Kinh nghiệm quốc tế trong lựa chọn công nghệ nhập khẩu ngành cơ khí chế tạo và giải pháp cho Việt Nam

Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hiện nay Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ xuất khẩu liên

quan đến ngành công nghiệp cơ khí đứng tốp đầu châu lục. Tuy nhiên, để

có được những thành tựu trên, Hàn Quốc đã phải trải qua những giai đoạn

xoay xở, tìm kiếm con đường phát triển như Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết của Reinhard Drifte (Reinhard Drifte, 1997), do xuất phát

điểm có nền công nghiệp nhỏ và vừa yếu kém, Hàn Quốc cũng từng phải

đưa ra những chính sách phát triển công nghệ thông qua việc nhập khẩu

nhiều công nghệ từ nước ngoài, các chính sách đầu tiên được học tập theo

kinh nghiệm của Nhật Bản. Trong ngành cơ khí chế tạo, nhiều công nghệ

được du nhập bên ngoài từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, để thích ứng

và phù hợp với điều kiện phát triển đặc thù của mình, Hàn Quốc cũng phải

dần thay đổi, điều chỉnh các chính sách và tiêu chí lựa chọn công nghệ cần

nhập khẩu. Cụ thể, việc lựa chọn công nghệ nhập đã được định hướng từ rất

sớm bằng các hệ thống tiêu chuẩn bám sát mục tiêu phát triển của đất nước

và phải dựa trên luật pháp.

pdf 21 trang kimcuc 7060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh nghiệm quốc tế trong lựa chọn công nghệ nhập khẩu ngành cơ khí chế tạo và giải pháp cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm quốc tế trong lựa chọn công nghệ nhập khẩu ngành cơ khí chế tạo và giải pháp cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế trong lựa chọn công nghệ nhập khẩu ngành cơ khí chế tạo và giải pháp cho Việt Nam
 17 
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG LỰA CHỌN 
CÔNG NGHỆ NHẬP KHẨU NGÀNH CƠ KHÍ CHẾ TẠO 
VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM 
Đỗ Đức Nam1 
Văn phòng Hội đồng Chính sách KH&CN quốc gia 
Vũ Lê Huy 
Đại học Bách Khoa Hà Nội 
Tóm tắt: 
Bài báo tập trung phân tích các kinh nghiệm trong vấn đề nhập khẩu và lựa chọn công 
nghệ nhập khẩu để phát triển ngành cơ khí chế tạo của một số quốc gia có xuất phát điểm 
và lịch sử phát triển tương đồng với Việt Nam như Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Trên 
cơ sở các bài học kinh nghiệm để đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp trong vấn đề 
phát triển công nghệ dựa trên nền tảng lựa chọn công nghệ nhập khẩu phù hợp cho ngành 
cơ khí chế tạo của Việt Nam. 
Từ khóa: Công nghệ; Nhập khẩu công nghệ; Cơ khí chế tạo; Lựa chọn công nghệ nhập 
khẩu. 
Mã số: 18052901 
1. Mở đầu 
Công nghệ là yếu tố hàng đầu và cốt lõi để phát triển nền công nghiệp sản 
xuất của một quốc gia, là chìa khoá thành công của nhiều ngành, lĩnh vực. 
Với một đất nước đang trong thời kỳ phát triển công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa như Việt Nam, công nghệ sản xuất ngành cơ khí chế tạo là vấn đề nền 
tảng, chủ chốt và được quan tâm hàng đầu. Trong bối cảnh trình độ công 
nghệ nội sinh trong nước còn kém phát triển so với mặt bằng chung của các 
nước trong khu vực và trên thế giới, việc nhập khẩu công nghệ từ nước 
ngoài có một vai trò quan trọng, thúc đẩy sự phát triển của khoa học và 
công nghệ (KH&CN), tạo điều kiện cho các cơ sở nghiên cứu và doanh 
nghiệp có thể tiếp cận nhanh chóng với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, 
góp phần thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển. 
Các quốc gia có nền công nghiệp cơ khí phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan 
hay Thái Lan, mặc dù khởi điểm là các nước nhập khẩu công nghệ, 
1 Liên hệ tác giả: namdoduc@ncstp.gov.vn 
 nhưng những thành tựu và kinh nghiệm của các quốc gia này rất đáng để 
Việt Nam học tập. Từ những phân tích, bài báo cũng rút ra những bài học 
để đề xuất những giải pháp và khuyến nghị trong việc lựa chọn công nghệ 
nhập khẩu phù hợp cho phát triển ngành cơ khí chế tạo của Việt Nam. 
2. Bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới 
2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 
Hiện nay Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ xuất khẩu liên 
quan đến ngành công nghiệp cơ khí đứng tốp đầu châu lục. Tuy nhiên, để 
có được những thành tựu trên, Hàn Quốc đã phải trải qua những giai đoạn 
xoay xở, tìm kiếm con đường phát triển như Việt Nam hiện nay. 
Trong bài viết của Reinhard Drifte (Reinhard Drifte, 1997), do xuất phát 
điểm có nền công nghiệp nhỏ và vừa yếu kém, Hàn Quốc cũng từng phải 
đưa ra những chính sách phát triển công nghệ thông qua việc nhập khẩu 
nhiều công nghệ từ nước ngoài, các chính sách đầu tiên được học tập theo 
kinh nghiệm của Nhật Bản. Trong ngành cơ khí chế tạo, nhiều công nghệ 
được du nhập bên ngoài từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, để thích ứng 
và phù hợp với điều kiện phát triển đặc thù của mình, Hàn Quốc cũng phải 
dần thay đổi, điều chỉnh các chính sách và tiêu chí lựa chọn công nghệ cần 
nhập khẩu. Cụ thể, việc lựa chọn công nghệ nhập đã được định hướng từ rất 
sớm bằng các hệ thống tiêu chuẩn bám sát mục tiêu phát triển của đất nước 
và phải dựa trên luật pháp. 
Bảng 1: Sáu đạo luật chính của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia Hàn Quốc 
Luật Năm Mô tả ngắn 
Đạo luật tiêu chuẩn hóa công nghiệp 1961 Tiêu chuẩn quốc gia Hàn Quốc (KS) 
Đạo luật về đo lường 1961 Pháp luật về đo lường 
Đạo luật quản lý chất lượng các sản 
phẩm công nghiệp 
1967 Hệ thống đánh giá chất lượng sản phẩm 
Đạo luật kiểm soát an toàn thiết bị 
điện 
1974 Đánh giá sự an toàn của các thiết bị điện 
Đạo luật khung về tiêu chuẩn quốc gia 1999
Quản lý và điều phối hệ thống tiêu chuẩn 
quốc gia 
Đạo luật khung về an toàn sản phẩm 2010
Quản lý và vận hành hệ thống an toàn sản 
phẩm quốc gia 
Nguồn: www.standards.gov 
Bảng 1 thể hiện sáu đạo luật chính của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia của Hàn 
Quốc. Bộ Công nghệ và Tiêu chuẩn Hàn Quốc (KATS) chịu trách nhiệm về 
cả sáu luật, có nghĩa là KATS là cơ quan chính phủ quan trọng nhất trong 
việc xây dựng chương trình tiêu chuẩn quốc gia của Hàn Quốc. Dựa trên các 
 19 
bộ luật này, Hàn Quốc đã định hướng lựa chọn công nghệ nhập khẩu của 
mình để đáp ứng mục tiêu phát triển nền công nghiệp trong đó có ngành cơ 
khí xuyên suốt quá trình phát triển đất nước qua các giai đoạn. 
Chính sách nhập khẩu và tiêu chí lựa chọn công nghệ nhập khẩu của Hàn 
Quốc được thực hiện và sửa đổi qua các giai đoạn sau (Graham R. Mitchell, 
1997; Sungchul Chung, 2010; Keun Lee, 2013; OECD, 2014). 
a) Giai đoạn 1960-1970 
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình mở cửa hội nhập quốc tế của Hàn 
Quốc. Những năm 1960, Hàn Quốc với tổng sản phẩm quốc dân GNP rất 
thấp (chỉ có 2,7 tỉ USD năm 1962, tương đương với thu nhập bình quân đầu 
người là 87 USD), họ không đủ lực để mua công nghệ từ nước ngoài. Ban 
đầu, việc hạn chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cũng 
khiến Hàn Quốc gặp khó khăn trong việc sở hữu được các công nghệ có 
bản quyền. Trước tình hình đó, Chính phủ Hàn Quốc đã lựa chọn chính 
sách vay nợ nước ngoài dài hạn để đầu tư cho phát triển công nghiệp, dẫn 
đến việc phải nhập khẩu hàng loạt công nghệ cần thiết và góp phần hình 
thành nên các tập đoàn kinh doanh “Chaebol”. Với chính sách này, các 
doanh nghiệp Hàn Quốc được hưởng nhiều lợi thế khi làm việc với các 
công ty nước ngoài. Họ được cung cấp công nghệ, vật liệu, kinh nghiệm 
quản lý chất lượng của các dây chuyền từ đầu vào đến đầu ra, qua đó học 
được cách sắp xếp quản lý dây chuyền sản xuất thiết bị gốc OEM (Original 
Equipment Manufacturing). Tuy nhiên, trình độ công nghệ của Hàn Quốc 
vẫn hoàn toàn bị phụ thuộc vào sự chuyển giao công nghệ từ bên ngoài (chủ 
yếu là Hoa Kỳ và Nhật Bản). Dù vậy, số vốn đầu tư nước ngoài FDI, bản 
quyền công nghệ nước ngoài FL (Foreign Licensing) và tư liệu sản xuất đã 
tăng gấp nhiều lần so với giai đoạn 1962-1966 (Bảng 2), nhưng FDI lại có 
rất ít tác động đến việc nhập khẩu và chuyển giao công nghệ, chỉ chiếm 
3,9% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong khi các nước khác là 10-20% (theo 
báo cáo của Liên Hợp quốc) (Sungchul Chung, 2010). 
Vào thời gian này, Chính phủ Hàn Quốc cũng đồng thời xây dựng những 
bước đi cơ bản cho sự phát triển của KH&CN. Cụ thể, họ ban hành đạo luật 
khuyến khích phát triển khoa học công nghệ và giáo dục kỹ thuật trong năm 
1967. Cũng trong năm đó, thành lập Viện Nghiên cứu về KH&CN Hàn 
Quốc (KIST) và một năm sau thành lập Bộ KH&CN (MOST) có chức năng 
trong việc xây dựng chính sách phát triển KH&CN cho phát triển đất nước. 
Trong năm 1970, chính phủ ban hành đạo luật cho phép thành lập Viện 
Khoa học Công nghệ cao Hàn Quốc, đặt nền móng cơ bản cho sự ra đời của 
Viện Khoa học công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIS) mà bây giờ gọi là 
(KAIST). KAIS giúp mang hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ về Hàn Quốc, 
góp phần tiếp nhận và đồng hóa công nghệ từ nước này. 
 Bảng 2: Chuyển giao công nghệ của Hàn Quốc qua các giai đoạn 
Đơn vị: triệu USD 
Giai đoạn Từ năm - đến năm FDI FL Hàng hóa 
1960-1970 
1962-1966 45,4 0,8 316 
1967-1971 218,6 16,3 2541 
1971-1980 
1972-1976 879,4 96,5 8841 
1977-1981 720,6 451,4 27978 
1981-1990 1982-1986 1766,5 1184,9 86718 
Nguồn: Văn phòng thống kê quốc gia Hàn Quốc 
Trong giai đoạn từ 1960-1970, Hàn Quốc nghèo nàn về tài nguyên và thiếu 
hụt nhân lực, do đó họ tập trung vào nhập khẩu những công nghệ sản xuất 
ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, thực phẩm để phục vụ xuất khẩu sản 
phẩm trong ngắn hạn. Do không đủ nhân lực có trình độ, công nghệ được 
nhập về hoàn toàn phụ thuộc vào bên nước đối tác hướng dẫn thông qua sổ 
tay ký kết. Trong thời gian này, các tiêu chuẩn nhập khẩu công nghệ ngành 
cơ khí chế tạo chỉ là tiêu chuẩn cho nhập máy móc và công nghệ đi kèm với 
giá thành rẻ phục vụ sản xuất nhằm mục đích mang lại việc làm cho người 
lao động và nguồn vốn cơ bản cho nền kinh tế. Việc nhập khẩu công nghệ 
lúc bấy giờ chưa phổ biến, nhưng chính phủ vẫn có những chính sách nhằm 
khuyến khích nhập khẩu công nghệ từ những nước phát triển để nâng cao 
trình độ công nghệ và phục vụ sản xuất để xuất khẩu. 
b) Giai đoạn 1971-1980 
Bắt đầu những năm 1970, Hàn Quốc chuyển mục tiêu phát triển cho công 
nghiệp máy móc và hóa học bằng cách tăng cường vốn đầu tư và công 
nghệ. Để thúc đẩy việc mua bản quyền công nghệ (FL) với máy móc hạng 
nặng, chính phủ đã thành lập ra hàng loạt các tổ chức, viện nghiên cứu như: 
Học viện Máy móc và Vật liệu Hàn Quốc (KIMM), Viện Nghiên cứu Tiêu 
chuẩn và Công nghệ Hàn Quốc (KRISS), Viện Nghiên cứu Năng lượng 
Hàn Quốc (KIER), Các viện này phải kết hợp với các doanh nghiệp tư 
nhân để xây dựng nền móng cho công nghiệp phát triển. 
Thời gian này, việc mua công nghệ theo con đường không chính thức đóng 
vai trò quan trọng và phổ biến hơn so với con đường chính thức. Số liệu ở 
Bảng 2 cho thấy việc nhập khẩu công nghệ tăng lên nhanh chóng, trong khi 
tỷ lệ đầu tư nước ngoài FDI có xu hướng giảm. Điều này nói lên chính sách 
thu hút công nghệ của Chính phủ Hàn Quốc được quan tâm hơn, đồng thời, 
vẫn đảm bảo tự chủ nguồn vốn trong nước. 
Cách thức tiếp cận với công nghệ của Hàn Quốc giai đoạn này có cả mặt 
tích cực và cả mặt hạn chế. Mặt tích cực là giúp đất nước mua được công 
nghệ với giá rẻ, tránh được những rào cản từ các công ty đa quốc gia đối 
 21 
với doanh nghiệp trong nước trong việc phát triển năng lực công nghệ của 
họ, đồng thời, giúp Hàn Quốc duy trì được sự độc lập đối với các tập đoàn 
đa quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách này khiến Hàn Quốc hạn 
chế hơn khả năng được tiếp cận với công nghệ mới thông qua liên kết trực 
tiếp với các hãng nước ngoài. Việc hạn chế vốn đầu tư nước ngoài FDI 
cũng khiến Hàn Quốc thất bại trong việc đưa tiêu chuẩn toàn cầu vào nền 
sản xuất trong nước. Một trong những bài học quan trọng ở đây là nếu 
không có lực lượng lao động được đào tạo tốt thì Hàn Quốc không thể nào 
thành công trong việc tiếp cận công nghệ theo đường không chính thức. 
Nhằm tăng cường nhập khẩu công nghệ, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 
những thay đổi trong chính sách như cho phép áp mức thuế thấp. Năm 
1972, đưa ra điều luật phát triển công nghệ và một năm sau tiến hành sửa 
đổi đạo luật để khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời, việc 
giảm những tiêu chuẩn cần thiết để thúc đẩy nhập khẩu công nghệ và vẫn 
duy trì nhập khẩu công nghệ từ những nước phát triển. Công nghệ chủ yếu 
áp dụng trong sản xuất là phục vụ việc lắp ráp, đóng gói sản phẩm. Việc 
mua lại máy móc, chuyển đổi kỹ thuật hoặc đào tạo kỹ sư để vận hành 
những dây chuyền công nghệ trong thời gian này thường theo con đường 
không chính thức. Tuy nhiên, với mục tiêu khuyến khích phát triển và làm 
chủ công nghệ trong nước nên Hàn Quốc vẫn xúc tiến hạn chế nhập khẩu 
máy công cụ, giảm từ 73% năm 1974 xuống còn 39% vào năm 1981, nhờ 
vậy Hàn Quốc bước đầu đã có thể tự phát triển các sản phẩm công nghệ của 
mình. Đến năm 1979, Hàn Quốc đã trở thành quốc gia lớn thứ 10 về sản 
xuất máy công cụ trên thế giới. 
c) Giai đoạn 1981-1990 
Cũng trong số liệu từ Bảng 2 cho thấy, Chính phủ Hàn Quốc đã có những 
chính sách mở cửa hơn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có thể 
giải thích là do việc tiếp nhận công nghệ theo đường không chính thức ngày 
càng khó khăn, do vậy, chính phủ phải thu hút công nghệ bằng cách cho 
phép tăng cường các công ty nước ngoài đầu tư vào Hàn Quốc nhằm mang 
nhiều hơn công nghệ mới về cho đất nước. 
Năm 1981, chính phủ đưa ra hệ thống đăng kí viện nghiên cứu dành cho tư 
nhân, với chính sách không thu thuế, đồng thời, cắt giảm thuế cho việc tìm 
kiếm và nghiên cứu công nghệ ở các viện này. Năm 1985, để khuyến khích 
thành lập các viện nghiên cứu với quy mô nhỏ, chính phủ Hàn Quốc đã 
giảm số thành viên yêu cầu từ 10 xuống 5. Đồng thời, cho phép thành lập 
các viện nghiên cứu ở nước ngoài nhằm tiếp cận các công nghệ mới nhất 
trên thế giới để đưa về Hàn Quốc. Kết quả là số lượng công nghệ nội sinh 
bắt đầu tăng, tỉ lệ nhập khẩu công nghệ giảm mạnh từ 90% năm 1975 
xuống còn 30% giữa những năm 1980. 
Từ năm 1980 đến 1990, các công ty Hàn Quốc nhập khẩu công nghệ với 
mục đích bắt chước, tái hiện lại công nghệ, họ đầu tư mạnh vào việc học 
 hỏi các công nghệ nhập này nhằm nâng cao trình độ và thị phần trong 
ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Để hỗ trợ việc lựa chọn công nghệ nhập, 
Hàn Quốc đã đưa ra hệ thống xét duyệt và phê chuẩn tự động trong nhập 
khẩu công nghệ thay thế hệ thống báo cáo cũ vào năm 1984. Chính phủ 
Hàn Quốc cũng phê chuẩn hệ thống áp dụng hạn chế nhập khẩu đối với 
máy công cụ có thể sản xuất được trong nước. Chính sách này cho phép 
Hiệp hội Các nhà sản xuất Máy Công cụ được quy định loại máy công cụ 
nào có thể được sản xuất tại nội địa và loại nào được nhập khẩu. Ví dụ, máy 
tiện nhỏ hơn một kích thước nhất định phải được cung cấp từ các nguồn 
trong nước. Vì giới hạn kích thước lớn, phần lớn máy tiện điều khiển bằng 
máy tính CNC (Computer Numerical Control) không thể được nhập khẩu. 
Kết quả là nhập khẩu máy tiện CNC giảm từ 85% năm 1981 xuống còn 
31% năm 1982. 
Từ tháng 12 năm 1990, Hàn Quốc chính thức tham gia vào Tổ chức Hợp 
tác và Phát triển Kinh tế (OECD) gồm những quốc gia phát triển như Hoa 
Kỳ, Vương quốc Anh, Nhật Bản, Trong giai đoạn này, Hàn Quốc ưu tiên 
hợp tác với Hoa Kỳ trong chiến lược phát triển nền công nghiệp của mình, 
do đó, công nghệ cơ khí chế tạo cũng chủ yếu được nhập từ Hoa Kỳ, tuy 
nhiên vẫn duy trì thị trường Nhật Bản. Các hãng của Hàn Quốc bắt đầu xây 
dựng những trung tâm nghiên cứu ở nước ngoài nhằm tiếp cận và lựa chọn 
được những công nghệ mới nhất trên thị trường và hỗ trợ việc chuyển giao 
công nghệ. Đồng thời, từ việc nhập khẩu chi tiết, máy móc, công nghệ phục 
vụ cho ngành công nghiệp nặng qua con đường không chính thức họ đã 
chuyển sang việc nhập khẩu những chi tiết, máy móc, công nghệ cao qua 
con đường hợp tác cùng phát triển. 
d) Giai đoạn 1991-2000 
Hàn Quốc vẫn tập trung việc mua và làm chủ những công nghệ, máy móc 
tiến bộ nhất trên thế giới, chủ yếu là từ những nước phát triển như Hoa Kỳ, 
Nhật Bản, mở rộng tìm kiếm những công nghệ mới từ những thị trường 
khác như Liên bang Nga, Trung Quốc. Theo báo cáo của Văn phòng Cấp 
phát Bằng sáng chế của Liên bang Nga, từ tháng 10/1993 đến đầu những 
năm 1994, các công ty Hàn Quốc đã tiếp nhận 365 bằng sáng chế công 
nghệ của Liên bang Nga, trong đó có 31 ứng dụng trong công nghệ máy 
móc và kim loại. Các công ty tiếp nhận bằng sáng chế bao gồm 22 tập đoàn 
kinh doanh (Chaebol), 14 hãng kinh doanh vừa và nhỏ và 5 viện nghiên 
cứu. Các công nghệ cơ khí chế tạo được nhập khẩu lúc này liên quan đến 
vật liệu, thiết kế và quản lý sản xuất, cũng như quan tâm đến những sản 
phẩm công nghệ cao. Với sự tiếp nhận hàng loạt bằng sáng chế dẫn đến sự 
ra đời của bộ phận quản lý bằng sáng chế trong một số Chaebol. 
Trong giai đoạn này nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với khủng hoảng tiền 
tệ và chính sách cải tổ toàn bộ nền kinh tế của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). 
Trong bối cảnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra gói kích cầu kinh tế, 
 23 
hoàn toàn mở cửa về thị trường, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và nhập khẩu 
hàng hóa từ nư ...  công nghệ để thúc đẩy công nghệ trong 
nước phát triển, được thể hiện qua giá trị xuất khẩu máy móc và chi tiết 
máy tăng dần qua các năm từ 2009-2014 (Hình 5), trong đó, giá trị nhập 
khẩu lớn hơn khoảng hai lần so với xuất khẩu. Đặc biệt, lĩnh vực cơ khí chế 
tạo có giá trị xuất nhập khẩu máy công cụ và các chi tiết đã chiếm giá trị 
lớn (Hình 6) so với tổng giá trị xuất khẩu máy móc nói chung (Hình 5). Giá 
trị nhập khẩu máy công cụ và phụ tùng đã tăng 200% từ năm 2009 đến 
2014 lên 3,2 tỷ USD. Số tiền này bao gồm nhập khẩu máy công cụ trị giá 
2,99 tỷ USD và nhập khẩu dụng cụ cầm tay trị giá 206 triệu USD. Ba máy 
công cụ hàng đầu nhập khẩu là hộp đúc cho đúc kim loại, máy công cụ để 
gia công kim loại bằng cách rèn, uốn, gấp, cắt và máy tiện kim loại. Rõ 
 ràng cùng với việc nhập khẩu máy công cụ phục vụ gia công chế tạo cơ khí, 
chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân xuất nhập khẩu máy công cụ thì đi kèm với 
đó sẽ là một hàm lượng lớn công nghệ cơ khí chế tạo đã được nhập khẩu 
vào Thái Lan. Hình 5 và Hình 6 cũng thể hiện rõ sự thay đổi lớn về giá trị 
nhập khẩu máy móc của Thái Lan. Từ năm 2012 đã minh chứng có sự tác 
động và định hướng của chính sách phát triển nền công nghiệp và từ đó dẫn 
đến nhu cầu khập khẩu các công nghệ mới để phù hợp với chính sách phát 
triển theo từng giai đoạn. Sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô và điện 
tử của Thái Lan là một yếu tố quan trọng thúc đẩy nhu cầu về sử dụng các 
máy công cụ hiện đại. Một lý do khác dẫn đến việc nước này có giá trị nhập 
khẩu máy móc cơ khí chế tạo lớn là do khoảng cách phát triển giữa các 
ngành vẫn còn chênh lệch nhiều và việc sản xuất máy móc công nghệ cao 
vẫn còn thiếu ở Thái Lan. 
Công nghệ sản xuất cùng với thiết bị được du nhập chủ yếu qua con đường 
đầu tư trực tiếp (FDI), trong đó, công nghệ được nhập kèm máy móc, thiết 
bị và chủ yếu đến từ Nhật Bản. Hình 7 thể hiện tỉ lệ máy móc và phụ tùng 
được nhập chủ yếu từ Nhật Bản (31,5%), Trung Quốc (19,2%) và Đức (9%) 
(Thailand Board of Investment, Thailand’s Machinery Industry), chứng tỏ 
Thái Lan đã có những định hướng trong việc nhập khẩu thiết bị và công 
nghệ từ một số thị trường nhất định. Mặc dù đã được Chính phủ định hướng 
nhập những máy móc, thiết bị và dây chuyền công nghệ tiên tiến, nhưng 
trong giai đoạn đầu, Thái Lan vẫn là điểm đến của những thiết bị và công 
nghệ cũ. Tuy nhiên, do Thái Lan có định hướng và chiến lược phát triển rõ 
ràng và được linh hoạt thay đổi theo từng thời kỳ ngắn hạn, nên họ kịp thời 
điều chỉnh vấn đề này, các công nghệ được chọn lựa theo định hướng Chính 
phủ đưa ra, do vậy, Thái Lan nhanh chóng chủ động được việc nhập và 
chuyển giao công nghệ. 
Nguồn: Đơn vị thu thập thông tin máy móc, Viện Sắt Thép Thái Lan 
Hình 7. Tỉ lệ các nguồn nhập khẩu máy và các phụ kiện vào Thái Lan năm 
2014 
Qua phân tích trên có thể thấy rằng, các chính sách phát triển nền công 
nghiệp của Thái Lan chủ yếu thông qua đầu tư từ nước ngoài FDI. Những 
chính sách như khuyến khích bằng thuế, phi thuế, khuyến khích phát triển 
 33 
công nghệ cao, R&D, đẩy mạnh hoạt động đào tạo công nghệ tiên tiến; phát 
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thái Lan đặc biệt ưu đãi cho FDI đầu tư vào 
khu công nghiệp theo quy hoạch phát triển kinh tế của đất nước. Những 
điều này đã giúp Thái Lan phát triển ngành cơ khí chế tạo với các công 
nghệ được nhập một cách có lựa chọn và theo định hướng phát triển chung 
của nền công nghiệp, từ đó giúp Thái Lan trở thành quốc gia có nền công 
nghiệp tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. 
3. Bài học kinh nghiệm và giải pháp cho Việt Nam 
3.1. Sơ lược hiện trạng công nghệ ngành cơ khí 
Việt Nam hiện có khoảng 53.000 cơ sở sản xuất cơ khí, trong đó, ước tính 
có 50% cơ sở sản xuất cơ khí chế tạo lắp ráp, còn lại phần lớn là cơ sở sửa 
chữa đơn thuần, với tổng số vốn của ngành cơ khí quốc doanh ước đạt 370 
triệu USD, tổng vốn đăng ký đầu tư nước ngoài khoảng 2,1 tỷ USD (Tổng 
Cục thống kê, 2013), giá trị sản xuất công nghiệp năm 2013 đạt khoảng 
12,6 tỷ USD (tăng 10,5% so với năm 2012 và tăng 6 lần so với năm 2000). 
Mặc dù giá trị sản xuất công nghiệp tăng hàng năm, nhưng khả năng đáp 
ứng nhu cầu trong nước của ngành cơ khí còn thấp, chỉ đạt hơn 32%. Trình 
độ công nghệ trong ngành cơ khí chế tạo được đánh giá còn lạc hậu, với 
48,2% doanh nghiệp ngành cơ khí chế tạo có trình độ công nghệ thấp và 
39,3% ở mức độ trung bình (Tổng Cục thống kê, 2013), tính đồng bộ của 
dây chuyền sản xuất chưa cao, đồng thời, phần lớn các công nghệ trong 
ngành cơ khí chế tạo đã sử dụng được khoảng 30 năm. Do đó, khả năng gia 
công chính xác và đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định của các dây 
chuyền công nghệ còn thấp. Xét theo các nguyên công cơ bản để tạo ra sản 
phẩm cơ khí chế tạo cho thấy, nguyên công nghiên cứu thiết kế đã đạt được 
mức độ trung bình tiên tiến so với khu vực; nguyên công chế tạo phôi (đúc, 
rèn dập, hàn) và nguyên công gia công (có phôi và không phôi) còn tương 
đối lạc hậu; nguyên công xử lý bề mặt được coi là lạc hậu nhất trong gia 
công cơ khí của các doanh nghiệp cơ khí chế tạo, các thiết bị mới hầu như 
chưa được ứng dụng ở Việt Nam, ngoại trừ một số phòng thí nghiệm và cơ 
sở liên doanh với nước ngoài; nguyên công lắp ráp hoàn chỉnh và khảo 
nghiệm, nguyên công kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu và sản phẩm 
được đánh giá là lạc hậu so với các nước trong khu vực. 
Về vấn đề lựa chọn công nghệ nhập khẩu, hiện nay các tổ chức nghiên cứu 
và doanh nghiệp cơ khí của Việt Nam hiện vẫn đang trong tình trạng không 
định rõ phương hướng, không biết nên bắt đầu từ đâu và tập trung vào 
những lĩnh vực chủ đạo nào của ngành. Chiến lược phát triển ngành cơ khí 
mới gần đây nhất chỉ đưa ra được các ngành nào cần phát triển (Quyết định 
số 319/QĐ-TTg ngày 15/3/2018 ), tuy nhiên, không chỉ rõ chủng loại công 
nghệ, mức độ công nghệ cần đầu tư phát triển đến đâu và ưu tiên phục vụ 
cho những ngành công nghiệp cụ thể nào, đây là vấn đề cần xem xét và bổ 
sung cụ thể trong thời gian tới. 
 3.2. Bài học kinh nghiệm và giải pháp 
Từ quá trình phát triển công nghiệp cơ khí của các quốc gia đề cập ở trên đã 
cho thấy có những sự tương đồng nhất định, có thể tổng hợp lại và đề xuất 
theo lưu đồ biểu diễn trên Hình 8. Theo đó, mỗi quốc gia khi bắt đầu quá 
trình thực hiện lựa chọn và nhập khẩu công nghệ cần xây dựng cho mình 
các bộ tiêu chuẩn quốc gia. Tiếp theo, tùy theo trình độ phát triển của mỗi 
quốc gia mà có phương pháp lựa chọn công nghệ khác nhau. 
Nguồn: Tổng hợp và xây dựng của nhóm tác giả 
Hình 8: Lưu đồ quá trình lựa chọn công nghệ nhập khẩu trên cơ sở bài học 
kinh nghiệm quốc tế. 
Với bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc, ở giai đoạn những năm 1960-1980 
khi trình độ công nghệ còn thấp, họ đã thực hiện lựa chọn công nghệ hoàn 
toàn dựa vào đối tác nước ngoài và các doanh nghiệp FDI. Đây cũng là 
cách làm mà Đài Loan và Thái Lan đã thực hiện ở những năm trước 1990. 
Khi trình độ công nghệ đã phát triển đến mức độ trung bình, thì các quốc 
gia bắt đầu xác định cho mình những sản phẩm chủ lực của quốc gia nhằm 
tiến tới xuất khẩu, dựa vào đó để thực hiện lựa chọn và nhập khẩu công 
nghệ phù hợp đáp ứng sản xuất sản phẩm đó. Cách thức này đã được Hàn 
Quốc sử dụng từ những năm 1980 đến năm 2000 với sản phẩm chủ lực của 
ngành cơ khí chế tạo là phục vụ ngành điện tử. Còn với Đài Loan và Thái 
 35 
Lan vừa mới trải qua giai đoạn trình độ công nghệ trung bình nên đã và 
đang lựa chọn công nghệ theo sản phẩm chủ lực là máy công cụ đối với Đài 
Loan và ôtô đối với Thái Lan. Hiện tại Hàn Quốc đã đạt đến trình độ công 
nghệ cao nên sẽ tiến hành lựa chọn công nghệ theo hướng nghiên cứu và 
phát triển sản phẩm. Từ đó, sẽ xây dựng tiêu chí để lựa chọn công nghệ nào 
sẽ được nhập khẩu. Dựa vào bộ tiêu chí đó và bộ tiêu chuẩn quốc gia sẽ 
giúp lựa chọn công nghệ nhập. 
Với kinh nghiệm của các quốc gia đã phân tích ở trên sẽ giúp chúng ta có 
cái nhìn tổng quan về vấn đề nhập khẩu và lựa chọn công nghệ nhập để 
phát triển ngành cơ khí chế tạo, từ đó đúc kết được một số bài học và giải 
pháp cụ thể cho Việt Nam như sau: 
- Một là, trong giai đoạn này, việc lựa chọn công nghệ nhập khẩu ngành cơ 
khí chế tạo (khi trình độ công nghệ còn thấp) nên dựa vào các đối tác nước 
ngoài và các doanh nghiệp FDI. Thực vậy, trong 10 năm gần đây Việt Nam 
đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư nước ngoài xây dựng các nhà máy sản 
xuất tại Việt Nam, kéo theo là một loạt các công ty sản xuất phụ trợ. Trong 
đó có một số lượng lớn các công ty cơ khí chế tạo của Việt Nam đã tham 
gia được vào chuỗi cung ứng phụ trợ cho các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, 
cần có chính sách cụ thể từ phía Chính phủ trong việc buộc các doanh 
nghiệp FDI chuyển nhượng lại các bản quyền công nghệ hoặc hỗ trợ các 
doanh nghiệp Việt Nam nâng cao trình độ công nghệ trên cơ sở đăng ký tỷ 
lệ nội địa hóa của các sản phẩm đầu ra theo lộ trình thời gian thích hợp. 
Đồng thời, với các công nghệ mà các công ty nội địa còn yếu thì có chính 
sách khuyến khích các công ty nước ngoài đưa vào để tạo điều kiện khuếch 
tán công nghệ, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, nâng cao trình độ. 
- Hai là, phải xây dựng, bổ sung các đạo luật của hệ thống tiêu chuẩn quốc 
gia về đánh giá, giám sát, xét duyệt các chủng loại công nghệ nhập khẩu 
các ngành nói chung và ngành cơ khí chế tạo nói riêng, đảm bảo bám sát 
mục tiêu phát triển của ngành và của nền kinh tế. Việc xây dựng hệ thống 
các tiêu chuẩn cần được giao cho Bộ KH&CN chịu trách nhiệm xây dựng 
và quản lý. Việc xây dựng và bổ sung các đạo luật của hệ thống các tiêu 
chuẩn quốc gia này sẽ giúp ngành cơ khí chế tạo có thể chọn lọc được các 
công nghệ nhập khẩu tiên tiến và phù hợp, tránh nhập khẩu các công nghệ 
cũ, lạc hậu gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế-xã hội và môi trường. 
- Ba là, xây dựng hệ thống hạn chế nhập khẩu đối với những máy móc có 
thể sản xuất được trong nước (như quy định về kích thước giới hạn), đồng 
thời, chuyển hướng nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ trên xu 
hướng cùng hợp tác nghiên cứu và phát triển với các đối tác nước ngoài. Có 
chính sách giảm thuế đối với các thiết bị, máy móc cơ khí nhập khẩu có 
hàm lượng công nghệ cao. Chuyển dần mối liên kết sản xuất thông qua 
chuyển giao bản quyền công nghệ và sản xuất thiết bị gốc (OEM) hoặc sản 
xuất thiết kế gốc (ODM). Đây là lựa chọn khả thi cho doanh nghiệp sản 
xuất cơ khí chế tạo khi cần công nghệ tiên tiến. 
 - Bốn là, tập trung trong việc mua và đồng hóa những công nghệ, máy móc 
tiến bộ nhất trên thế giới từ những nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, 
Hàn Quốc,... Các công nghệ cơ khí chế tạo được nhập khẩu lúc này cần liên 
quan đến vật liệu, thiết kế và quản lý cũng như những sản phẩm công nghệ 
cao. Đồng thời, Việt Nam cũng cần xác định rõ sản phẩm chủ lực của 
ngành cơ khí chế tạo là những sản phẩm gì trong giai đoạn hiện nay, để từ 
đó có định hướng xây dựng các tiêu chí lựa chọn công nghệ nhập khẩu, phù 
hợp các hệ thống tiêu chuẩn quốc gia. 
- Năm là, thực hiện xây dựng hệ thống đăng ký viện nghiên cứu dành cho 
tư nhân. Đồng thời, thực thi chính sách không thu thuế với các viện này 
trong thời gian 5 đến 10 năm đầu, cắt giảm thuế dành cho việc tìm kiếm và 
nghiên cứu phát triển công nghệ, nhất là các công nghệ tiên tiến. Triển khai 
thành lập và đầu tư cho các viện nghiên cứu ở nước ngoài nhằm tiếp cận 
với công nghệ mới nhất trên thế giới. Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và 
phát triển, chủ động khai thác các công nghệ nhập khẩu, tiến tới làm chủ và 
sáng tạo công nghệ. 
- Sáu là, việc nhập khẩu công nghệ chỉ phù hợp trong một giai đoạn phát 
triển nào đó của đất nước, ứng với giai đoạn đó cần có những chính sách hỗ 
trợ đặc biệt của Chính phủ, cần điều chỉnh và thay đổi linh hoạt; chẳng hạn 
như vay nợ dài hạn từ nước ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, định 
hướng việc nhập khẩu công nghệ phù hợp với thay đổi định hướng phát 
triển kinh tế của đất nước, hỗ trợ thành lập các tổ chức trung gian, xây 
dựng, hoàn thiện các tiêu chuẩn công nghiệp, đào tạo nhân lực... 
4. Kết luận 
Trên đây là những đúc kết của nhóm tác giả thông qua việc nghiên cứu thực 
tế kinh nghiệm của một số quốc gia về vấn đề lựa chọn công nghệ nhập 
khẩu ngành cơ khí chế tạo và các chính sách liên quan đến vấn đề nhập 
khẩu công nghệ. Mỗi quốc gia có những đặc thù riêng, tuy nhiên, qua 
nghiên cứu, phân tích cũng đã hội tụ lại ở một số điểm chung mà Việt Nam 
có thể học tập thông qua 6 bài học và giải pháp ở trên. Tuỳ theo tình hình 
phát triển kinh tế-xã hội của mỗi giai đoạn mà các chính sách cần thay đổi 
linh hoạt cho phù hợp, không nên bó buộc và theo một khuôn mẫu nào, như 
vậy mới có được sự vận động và phát triển không chỉ ở vấn đề KH&CN mà 
trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống kinh tế-xã hội./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Quyết định số 319/QĐ-TTg ngày 15/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt 
Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. 
2. Tổng Cục thống kê, 2013. Báo cáo kết quả điều tra doanh nghiệp. 
 37 
3. Hội đồng Chính sách KH&CN quốc gia, 2016. “Hoạt động nhập khẩu công nghệ - 
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”, Báo cáo đề dẫn Phiên họp thường kỳ lần thứ 9. 
Tiếng Anh 
4. UNCTAD, 2003. Invesment and Technology Policies for Competitiveness: Review of 
successful country experience. 
5. Trade Office of Swiss Industries (TOSI), 2013. “Machinery industry in Taiwan”, 
Switzerland Global Enterprise. 
6. OECD, 2014. Reviews of Innovation Policy, “Industry and Technology Policies in 
Korea”. OECD Publishing. 
7. National Development Countcil, 2016. Taiwan Statistical Data Book. 
8. Reinhard Drifte, 1997. “Profileration in Northeast Asia: South Korea’ dual Use 
technology from Japan”. The Nonproliferation Review/Spring-Summer, pp. 72-82. 
9. Graham R. Mitchell, 1997. “Korea’s strategy for leadership in research and 
development”. U.S. Department of Commerce, Office of Technology Policy. 
10. Otto C. C. Lin, 1998. “Science and technology policy and its influence on economic 
development in Taiwan”, pp. 185-206. Behind East Asian Growth: The Political and 
Social Foundations of Prosperity, Routledge. 
11. Shafiq Dhanani, Philippe Scholtès, 2002. Thailand’s Manufacturing Competitiveness: 
Promoting Technology, Productivity and Linkages, United Nations Industrial 
Development Organization. 
12. Kung Wang, 2005. “The ITRI Experience: Innovative Engine of Taiwan’s High Tech 
Industry”. 
13. Liang-Chih Chen, 2009. “Learning through informal local and global linkages: The 
case of Taiwan’s machine tool industry”. Research Policy 38 (2009), pp. 527-535. 
14. Sungchul Chung, 2010. “Innovation, Competitiveness and Growth: Korean 
Experiences”. Annual World Bank Conference on Development Economics, pp. 333-
357. 
15. Hans-Günther Vieweg, 2012. An introduction to Mechanical Engineering: Study on 
the Competitiveness of the EU Mechanical Engineering Industry. 
16. Keun Lee, 2013. How can Korea be a role model for catch-up development? A 
‘capability-Based View’, Achieving Development Success: Strategies and Lessons 
from the Developing World. Oxford University Press, pp. 25-49 
17. Thailand Board of Investment, Thailand’s Machinery Industry, 

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_quoc_te_trong_lua_chon_cong_nghe_nhap_khau_nganh.pdf