Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số quốc gia trên thế giới

Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo,

phát triển và ổn định kinh tế. Vì vậy, phát triển tài chính toàn diện

được các tổ chức phát triển quốc tế cũng như Chính phủ nhiều quốc

gia đặc biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Bài viết tìm hiểu, phân

tích vai trò của tài chính toàn diện, nghiên cứu kinh nghiệm của

những nước thành công trong phát triển tài chính toàn diện như:

Ấn Độ, Bazil và Malaysia. Kết quả chỉ ra rằng, để thành công trong

phát triển tài chính toàn diện cần chú ý đến vấn đề: i) phải coi phát

triển tài chính toàn diện là một chiến lược quốc gia, tập trung các

nguồn lực và nỗ lực để hướng vào đúng đối tượng và triển khai thực

hiện các biện pháp phù hợp một cách hiệu quả; ii) tăng cường giáo

dục tài chính đối với người dân; iii) phát triển dịch vụ ngân hàng

đại lý; iv) các ngân hàng cần thiết kế các sản phẩm phù hợp hơn với

nhu cầu của các nhóm khác nhau, đặc biệt các sản phẩm tiết kiệm

và thanh toán.

pdf 11 trang kimcuc 18520
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số quốc gia trên thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số quốc gia trên thế giới

Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số quốc gia trên thế giới
55
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 193- Tháng 6. 2018
Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện 
tại một số quốc gia trên thế giới
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
Phạm Thị Hồng Vân
Trần Thị Thu Hường
Vũ Thị Thanh Hà
Ngày nhận: 05/04/2018 Ngày nhận bản sửa: 10/05/2018 Ngày duyệt đăng: 18/06/2018
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, 
phát triển và ổn định kinh tế. Vì vậy, phát triển tài chính toàn diện 
được các tổ chức phát triển quốc tế cũng như Chính phủ nhiều quốc 
gia đặc biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Bài viết tìm hiểu, phân 
tích vai trò của tài chính toàn diện, nghiên cứu kinh nghiệm của 
những nước thành công trong phát triển tài chính toàn diện như: 
Ấn Độ, Bazil và Malaysia. Kết quả chỉ ra rằng, để thành công trong 
phát triển tài chính toàn diện cần chú ý đến vấn đề: i) phải coi phát 
triển tài chính toàn diện là một chiến lược quốc gia, tập trung các 
nguồn lực và nỗ lực để hướng vào đúng đối tượng và triển khai thực 
hiện các biện pháp phù hợp một cách hiệu quả; ii) tăng cường giáo 
dục tài chính đối với người dân; iii) phát triển dịch vụ ngân hàng 
đại lý; iv) các ngân hàng cần thiết kế các sản phẩm phù hợp hơn với 
nhu cầu của các nhóm khác nhau, đặc biệt các sản phẩm tiết kiệm 
và thanh toán.
Từ khóa: Tài chính toàn diện, phát triển tài chính toàn diện
1. Khái niệm và vai trò của 
tài chính toàn diện
1.1. Khái niệm
ự ảnh hưởng của 
tài chính toàn diện 
đến phát triển 
kinh tế xã hội, góp 
phần xoá đói giảm 
nghèo và giảm bất bình đẳng 
đã được các nhà nghiên cứu, 
các tổ chức tài chính quốc tế 
cũng như chính phủ các quốc 
gia ghi nhận. Vì vậy, nhiều 
chương trình đã được các tổ 
chức quốc tế triển khai trong 
mục tiêu thúc đẩy phát triển 
tài chính toàn diện. Tổ chức 
Liên Hợp quốc (LHQ) đã triển 
khai các chương trình thông 
qua Quỹ Đầu tư phát triển 
LHQ; các nước G20 đã thống 
nhất bộ nguyên tắc cho tài 
chính toàn diện và đây cũng 
là những trọng tâm của kế 
hoạch hành động Nhóm G20. 
ASEAN coi tài chính toàn diện 
là một trong ba trụ cột của 
Tầm nhìn Cộng đồng Kinh tế 
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
ASEAN (AEC) 2025 về hội 
nhập tài chính và đã thành lập 
Nhóm công tác về tài chính 
toàn diện để thúc đẩy lĩnh vực 
này trong khu vực. Ngân hàng 
Thế giới (WB) và Ngân hàng 
Phát triển châu Á (ADB) đã 
xây dựng các chương trình, 
dự án để thúc đẩy tài chính 
toàn diện tại nhiều quốc gia. 
Có rất nhiều nước, đặc biệt 
là các nước đang phát triển 
đã và đang xây dựng khuôn 
khổ, chiến lược quốc gia về 
tài chính toàn diện như Ấn 
Độ, Thái Lan, Malaysia,... và 
bước đầu đạt được những kết 
quả tích cực. Tại Việt Nam, 
tài chính toàn diện là khái 
niệm còn khá mới mẻ, tuy các 
nội dung của tài chính toàn 
diện đã và đang được các Bộ, 
ngành triển khai theo chức 
năng, nhiệm vụ của mình 
nhưng chưa được đồng bộ và 
đạt hiệu quả cao. 
Một trong những khái niệm 
xuất hiện sớm nhất của 
Leyshon and Thrift (1995) đã 
xác định “tài chính toàn diện 
là quá trình một số nhóm xã 
hội và cá nhân nhất định được 
tiếp cận với hệ thống tài chính 
chính thức”. Sinclair (2001) 
cho rằng “tài chính toàn diện 
là khả năng tiếp cận các dịch 
vụ tài chính cần thiết bằng 
cách thức thích hợp”. Tại Ấn 
Độ, Uỷ ban Tài chính Toàn 
diện của Chính phủ định nghĩa 
tài chính toàn diện là “quá 
trình đảm bảo các nhóm dân 
cư thiệt thòi chẳng hạn như 
tầng lớp yếu thế và nhóm thu 
nhập thấp có thể tiếp cận các 
dịch vụ tài chính và tín dụng 
kịp thời và đầy đủ khi cần 
thiết với chi phí phải chăng” 
(Ủy ban Rangarajan, 2008). 
Khái quát hơn, LHQ cho rằng 
chính toàn diện là “cơ hội 
tiếp cận các dịch vụ tài chính 
với chi phí hợp lý cho người 
dân”. Các dịch vụ tài chính 
cơ bản bao gồm tiết kiệm, tín 
dụng ngắn hạn và dài hạn, 
cho thuê và bao thanh toán, 
thế chấp, bảo hiểm, trợ cấp, 
thanh toán, chuyển tiền trong 
nước và chuyển tiền quốc tế 
(Bluebook, 2006).
Từ quan điểm về tài chính 
toàn diện cho thấy, tài chính 
toàn diện có tính chất đa 
chiều, mang đến cho người 
dân các dịch vụ tài chính chất 
lượng một cách thuận tiện, mở 
rộng khả năng tiếp cận cho tất 
cả các tầng lớp dân cư, đặc 
biệt là tầng lớp dân cư có thu 
nhập thấp, tạo cơ hội đồng 
đều và hạn chế bất bình đẳng 
trong nền kinh tế. Từ đây, có 
thể định nghĩa tài chính toàn 
diện là “quá trình đảm bảo 
khả năng tiếp cận, tính sẵn 
sàng và khả năng sử dụng hệ 
thống tài chính chính thức 
cho tất cả mọi thành phần của 
nền kinh tế”. Theo đó, nhấn 
mạnh một số khía cạnh của tài 
chính toàn diện, tức là, khả 
năng tiếp cận, tính sẵn sàng và 
khả năng sử dụng hệ thống tài 
chính.
1.2. Vai trò của tài chính 
toàn diện 
Vai trò của tài chính toàn 
diện đối với phát triển kinh 
tế- xã hội đã được khẳng 
định trong nhiều nghiên cứu, 
điển hình có thể kể tới như: 
Levine (2005), Demirguc-
Kunt và Levine (2007), Beck 
và Honohan (2008), Johnston 
and Murdoch (2008), Johnson 
và Nino-Lazarawa (2009), 
Hastak và Gaikwad (2015)
Theo Beck và Honohan 
(2008), phát triển tài chính 
toàn diện sẽ có hai tác động 
đến quá trình phát triển kinh 
tế: Một là, phát triển tài chính 
là động lực thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế, tăng khả năng 
tiết kiệm, giúp khởi nghiệp 
Hình1. Vai trò của tài chính toàn diện với phát triển kinh tế
Tài chính toàn diện góp phần phát 
triển kinh tế theo hai cách
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Là phân khúc tài chính huy động, 
tiết kiệm, khởi nghiệp và đầu tư phát 
triển các ngành sản xuất
TÀI CHÍNH CHO MỌI NGƯỜI
Người nghèo có thể tiếp cận các dịch 
vụ tài chính, hạn chế thiệt thòi và 
nâng cao phúc lợi
Bổ trợ lẫn nhau
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
57Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
đầu tư, sản xuất, từ đó giảm 
đói nghèo và bất bình đẳng; 
hai là cung cấp các dịch vụ 
tài chính phù hợp, giá cả phải 
chăng cho người nghèo, cải 
thiện phúc lợi cho tầng lớp 
khó khăn (Hình 1).
Đồng quan điểm với Beck và 
Honohan (2008), Johnston 
and Murdoch (2008) cũng 
cho rằng tài chính toàn diện 
có vai trò quan trọng trong 
phát triển kinh tế bởi thông 
qua đó, những đối tượng từng 
nằm ngoài khu vực kinh tế 
chính thức có thể tiếp cận sản 
phẩm, dịch vụ tài chính, cải 
thiện cuộc sống, đóng góp vào 
tăng trưởng kinh tế và xóa đói 
giảm nghèo. Tương tự, nghiên 
cứu của Hastak và Gaikwad 
(2015) đã khẳng định tài chính 
toàn diện là một công cụ quan 
trọng đối với rất nhiều quốc 
gia đang phát triển nhằm tăng 
cường khả năng tiếp cận dịch 
vụ tài chính của khu vực có 
thu nhập thấp, qua đó góp 
phần xoá đói, giảm nghèo và 
thúc đẩy phát triển kinh tế. 
Tài chính toàn diện giúp tạo 
điều kiện cho người tham gia 
vào nền kinh tế và hệ thống 
tài chính, từ đó tạo động 
lực cho khu vực tài chính 
phát triển hơn và hỗ trợ tăng 
trưởng kinh tế thông qua huy 
động nguồn tiết kiệm và đầu 
tư vào tăng trưởng ở các khu 
vực có hiệu quả. 
Vai trò của tài chính toàn diện 
đối với phát triển kinh tế- xã 
hội có thể tóm lược qua các 
khía cạnh sau:
Thứ nhất, tài chính toàn diện 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 
thông qua tăng cường khả 
năng huy động các khoản tiết 
kiệm và đầu tư để phát triển 
sản xuất 
Johnson và Nino-Lazarawa 
(2009) đã chỉ ra rằng tài chính 
toàn diện góp phần thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế thông qua 
huy động tiết kiệm và đầu tư 
vào lĩnh vực sản xuất. Việc 
huy động tiết kiệm tạo điều 
kiện cho các đối tượng bị loại 
trừ trong hệ thống tài chính 
chính thức có thể tiếp cận tiết 
kiệm, tín dụng và các dịch 
vụ giảm nghèo để đầu tư vào 
lĩnh vực sản xuất và cải thiện 
phúc lợi. Theo Levine (2005), 
cơ sở hạ tầng của hệ thống tài 
chính toàn diện góp phần hạn 
chế thông tin tài chính bất đối 
xứng, giảm chi phí giao dịch 
ký kết hợp đồng. Các chính 
sách tài chính toàn diện hiệu 
quả tác động lên các ngành 
kinh tế, góp phần giảm nghèo 
và tăng trưởng kinh tế nhanh. 
Mối tương quan giữa tài chính 
toàn diện và tăng trưởng 
kinh tế này một lần nữa được 
khẳng định thông qua mô 
hình nghiên cứu của AT & SG 
(2010). 
Thứ hai, tài chính toàn diện 
giúp người nghèo được tiếp 
cận các dịch vụ tài chính phù 
hợp với giá cả phải chăng 
Một vấn đề quan trọng đối 
với người nghèo là thu nhập 
của họ không chỉ thấp mà 
còn không ổn định. Họ cần 
có khả năng tự quản lý thu 
nhập thấp và bấp bênh của 
mình để đảm bảo dòng tiền 
mặt thường xuyên và tích lũy 
tiền để trang trải các chi phí 
có thể phát sinh như tiền học 
cho con, hiếu hỉ; và các tình 
huống khẩn cấp như bệnh tật 
hoặc mất việc bất ngờ, tuy 
nhiên khả năng quản lý của họ 
còn thấp. Khi các nhu cầu tài 
chính xuất hiện, người nghèo 
phải tìm đến các dịch vụ tài 
Hình 2. Mối tương quan giữa tài chính toàn diện và phát 
triển kinh tế
Phát triển 
tài chính 
toàn diện
Tăng 
trưởng 
kinh tế
Tiếp cận 
các dịch vụ 
tài chính
Nguồn: Tài chính toàn diện đổi mới; Báo cáo của Nhóm chuyên gia về 
AT & SG, G.20, năm 2010
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
chính phi chính thức nếu họ 
không thể tiếp cận các dịch 
vụ chính thức và bán chính 
thức. Mặc dù các dịch vụ phi 
chính thức dễ tiếp cận hơn 
song nhiều trường hợp chưa 
đáng tin cậy, kém an toàn và 
phải trả chi phí cao hơn so với 
các dịch vụ bán chính thức và 
chính thức. Điều này có thể 
gia tăng gánh nặng chi phí 
với người nghèo. Báo cáo Tài 
chính toàn diện G20 (2015) 
cho thấy hầu hết tại các nước 
đang phát triển, chỉ có từ 20% 
đến 50% dân số được tiếp cận 
các dịch vụ tài chính chính 
thức, người nghèo và cận 
nghèo nằm ngoài khu vực này. 
Đảm bảo đối tượng nghèo và 
cận nghèo tiếp cận tốt hơn các 
dịch vụ tài chính chính thức sẽ 
góp phần cải thiện cuộc sống, 
tạo công ăn việc làm, từ đó 
thúc đẩy kinh tế địa phương 
phát triển. 
Tài chính toàn diện mang lại 
cơ hội tiếp cận hệ thống tài 
chính chính thức với mức chi 
phí hợp lý cho tất cả các thành 
phần của nền kinh tế, đặc biệt 
là nhóm dân cư “yếu thế” và 
đang sống “ngoài rìa” nền tài 
chính, từ đó ảnh hưởng tích 
cực đến vấn đề công bằng tài 
chính và phát triển các hoạt 
động kinh tế. Ở khu vực thành 
thị, viên chức lương thấp hoặc 
cá nhân tự doanh như bán 
hàng rong cũng như những 
người nông dân và những đối 
tượng khác mưu sinh bằng 
những công việc với thu nhập 
eo hẹp như chế biến thực 
phẩm, buôn bán nhỏ, đặc biệt 
là phụ nữ và trẻ em trong độ 
tuổi quy định sẽ được hưởng 
lợi từ các hoạt động tài chính 
như trên. Do đó, Ogunleye 
(2009) đã khẳng định, tài 
chính toàn diện đem lại ổn 
định tài chính, thúc đẩy tăng 
trưởng toàn diện. 
Thứ ba, tài chính toàn diện 
góp phần tăng thu nhập, xóa 
đói giảm nghèo và tăng phúc 
lợi cho người nghèo
Tiếp cận các sản phẩm, dịch 
vụ tài chính như tiết kiệm, 
dịch vụ thanh toán, chuyển 
tiền kiều hối và bảo hiểm sẽ 
giúp người nghèo tăng khả 
năng tích luỹ tài sản, chống 
chịu trước những cú sốc kinh 
tế, đồng thời tăng khả năng 
tạo công ăn việc làm, cải thiện 
thu nhập thông qua các khoản 
tín dụng tiếp cận được. Theo 
các nghiên cứu chuyên sâu 
về dân tộc học của Collins và 
các cộng sự (2009) được thực 
hiện bằng cách theo dõi ‹nhật 
ký tài chính› của tầng lớp 
dân nghèo ở Bangladesh, Ấn 
Độ và Nam Phi, tiếp cận các 
dịch vụ tài chính phù hợp và 
giá cả phải chăng giúp người 
nghèo giảm rủi ro ảnh hưởng 
từ các biến động kinh tế, cải 
thiện phúc lợi và trong nhiều 
trường hợp còn tăng thu nhập. 
Nghiên cứu Robinson (2001) 
cũng chỉ ra rằng, ngoài lợi ích 
về mặt tiết kiệm thu nhập an 
toàn và cơ hội vay vốn lớn 
hơn, tài chính toàn diện cũng 
mang lại nhiều kết quả tích 
cực như hạn chế lao động trẻ 
em và tăng năng suất nông 
nghiệp.
Trong một nghiên cứu phân 
tích về tầng lớp thu nhập thấp 
ở Bangladesh, Ấn Độ và Nam 
Phi, Collins (2009) đã tìm ra 
mối quan hệ nhân quả giữa 
khả năng tiếp cận dịch vụ tài 
chính phù hợp, giá cả phải 
chăng và sự cải thiện phúc lợi 
và thu nhập cho người nghèo. 
Demirguc-kunt và cộng sự 
(2008) cũng nhận thấy rằng 
tiếp cận tài chính không chỉ 
thúc đẩy tăng trưởng mà còn 
thúc đẩy giảm nghèo cũng như 
giảm bất bình đẳng thu nhập 
và cải thiện phúc lợi. Xét trên 
bối cảnh rộng hơn, tài chính 
toàn diện đóng góp vào tăng 
trưởng kinh tế thông qua tạo 
giá trị cho các doanh nghiệp 
nhỏ, đem lại tác động lớn cho 
việc cải thiện các chỉ số phát 
triển con người- như y tế, 
dinh dưỡng, giáo dục- và đẩy 
lùi bất bình đẳng, nghèo đói 
(CIMP, 2011; Obstfield, 1994 
và Ghali, 1999).
2. Kinh nghiệm phát triển 
tài chính toàn diện tại các 
quốc gia đang phát triển
2.1. Kinh nghiệm từ Ấn Độ
Tại Ấn Độ, tài chính toàn diện 
được triển khai lần đầu tiên 
vào năm 2005 từ một dự án thí 
điểm tại UT of Pondicherry 
của C.Chakraborthy, Chủ 
tịch Ngân hàng Trung ương 
(NHTW) Ấn Độ. Làng 
Mangalam trở thành ngôi làng 
đầu tiên ở Ấn Độ, nơi tất cả 
các hộ gia đình được cung 
cấp các tiện ích ngân hàng. 
Các tiêu chuẩn được nới lỏng 
cho những người dự định mở 
tài khoản với khoản tiền gửi 
hàng năm ít hơn Rs. 50,000. 
Thẻ tín dụng chung (GCCs) 
đã được phát hành cho người 
nghèo và người có hoàn cảnh 
khó khăn với mục đích giúp 
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
họ tiếp cận tín dụng dễ dàng. 
Tháng 1/2006, NHTW Ấn Độ 
đã cho phép các ngân hàng 
thương mại (NHTM) sử dụng 
các dịch vụ của các tổ chức 
phi chính phủ (NGO/SHGs), 
các tổ chức tài chính vi mô, 
và các tổ chức xã hội dân sự 
khác như là tổ chức làm trung 
gian cung cấp dịch vụ tài 
chính và ngân hàng. Những 
tổ chức trung gian này có thể 
được sử dụng hoạt động như 
tổ chức điều hành kinh doanh 
của các NHTM. NHTW Ấn 
Độ yêu cầu các NHTM ở các 
vùng khác nhau bắt đầu một 
chiến dịch bao gồm 100% tài 
chính toàn diện trên cơ sở thí 
điểm. Theo kết quả của chiến 
dịch tiểu bang hoặc bang U.T 
như Pondicherry, Himachal 
Pradesh và Kerala đã công 
bố 100% tài chính toàn diện 
trong tất cả các khu vực. Dự 
kiến của NHTW Ấn Độ năm 
2020 là mở gần 600 triệu tài 
khoản khách hàng mới và 
phục vụ họ thông qua nhiều 
kênh bằng cách tận dụng công 
nghệ thông tin. Tạo nên thành 
công trong sự phát triển tài 
chính toàn diện tại Ấn Độ là 
chính sách và quyết định đúng 
đắn của Chính phủ và các tổ 
chức tài chính, đặc biệt là 
NHTW Ấn Độ. Để có được 
kết quả trên, Chính phủ và 
các tổ chức tài chính đã có 
những kế hoạch, chiến lược 
hành động cụ thể, một số kinh 
nghiệm nổi bật có thể kể đến 
sau: 
Về phía Chính phủ, Chính 
phủ các tiểu bang đóng vai 
trò chủ động trong việc tạo 
điều kiện thuận lợi cho phát 
triển tài chính toàn diện. Cụ 
thể, chính quyền cấp hồ sơ 
nhận dạng cá nhân để có thể 
chính thức mở tài khoản; liên 
kết các quận huyện và đơn vị 
chức năng trong toàn bộ quy 
trình, đáp ứng chi phí thẻ và 
các thiết bị thí điểm khác; 
cam kết đào tạo các kỹ năng 
tài chính cho người dân. Đây 
là cách mà chính quyền Tiểu 
bang và các quận huyện tham 
gia vào quá trình phát triển tài 
chính toàn diện.
Năm 2007-2 ... a, các cơ chế mạnh về 
mặt thể chế cũng đã được áp 
dụng để thúc đẩy giáo dục và 
hiểu biết về tài chính, thành 
lập thanh tra tài chính và cơ 
quan bảo hiểm tiền gửi nhằm 
bảo vệ khách hàng gửi tiền 
quy mô nhỏ trong trường hợp 
ngân hàng gặp khó khăn.
Tất cả những chủ trương trên 
đã góp phần tạo nên thành 
công của đất nước này trong 
phát triển tài chính toàn diện. 
3. Bài học phát triển tài chính 
toàn diện đối với Việt Nam
Chính phủ các quốc gia, các 
tổ chức tài chính quốc tế, các 
nhà nghiên cứu đều ghi nhận: 
việc tiếp cận sản phẩm, dịch 
vụ tài chính chính thức đóng 
vai trò quan trọng đối với mọi 
đối tượng trong nền kinh tế 
xã hội, nó được xem là một 
trong những công cụ sống còn 
để phát triển nền kinh tế nói 
chung và góp phần xoá đói 
giảm nghèo nói riêng. Vì vậy, 
phát triển tài chính toàn diện 
là mục tiêu của nhiều quốc gia 
trong đó có Việt Nam. Từ việc 
nghiên cứu kinh nghiệm phát 
triển tài chính toàn diện tại Ấn 
Độ, Brazil và Malaysia, chúng 
tôi rút ra bài học kinh nghiệm 
đối với Việt Nam nhằm thúc 
đẩy sự phát triển của tài chính 
toàn diện. Cụ thể: 
Thứ nhất, phải coi phát triển 
tài chính toàn diện là một 
chiến lược quốc gia, tập trung 
các nguồn lực và nỗ lực để 
hướng vào đúng đối tượng 
và triển khai thực hiện các 
biện pháp phù hợp một cách 
hiệu quả. Phải hình thành một 
khung khổ pháp luật đảm bảo 
sự cam kết theo đuổi và thực 
hiện chiến lược tài chính toàn 
diện ở Việt Nam, trên cơ sở 
đó xây dựng cơ chế điều phối 
và phối hợp huy động tổng thể 
nguồn lực triển khai tài chính 
toàn diện hiệu quả, đảm bảo 
sự tham gia của tất cả các bên 
liên quan, đặc biệt là khu vực 
tư nhân. Xây dựng một cơ sở 
dữ liệu quốc gia về tài chính 
toàn diện để phục vụ cho việc 
hoạch định chính sách cũng 
như đánh giá việc triển khai 
thực hiện. 
Thứ hai, tăng cường giáo dục 
tài chính đối với người dân. 
Kinh nghiệm của các quốc gia 
trên thế giới đã chỉ ra rằng 
việc thiếu kiến thức và hiểu 
biết về các loại sản phẩm, 
dịch vụ tài chính khiến người 
dân thiếu sự tự tin, ngại tiếp 
cận và thái độ không tin tưởng 
đối với các sản phẩm, dịch 
vụ trên thị trường. Đây chính 
là rào cản lớn trong việc tiếp 
cận các dịch vụ tài chính trên 
thị trường chính thức, thúc 
đẩy sự xuất hiện của các sản 
phẩm, dịch vụ tài chính phi 
chính thức, dẫn đến cản trở sự 
phát triển tài chính toàn diện 
trong mỗi quốc gia. Do đó, 
cần có cách thức tăng cường 
hiểu biết về tài chính thông 
qua giáo dục, tăng cường đào 
tạo kỹ năng và năng lực tài 
chính cho người dân để họ 
có thể tiếp cận và sử dụng có 
trách nhiệm các dịch vụ tài 
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
63Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
chính, quản lý tốt hơn tình 
hình tài chính. Chính phủ cần 
triển khai các chương trình 
hành động về giáo dục tài 
chính tiếp cận các đối tượng 
khác nhau như: trường học, 
chiến dịch nâng cao hiểu biết 
tài chính cho người dân. Cụ 
thể, Chính phủ có thể giao cho 
các kênh truyền thông quốc 
gia như Đài truyền hình Việt 
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam 
thực hiện tuyên truyền, giới 
thiệu tới người dân về các sản 
phẩm cũng như các chương 
trình hỗ trợ để người dân có 
thể tiếp cận được với tài chính 
toàn diện; giao cho Ngân hàng 
Chính sách Xã hội, Ngân hàng 
Phát triển thực hiện các khoá 
đào tạo, các kênh đào tạo tới 
các nhóm chủ lực như trưởng 
thôn, trưởng nhóm, hội phụ 
nữ, hội nông dân,... để từ đó 
nhân rộng kiến thức về tài 
chính toàn diện với người 
dân. Không chỉ đào tạo về 
ý nghĩa, lợi ích về cách tiếp 
cận sản phẩm tài chính chính 
thức, người nông dân cũng 
cần được đào tạo về cách chi 
tiêu, cách tiết kiệm, cách quản 
lý tiền để từ đó tăng khả năng 
tiết kiệm của họ. 
Thứ ba, kinh nghiệm của các 
quốc gia cho thấy rằng một 
trong những chính sách làm 
nên sự thành công trong tài 
chính toàn diện đó là phát 
triển dịch vụ ngân hàng đại lý. 
Nhờ sự hữu ích và tiện dụng 
của ngân hàng đại lý (quy 
trình mở tài khoản đơn giản, 
thực hiện một số dịch vụ đơn 
giản như chuyển tiền, thanh 
toán hóa đơn, dịch vụ tiện ích 
giúp khách hàng giao dịch kịp 
thời, thuận tiện và tiết kiệm 
chi phí vì khách hàng không 
phải di chuyển quá xa nơi 
cư trú) sẽ làm tăng số lượng 
người tiếp cận và sử dụng 
dịch vụ lên nhanh chóng.
Mô hình này nếu được áp 
dụng sẽ gỡ bỏ những rào cản 
địa lý trong việc nhiều xã, 
huyện không có chi nhánh 
ngân hàng. Các cửa hàng bán 
lẻ, đại lý xổ số và bưu điện 
được liên kết với nhiều tổ 
chức tài chính hợp lệ để làm 
đại lý và sử dụng các thiết bị 
hoặc điện thoại di động hoạt 
động tức thời, để họ thực 
hiện giao dịch thay cho các 
tổ chức mà mình liên kết. 
Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam (NHNN) có thể khuyến 
khích phát triển mô hình này 
bằng cách cho phép tất cả 
các tổ chức tài chính thuộc 
sự quản lý và giám sát của 
NHNN thuê đại lý tại bất kỳ 
nơi nào trong nước, đồng thời 
quy định rõ ràng về các dịch 
vụ mà đại lý có thể cung cấp, 
đưa ra các hướng dẫn cần thiết 
về hợp đồng giữa tổ chức tài 
chính và đại lý, và yêu cầu 
báo cáo cho NHNN. Các đại 
lý được NHNN giám sát gián 
tiếp thông qua các tổ chức 
tài chính chịu trách nhiệm 
về hoạt động của đại lý như 
Brazil đang thực hiện.
Cuối cùng, các ngân hàng 
cũng cần thiết kế các sản 
phẩm phù hợp hơn với nhu 
cầu của các nhóm khác nhau, 
đặc biệt các sản phẩm tiết 
kiệm và thanh toán bởi thực 
tế quy mô tiết kiệm của người 
dân tại khu vực nông thôn rất 
nhỏ và mức độ tổn thương của 
các gia đình thường cao do 
sản xuất kinh doanh của họ 
phụ thuộc nhiều vào thời tiết. 
Dường như các sản phẩm tiết 
Tài liệu tham khảo
1. Abd Rahman, Zarina (2012), Financial Inclusion in Malaysia: Tracking Progress Using Index, IFC Bulletin No. 38, Bank for 
International Settlements, Basle
2. Alexandre Tombini (2012), Financial Inclusion in Brazil, G20 Finance Ministers and Central bank Governors’ Meeting, 
Washington DC, 2012
3. Barlon, Colin, and Francis Loh Kok Wah (2003), Malaysian Economics and Politics in the New Century.
4. Beck, T., DemirgüçKunt, A &· Levine, R. (2007), Finance, inequality and the poor, Journal of Economic Growth,pp 27–49. 
5. Beck, Thorsten, Asli Demirguc-Kunt, and Patrick Honohan (2008) Finance for All? Policies and Pitfalls inExpanding Access, 
Washington, DC: World Bank.
6. Collins, D., Murdoch, J., Rutherford, S. & Ruthven, O. (2009) Portfolios of the Poor: How the World’s Poor Live on $2 a 
Day. Princeton University Press.
7. DemirgüçKunt, A., Beck, T. & Honohan, P. (2008), Finance for All? : Policies and Pitfalls in Expanding Access, Washington 
D.C.: The World Bank.
8. DemirgüçKunt, A., Beck, T. & Honohan, P. (2009), Access to Financial Services: Measurement, Impact, and Policies, The 
World Bank Research Observer (2009), vol. 24, no. 1, February 2009.
9. G20 Financial Inclusion Experts Group—ATISG Report (2010), Innovative Financial Inclusion. Ghali KH (1999), Financial 
development and economic growth: the Tunisian experience, Rev. Dev. Econ., 3: 310-322.
xem tiếp trang 75
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
10. Green, C. J. , C. H. Kirkpatrick & V. Murinde (2006) , Finance for Small Enterprise Growth and Poverty Reduction in 
Developing Countries, J. Int. Dev. 18, pp.1017–1030.
11. Hastak và Gaikwad (2015), Issues relating to financial inclusion and banking sectors in India, The business & Managemnet 
Review, volume 5 number 4, January 2015, pp 194-203
12. Johnson, S. and M NinoZarazua (2009), Financial Access and Exclusion in Kenya and Uganda, BPID #1. 
Retrievedfrom:
13. Kumar, N. (2013) “Financial inclusion and its determinants: evidence from India”, Journal of Financial Economic Policy , 
Vol. 5 Issue: 1, pp.4-19,
14. Levine, R. (2005), Finance and Growth, in Aghion P. & S. N. Durlauf Handbook of Economic Growth. Volume 1A. North 
Holland: Elsevier.
15. Leyshon, T., (1995), Geographies of financial exclusion: financial abandonment in Britain and the United States, 
Transactions of the Institute of BritishGeographers New Series, 20, pp.312–41
16. Olaniyi và Adeoye (2016), Derterminants of Financial Inclusion in Afirca: A dynamicPanel Data Approach, University of 
Mauritius research journal , Vol 22- 2016, pp 310- 336. 
17. Obstfeld, Maurice (1994), Risk-Taking, Global Diversification, and Growth, American Economic Review, Vol. 84 No. 5, pp. 10–29. 
18. Ramji, M. (2009), Financial inclusion in Gulbarga: Finding usage in access, Institute for Financial Management and 
Research. Centrer for Micro Finance, Working Paper Series No.26. 
19. Robinson, M. (2001) The Microfiance Revolution. Washington, DC: World Bank and Open Society Institute.
20. Shankar, S. (2013), Financial inclusion in India: Do microfinance institutions address access barriers?, ACRN Journal of 
Entrepreneurship Perspectives. Vol.2, Issue 1, p.60-74.
21. Tuesta,D., Sorensen,G., Haring,A. va Camara, N. (2015), Financial inclusion and its determinants: the case of Argentina. 
BBVA Research, Mardrid. 
22. Usha Thorat (2007), Financial inclusion- the Indian experience, the HMT-DFID, Financial Inclusion Conference 2007.
23. United National (2006), Building Inclusive Finacial Sectors for Development, Bluebook.uncdf.org, UN Publications Number: 
E.06.II.A.3, ISBN: 92-1-204251-1
Thông tin tác giả
Phạm Thị Hồng Vân, Tiến sĩ
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Email: vanpth@hvnh.edu.vn
Trần Thị Thu Hường, Thạc sĩ
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Email: huongtran@hvnh.edu.vn
Vũ Thị Thanh Hà, Thạc sĩ 
Viện Đào tạo Quốc tế, Học viện Ngân hàng
Email: havt@hvnh.edu.vn
Summary
International experience in developing financial inclusion and the lessons for Vietnam
Financial inclusion has played important roles in poverty reduction, economic development and stabilization. 
Therefore, the international development agencies as well as the governments of many countries, including 
Vietnam have paid attention on the financial inclusion. Recognizing the importance of this issue, this paper 
analyzes the roles of the financial inclusion and successful countries experience such as India, Brazil, and 
Malaysia. The results of the research show that in order to success in the financial inclusion development, a 
country needs to focus on the following issues. First, the financial inclusion development should be a national 
strategy. Second, the financial literacy needs to be enhanced. Third, commercial banks need to develop agency 
banking model. Finally, commercial banks have to design financial products that are suitable for group of people, 
especially, saving and payment services.
Key worlds: financial inclusion, financial inclusion development. 
Van Thi Hong Pham, PhD.
Deputy-Dean of Banking Faculty, Banking Academy
Huong Thi Thu Tran, MEc.
Banking Faculty, Banking Academy
Ha Thi Thanh Vu, MEc.
Deputy Director of International School of Business, Banking Academy
 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
75Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
dụng hồi quy với biến giả (đã đề cập ở Phần 
1 của bài viết) để tìm kiếm bằng chứng thực 
nghiệm về tác động của một số nhân tố đến 
mức độ điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo 
lỗ và ổn định lợi nhuận. Bên cạnh đó, các bằng 
chứng thực nghiệm trong nghiên cứu này cũng 
cho thấy các NHTM có xu hướng điều chỉnh số 
and colleges and allows schools to be autonomous in developing enrollment plans. The number of candidates has 
decreased over the years, while increasing enrollment targets of universities and colleges has created pressure 
for universities and colleges to compete to improve quality, reputation, and job orientation in order to attract 
candidates. The research was conducted to develop a model that illustrates the factors that determines the 
choice of the BA’s undergraduate program of students. The results of multiple linear regression analyzed from 
186 questionaire respondents of BA’s 1st year and 2nd year students show that the groups of factors that have 
the significant impact in descending order are: Fixed Characteristics of the insitute, Communication Efforts of 
the institue, Social influencers to the student’s choice of the institute, Individual Characteristics of the student. 
Based on the obtained results, the research team proposes recommendations to improve the effectiveness of the 
enrollment process for universities, colleges in general and for BA institute in particular.
Keywords: Factors, bachelor program, enrollment, Banking Academy of Vietnam. 
Mai Ngoc Tran, MEc.
Faculty of International Business, Banking Academy 
Huong Thi Thu Nguyen
Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy
Linh Thuy Do
Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy
kiệm, vay vốn với quy mô nhỏ, thời gian đáo 
hạn nhanh phù hợp hơn với nhóm khách hàng 
này. Mặt khác, thủ tục, giấy tờ luôn là một rào 
cản lớn đối với người dân khi tiếp cận các dịch 
vụ tài chính tại nông thôn, điều này đã được đề 
cập trong nhiều nghiên cứu. Việc cải thiện thủ 
tục hành chính sẽ tăng khả năng tiếp cận dịch 
vụ tài chính của khu vực nông thôn. ■
tiếp theo trang 63
thích điểm tín dụng theo những đặc điểm của 
khách hàng, bởi phần lớn cơ chế giải thích của 
các kĩ thuật này rất phức tạp và vẫn còn nằm 
trong “hộp đen”.
Những kết quả được đưa ra trong bài nghiên 
cứu có thể là cơ sở để mở ra các nghiên cứu, 
đưa ra những phương pháp mới kết hợp các 
kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu quả các mô hình 
chấm điểm tín dụng. Ngoài việc xem xét kết 
quả của của các mô hình kết hợp thì việc giải 
thích cơ chế tác động của các nhân tố đầu vào 
với nhân tố mục tiêu phân loại đối với các mô 
hình cũng cần được quan tâm nghiên cứu. ■
tiếp theo trang 54
tiếp theo trang 44
cho nhiều trường hợp khác nhau. Việc sử dụng 
tốt sẽ dẫn đến các giao dịch nhanh hơn, minh 
bạch hơn. Giải pháp Blockchain cũng sẽ làm 
giảm chi phí và gánh nặng hành chính đối với 
ngân hàng và khách hàng. Ước tính rằng các 
công nghệ Blockchain có thể làm giảm chi 
phí cơ sở hạ tầng của ngân hàng khoảng 15-
20 tỷ USD một năm vào năm 2022- như tuyên 
bố trong “FinTech 2.0 Paper” của Santander 
InnoVentures. Blockchain cũng đặt ra thách 
thức đòi hỏi tất cả các bên liên quan sẽ phải 
tham gia hợp tác vào sự phát triển trong lĩnh 
vực này, “sẽ cần phải có một tập thể chung” 
giữa các ngân hàng, nhà quản lý và các công ty 
công nghệ. Bên cạnh đó, thách thức về sự riêng 
tư, bảo mật, khả năng mở rộng cũng là những 
vấn đề cần xem xét. Blockchain có thể là giải 
pháp công nghệ tiềm năng cho ngành tài chính 
ngân hàng, tuy nhiên nó còn cần phải tiếp tục 
được hoàn thiện, phát triển về công nghệ, giảm 
thiểu chi phí khi áp dụng và khắc phục các vấn 
đề khác đang tồn tại. ■
tiếp theo trang 36
liệu nhằm báo cáo mức lợi nhuận ổn định. Do 
đó, các nghiên cứu tương lai có thể phát triển 
các mô hình nghiên cứu nhằm tìm kếm bằng 
chứng bổ sung để có thể đưa ra kết luận về việc 
có NHTM có thực sự thao túng số liệu để ổn 
định lợi nhuận hay không, và các công cụ nào 
hay ước tính kế toán nào có thể bị lợi dụng để 
ổn định lợi nhuận. ■

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_phat_trien_tai_chinh_toan_dien_tai_mot_so_quoc_g.pdf