và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (SA 
8000). 
Việt Nam hiện có khoảng 0,35% trong tổng số gần 500.000 doanh nghiệp 
nội địa đang tham gia vào sản xuất, chế tạo trong lĩnh vực công nghiệp hỗ 
trợ (tức có khoảng 1.750 doanh nghiệp). Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp 
trong nước có đủ khả năng trở thành nhà cung cấp cho các FDI hoặc có khả 
năng xuất khẩu cho các đối tác ở nước ngoài chỉ chiếm khoảng 30% trong 
tổng số 1.750 doanh nghiệp này, tương ứng khoảng hơn 500 doanh nghiệp 
hoặc nhà cung cấp nội địa. Về cơ bản, những doanh nghiệp nội địa này đều 
có đủ năng lực cần thiết trước khi hợp tác, liên kết với các FDI (công ty đầu 
chuỗi hoặc doanh nghiệp ở nước ngoài), điển hình như Công ty TNHH 4P, 
Công ty Sản xuất Điện tử Thành Long, Tập đoàn Hà Yến, Công ty Cổ phần 
Nhựa Hà Nội, Công ty Cổ phần Nhựa 3H, Công ty Cổ phần INNOTEK, 
Công ty Cổ phần sản xuất thương mại LeGroup, 
Nhóm thứ hai gồm những doanh nghiệp còn lại ở địa phương (chiếm đa số) 
chưa có đủ khả năng liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp FDI nên có thể 
nhận xét rằng, mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh 
nghiệp FDI còn rất mờ nhạt. Nguyên nhân có thể kể đến: 
Nhiều doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã nhận xét rằng, họ gặp khó khăn 
trong việc tìm kiếm các đối tác nội địa phù hợp vì giữa họ và các nhà cung 
cấp nội địa có sự khác biệt lớn về trình độ công nghệ và yêu cầu về tiêu 
chuẩn đặt ra. Đồng thời, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam (từ nhân lực 
quản lý đến lao động có tay nghề kỹ thuật cao) đang là khâu yếu và thiếu tại 
Việt Nam, chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI nên phần 
lớn các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp hoặc sản xuất giản 
đơn mà không ưu tiên thiết lập các trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam. 
 13 
Một số chương trình chính sách hỗ trợ được xây dựng với mục tiêu không 
rõ ràng nên ít nhiều đã ảnh hưởng tới hoạt động giám sát và đánh giá, thậm 
chí có những chương trình hỗ trợ của Nhà nước không có kế hoạch giám 
sát, đánh giá đã làm dấy lên các quan ngại về sự thiếu khách quan, minh 
bạch và có thể dẫn tới sự sụt giảm số lượng DNNVV đăng ký tham gia. Cơ 
chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong nhiều chương trình hỗ trợ 
DNNVV đã xuất hiện một số hạn chế như có sự trùng lặp về đối tượng, 
mục tiêu, và thậm chí cả nội dung. Do vậy, có nhiều chương trình hỗ trợ 
nhưng chưa có sự liên kết, bổ trợ cho nhau, còn thiếu những chương trình 
hỗ trợ nâng cao năng lực cho DNNVV, do vậy năng lực và tầm nhìn của 
nhiều DNNVV vẫn còn rất hạn chế. 
Rất nhiều FDI khi đầu tư vào Việt Nam, ngoài việc gặp thuận lợi về giá 
nhân công rẻ, ưu đãi tài nguyên và ưu đãi thuế, họ cũng gặp không ít khó 
khăn khi thiếu các thông tin có đủ mức độ tin cậy về các nhà cung cấp địa 
phương có thể đáp ứng các yêu cầu cơ bản về chất lượng, giá cả, số lượng 
và thời hạn giao hàng và năng lực chi tiết của nhà cung cấp như mức độ 
công nghệ hoặc trang thiết bị máy móc, đối tác hiện tại, quy chuẩn tiêu 
chuẩn nên phần nào cũng đã phát sinh thời gian, chi phí tìm kiếm cho các 
FDI trong việc thiết lập các mối liên kết với các nhà cung cấp bản địa. 
Thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không nghiêm túc đã tạo ra sự e 
ngại nhất định cho các TĐĐQG trong việc chia sẻ bí quyết hoặc tiến hành 
chuyển giao công nghệ cho các nhà cung cấp bản địa. Đồng thời, việc 
không nghiêm túc thực hiện các cam kết trong hợp đồng tại nước bản địa 
cũng đã khiến các TĐĐQG không mặn mà trong đào tạo kỹ năng, nâng cao 
năng lực bổ trợ cho các đối tác hoặc người lao động bản địa, vì sau khi đào 
tạo xong sẽ rất dễ bị mất đối tác, người lao động về tay các đối thủ cạnh 
tranh. Chính điều này đã phần nào tạo ra khoảng cách liên kết giữa các 
doanh nghiệp bản địa với các doanh nghiệp FDI. 
5. Một số khuyến nghị về chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp 
FDI và DNNVV tại Việt Nam 
Qua thực trạng mối liên kết giữa DNNVV với doanh nghiệp FDI tại Việt 
Nam được trình bày trên đây và nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc 
gia trên thế giới trong việc thúc đẩy liên kết giữa DNNVV với doanh 
nghiệp FDI, chúng ta có thể rút ra một số đề xuất, kiến nghị như sau: 
Trước tiên, phải khẳng định rằng để các doanh nghiệp FDI hòa hợp vào 
nền kinh tế nước nhà với khối doanh nghiệp trong nước thì các cơ quan 
quản lý nhà nước có liên quan phải rất chủ động trong việc ban hành các 
chính sách thúc đẩy liên kết (cung cấp những cơ hội, ưu đãi cho DNNVV 
liên kết, hợp tác với các FDI), bởi việc này không diễn ra một cách tự nhiên 
và đặc biệt các doanh nghiệp trong nước phải rất nghiêm túc trong việc tích 
lũy năng lực, gây dựng uy tín và thương hiệu trên thị trường nội địa nói 
riêng và thị trường quốc tế nói chung. 
14 
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nước và các 
doanh nghiệp FDI đang được thực thi bởi một số cơ quan quản lý nhà nước 
khác nhau nên chưa có sự đồng bộ về các chính sách, cơ chế giữa hai loại 
đối tượng này. Vì vậy, để có thể thu hẹp khoảng cách giữa doanh nghiệp 
trong nước với doanh nghiệp FDI thì những cơ quan quản lý này cũng cần 
phải xem xét tổ chức lại thành một thể thống nhất, hoặc có một cơ quan đầu 
mối điều phối chung các hoạt động này, nhằm tránh tình trạng mỗi loại hình 
doanh nghiệp khác nhau lại được hưởng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ 
quá khác nhau. 
Thứ ba, chúng ta đang có rất nhiều sự kiện, hội nghị với mục đích và nội 
dung tương tự nhau như hội nghị xúc tiến đầu tư và hội nghị xúc tiến 
thương mại được triển khai khá rầm rộ và chi phí không nhỏ do các cơ quan 
trung ương thực hiện; cũng như có nhiều sự kiện hội nghị với mục đích, ý 
nghĩa và bản chất gần giống nhau do một số đơn vị quản lý nhà nước triển 
khai cần phải rà soát, đánh giá một cách tổng thể để giảm bớt sự trùng lặp 
và tăng tính hiệu quả cao hơn, giành nguồn lực tập trung cho những hoạt 
động có ý nghĩa chưa được triển khai như triển lãm thầu phụ, hội nghị xúc 
tiến thầu phụ, chương trình chuyên gia tư vấn doanh nghiệp. 
Thứ tư, thực tế cho thấy các quốc gia có nguồn nhân lực trình độ thấp chỉ 
có thể thu hút công nghệ FDI cấp thấp, ngược lại, quốc gia có nguồn nhân 
lực trình độ cao có thể thu hút một lượng lớn các công nghệ kiến thức 
chuyên sâu từ FDI. Một chính sách đúng đắn để cải thiện chất lượng giáo 
dục và chất lượng nguồn nhân lực sẽ tăng cường khả năng hấp thụ để tạo ra 
tăng trưởng bền vững. Do đó, chính sách giáo dục và đào tạo sẽ là chìa 
khóa để tạo được nguồn cung lao động có chất lượng ở nước bản địa để thu 
được những lợi ích từ sự lan tỏa của FDI. 
Thứ năm, một yếu tố khác sẽ giúp tăng khả năng liên kết giữa DNNVV với 
các FDI hay để các FDI không ngần ngại mang theo các công nghệ tiên tiến 
khi đầu tư vào Việt Nam thì chúng ta phải thực thi nghiêm túc việc bảo hộ 
quyền sở hữu công nghiệp. Việc này chắc chắn sẽ giúp các đối tác và người 
lao động bản địa có được cơ hội tiệm tiến gần hơn đến các FDI, đồng thời, 
khuyến khích các tác giả, nhà nghiên cứu đưa ra các sản phẩm, kết quả nghiên 
cứu có giá trị cao. 
Thứ sáu, các doanh nghiệp trong nước cần phải tham gia vào chuỗi giá trị 
toàn cầu của các TĐĐQG và cần xác định rõ các doanh nghiệp trong nước 
sẽ tham gia vào khâu nào trong chuỗi giá trị đó và cần làm gì để đáp ứng 
các yêu cầu của các TĐĐQG (người mua), từ đó dần khẳng định vai trò, vị 
thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, 
việc tập trung phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ là rất cần thiết vì đây 
chính là ngành công nghiệp then chốt, bởi chỉ khi doanh nghiệp trong nước 
làm chủ về công nghệ để sản xuất được những linh kiện nhỏ nhất, đáp ứng 
chuẩn quốc tế thì chúng ta mới có thể hy vọng tiến tới làm ra sản phẩm 
hoàn chỉnh. 
 15 
Thứ bảy, chú ý tới giải pháp nhân rộng, tạo sự lan tỏa từ những nhà cung 
cấp trong nước đã tạo lập liên kết thành công với FDI, giải quyết những hạn 
chế của nhà cung cấp trong nước nhờ sự hỗ trợ của FDI (là công ty đầu 
chuỗi hoặc nhà cung cấp cấp 1 của công ty đầu chuỗi), như trường hợp của 
Công ty TNHH 4P, Công ty Cổ phần Nhựa Hà Nội, Công ty Cổ phần 
INNOTEK, Công ty Cổ phần sản xuất thương mại LeGroup, là những 
trường hợp tiêu biểu đại diện cho phương pháp liên kết bottom-up (từ dưới 
lên) nhằm khẳng định vai trò của khu vực tư nhân đã thành công khi chủ 
động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc thiếu sự nhân rộng những 
trường hợp điển hình thành công trong việc thúc đẩy mối liên kết này cho 
thấy, chúng ta cần phải có một lộ trình chính sách có tổ chức hơn để đạt 
được sự lan tỏa nhất định. 
Thứ tám, trên cơ sở triển khai thí điểm Chương trình thí điểm phát triển 
nhà cung cấp (nêu trên) và sẽ có đánh giá của chương trình này trong 2 năm 
tới, Việt Nam nên có một chương trình kết nối chính thức các nhà cung cấp 
bản địa với các FDI (hay còn gọi là Chương trình phát triển nhà cung cấp) 
với một số gợi suy: (i) Thời hạn chương trình nên được xem xét mỗi giai 
đoạn tối thiểu là 10 năm để ổn định thời gian triển khai khi các văn bản 
hướng dẫn quản lý chương trình, định mức kinh tế-kỹ thuật thường mất một 
khoảng thời gian nhất định để có thể vận hành được; (ii) Thành lập Ban chỉ 
đạo liên ngành sản xuất các linh phụ kiện đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để xác 
định rõ vai trò, quyền hạn, trách nhiệm và giải quyết bài toán phối hợp 
không nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; (iii) Xây 
dựng và phát triển cơ sở dữ liệu nhà cung cấp trong nước đáp ứng các tiêu 
chí tìm kiếm thông tin của các FDI (người mua sản phẩm) và có sự phân 
loại, xếp hạng các doanh nghiệp bản địa để các nhà cung cấp bản địa biết 
mình đang ở thứ hạng nào để có chiến lược phát triển phù hợp hơn; (iv) 
Nâng cao năng lực cho đội ngũ quản lý của cơ quan chủ trì và một số cơ 
quan khác có liên quan trong vận hành, điều phối chương trình; (v) Cung 
cấp các gói giải pháp hỗ trợ liên kết và nâng cao năng lực, ví dụ gói hỗ trợ 
lãi suất tài chính trong một khoảng thời gian, gói dịch vụ kết nối người mua 
và người bán, gói hỗ trợ nhà cung cấp cắt giảm chi phí sản xuất, gói hỗ trợ 
kỹ thuật đặc biệt của các FDI (người mua) cho các nhà cung cấp trong 
nước tham gia chương trình. 
Thứ chín, khuyến khích tư nhân xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu trực 
tuyến chất lượng cao (cung cấp các thông tin chung, thông tin chi tiết về 
năng lực sản xuất, phân loại và xếp hạng, dữ liệu cập nhật thường xuyên) 
trong những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh để từ 
đó tạo được sự lan tỏa nhất định sang những ngành, lĩnh vực khác. 
6. Kết luận 
Với mục đích thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các 
doanh nghiệp FDI và hướng tới mục đích nâng cao năng lực công nghệ cho 
16 
doanh nghiệp trong nước trên cơ sở liên kết với các FDI thì điều cốt lõi vẫn 
là đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực doanh nghiệp, điều mà 
không một quốc gia nào có thể thiếu nếu muốn tăng trưởng và phát triển 
bền vững. Vì vậy, việc chú trọng phát triển nguồn nhân lực theo hướng 
chuyên môn hóa, tập trung đào tạo đội ngũ chuyên gia, nhân lực có tay 
nghề kỹ thuật, trình độ quản lý tiên tiến để có thể chủ động hợp tác, sẵn 
sàng nắm bắt cơ hội và hấp thụ các kiến thức ở trình độ cao. Chính nguồn 
nhân lực có trình độ, kỹ năng lao động khi làm việc tại các DNNVV sẽ thúc 
đẩy mối liên kết và duy trì quan hệ hợp tác kinh doanh với các FDI./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Girma, S., 2005. Absorptive Capacity and Productivity Spillovers from FDI: A 
Threshold Regression Analysis. Oxford Bulletin of Economics & Statistics. 
2. Chaiyuth Punyasavatsut, 2008. SMEs in Thai Manufacturing Industry: Linking with 
MNEs. 
3. UNCTAD Secretariat, 2013. Strengthening Linkages Between Domestic and Foreign 
Direct Investment in Africa. 
4. Kenichi Ohno, 2014. An Approach Middle Income Trap - How Vietnam Can Escape It. 
5. Thailand Board of Investment, 2015. “BOI changing with the Times”, 
6. José Guimón, Cristina Chaminde, 2017. Policies to Attract R&D-related FDI in Small 
Emerging Countries: Aligning Incentives with Local Linkages and Absorptive 
Capacities in Chile. 

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_quoc_te_trong_thuc_day_moi_lien_ket_giua_doanh_n.pdf