Kiến thức, thái độ, kỹ năng sử dụng Oresol của các bà mẹ có con tiêu chảy cấp tại khoa nhi bệnh viện Bạch Mai
Mục tiêu. Khảo sát kiến thức, thái độ, và quan sát kỹ năng sử dụng ORS ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC.
Phương pháp. Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang từ 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC tại Khoa Nhi Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2007 bằng bộ câu hỏi điều tra và quan sát theo bảng kiểm.
Kết quả. Nghiên cứu cho thấy: (1) 58,8% các bà mẹ biết một phần tác dụng của ORS, 41,2% biết được 2
loại gói ORS có bán ở các hiệu thuốc, 72,9% không biết thành phần gói ORS và 21,2% biết sai lượng dịch ORS
cho trẻ uống khi đang TCC; (2) 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch thay thế ORS, nhưng có tới 65,9% không biết
cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC; (3) 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt
cho con của họ và 94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ bị TCC lần sau; (4) 92,9% có kiểm tra ORS tr-
ước khi pha, là 58,6% pha ORS đúng quy trình, có 89,4% các bà mẹ cho uống ORS đúng; (5) Trong số các bà mẹ
pha ORS sai có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần
Kết luận. Kết quả nghiên cứu này cho thấy: cần tiếp tục chương trình CDD, tập trung vào thông tin
về tác dụng ORS và cách nuôi dưỡng trẻ khi tiêu chảy và cách pha ORS đúng quy cách để tránh những tai
biến điều trị đáng tiếc.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, kỹ năng sử dụng Oresol của các bà mẹ có con tiêu chảy cấp tại khoa nhi bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Chuyên đề Nhi Khoa 88 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON TIÊU CHẢY CẤP TẠI KHOA NHI BỆNH VIỆN BẠCH MAI Phan Thị Cẩm Hằng*, Nguyễn Văn Bàng* TÓM TẮT Mục tiêu. Khảo sát kiến thức, thái độ, và quan sát kỹ năng sử dụng ORS ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC. Phương pháp. Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang từ 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC tại Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2007 bằng bộ câu hỏi điều tra và quan sát theo bảng kiểm. Kết quả. Nghiên cứu cho thấy: (1) 58,8% các bà mẹ biết một phần tác dụng của ORS, 41,2% biết được 2 loại gói ORS có bán ở các hiệu thuốc, 72,9% không biết thành phần gói ORS và 21,2% biết sai lượng dịch ORS cho trẻ uống khi đang TCC; (2) 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch thay thế ORS, nhưng có tới 65,9% không biết cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC; (3) 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt cho con của họ và 94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ bị TCC lần sau; (4) 92,9% có kiểm tra ORS tr- ước khi pha, là 58,6% pha ORS đúng quy trình, có 89,4% các bà mẹ cho uống ORS đúng; (5) Trong số các bà mẹ pha ORS sai có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần Kết luận. Kết quả nghiên cứu này cho thấy: cần tiếp tục chương trình CDD, tập trung vào thông tin về tác dụng ORS và cách nuôi dưỡng trẻ khi tiêu chảy và cách pha ORS đúng quy cách để tránh những tai biến điều trị đáng tiếc. Từ chủ: Bà mẹ, kiến thức, kỹ năng, thái độ, tiêu chảy cấp, oresol. ABSTRACT KNOWLEDGE, ATTITUDE AND SKILL OF UTILIZATION OF ORS IN MOTHERS OF CHILDREN WITH ACUTE DIARRHEA ADMITTED IN BACH MAI HOSPITAL Phan Thi Cam Hang, Nguyen Van Bang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 88 – 93 Objective. To assess knowledge, attitude and skill of mothers taking care their children suffering from acute diarrhea by managing ORS. Population and methods. This cross-sectional study was carried out on a population of 85 young mothers. Results. The study showed that: (1) 58.8% of mothers were aware of usefulness of ORS, 41.2% were aware of at least 2 kinds of ORS packet existing in the pharmacy, 72.9% ignored the composition of ORS packet and 21.2% ignored correct amount of ORS necessary to rehydrate a child with acute diarrhea. (2) 57.6% of mothers had appropriate knowledge on other solutions possible to use in case of shortage or lack of ORS; however, up to 65.9% lacked knowledge on adequate feeding a child with acute diarrhea. (3) 69.4% of mothers got ORS packets at home, 88,2% considered that ORS was helpful in diarreal children and 94.1% thinked of using ORS again if their child suffered from diarrhea. (4) 92.9% of mothers checked the quality of ORS packet before using, 58.6% knew how to prepare correctly solution from the ORS packet, 89.4% of mothers knew how to rehydrate correctly their child by ORS. (5) 100% of 29 mothers, who did not know to prepare correctly the solution, devided the content of ORS packet into several preparations. * Bộ môn Nhi, ĐHYHN Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Nhi Khoa 89 Conclusion. Results from the study suggest that it’s primary and crutial to maintain the program of Control of Diarrheal Disease focussing on improvement of knowledge and skills of mothers in ORS usage during taking care of their children with acute diarrhea. Key-words: Acute diarrhea, attitude, knowledge, skill, oresol, mothers. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiêu chảy cấp (TCC) vẫn là một trong những bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất, là gánh nặng kinh tế xã hội đối với nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), hàng năm có khoảng gần 1 tỷ trẻ em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy cấp. Trung bình mỗi trẻ mắc 1,3 lượt/năm, trong đó có hơn 3 triệu trẻ tử vong(10). Liệu pháp điều trị phục hồi dịch và điện giải để điều trị và dự phòng mất nước do tiêu chảy đã được hướng dẫn và tuyên truyền rộng rãi trên thế giới cũng như ở Việt Nam(1-9). Ở nước ta hiện nay, 90% trẻ em dưới 5 tuổi được bảo vệ bởi chương trình này(6,7,10). Hiệu quả của liệu pháp này phụ thuộc vào sự hiểu biết và nhất là sự chấp nhận và kỹ năng sử dụng dung dịch oresol (ORS) của người mẹ hoặc của người chăm sóc trẻ. Vì vậy, việc nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hành của bà mẹ trong việc sử dụng ORS đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc điều trị tiêu chảy ở trẻ. Đã có khá nhiều nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ trong dự phòng và điều trị trẻ tiêu chảy ở Việt Nam(1-7), nhưng chưa có nhiều nghiên cứu đi sâu đánh giá riêng về kiến thức, thái độ và kỹ năng của các bà mẹ trong việc sử dụng ORS để bù dịch và điện giải cho trẻ TCC. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm (1) khảo sát kiến thức và thái độ của các bà mẹ có con bị tiêu chảy cấp đối với việc sử dụng ORS, (2) đánh giá kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ khi trẻ đang bị tiêu chảy cấp được điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đối tượng nghiên cứu Là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi bị TCC vào điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5-2007. Khảo sát kiến thức và thái độ trong việc sử dụng ORS của bà mẹ bằng nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang, dựa vào bộ câu hỏi được xây dựng theo mục tiêu nghiên cứu(1,4,6). Đánh giá kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ được dựa vào các bảng kiểm đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam và trên thế giới(1,7,8-10). Xử lí số liệu theo phần mềm Epi Info 6.0 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 1 đến tháng 5-2007 có 85 trẻ dưới 5 tuổi bị TCC vào điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai trong đó 56 trẻ trai (66%), 43 trẻ (50,6%) dưới 12 tháng, 30 (35,3%) từ 12-24 tháng, 39 trẻ mất nước độ A (46%), 45 trẻ độ B (53% và 1 trẻ mất nước độ C. Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu được trình bày trong bảng 1. Bảng 1 Đặc điểm cơ bản của 85 bà mẹ có con TCC trong nhóm nghiên cứu Đặc điểm Phân loại n Tỷ lệ % Tuổi mẹ 30 tuổi 58 68,2 >30 tuổi 27 31,8 Trình độ văn hóa mẹ Phổ thông 25 29,4 Trung học, cao đẳng 24 28,2 Đại học, trên đại học 36 42,2 Nghề nghiệp mẹ Lao động gián tiếp (trí thức, văn phòng) 56 65,9 Nghề khác 29 34,1 Kết quả khảo sát về kiến thức, thái độ và kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ được trình bày trong các bảng 2,3,4. Những sai sót chủ yếu trong việc sử dụng ORS của các bà mẹ trình bày trong bảng 5. Bảng 6 trình bày kết quả đánh giá một số yếu tố liên quan đến kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Chuyên đề Nhi Khoa 90 Bảng 2. Kiến thức sử dụng ORS của 85 bà mẹ trong nhóm nghiên cứu Kiến thức Phân loại n Tỷ lệ % Biết loại ORS Biết 1 loại 12 14,1 Biết 2 loại 35 41,2 Biết 3 loại 6 7,1 Không biết 32 37,6 Biết thành phần gói ORS Đúng hoàn toàn 0 0 Đúng một phần 22 25,9 Sai 1 1,2 Không biết 62 72,9 Biết lượng ORS cho trẻ uống Đúng hoàn toàn 12 14,1 Đúng một phần 48 56,5 Sai 18 21,2 Không biết 7 8,2 Biết tiếp tục cho ăn hoặc bú sữa mẹ Đúng 29 34,1 Sai 56 65,9 Bảng 3. Thái độ của 85 bà mẹ đối với việc sử dụng ORS khi trẻ bị TCC Thái độ Phân loại n Tỷ lệ% Có sẵn ORS ở nhà Có 59 69,4 Không 26 30,6 Đánh giá tác dụng điều trị TCC bằng ORS Tốt 75 88,2 Chưa tốt 5 5,9 Không tốt 0 0 Không biết 5 5,9 Chấp nhận sử dụng ORS khi trẻ bị TCC lần sau Tiếp tục dùng ORS 80 94,1 Chưa biết 4 4,7 Không dùng nữa 1 * 1,2 Bảng 4. Kỹ năng sử dụng ORS của 70 bà mẹ có con TCC được quan sát Kỹ năng Phân loại n Tỷ lệ% Kiểm tra gói ORS trước khi pha Có 65 92,9 Không 5 7,1 Nhận biết chất lượng gói ORS Biết ≥2 biểu hiện 23 35,4 Biết 1 biểu hiện 40 61,5 Không biết 2 3,1 Theo đúng quy trình pha ORS Đúng 41 58,6 Sai 29 41,4 Cho uống ORS đúng cách Đúng hoàn toàn 36 42,4 Đúng một phần 41 48,2 Sai 8 9,4 Bảng 5. Các sai sót trong cách pha và cho uống ORS của 29 bà mẹ Kỹ năng sai Phân loại n Tỷ lệ % Khi pha ORS Không rửa tay 4 13,8 Không tráng dụng cụ 1 3,4 Đo lượng nước không chính xác 7 24,1 Không pha cả gói ORS trong 1 lần pha 29 100 Không đậy nắp bình 6 20,7 Dùng quá 24 giờ 1 3,4 Khi cho trẻ uống ORS Chọn dụng cụ sai 13 26,5 Xử trí sai khi trẻ không chịu uống 17 34,7 Xử trí sai khi trẻ nôn 20 40,8 Bảng 6. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ Các yếu tố ảnh hưởng Sử dụng ORS đúng Kiểm tra (n=65) Pha (n=70) Cho uống (n=85) Tuổi mẹ 30 tuổi 14/43 27/47 24/58 >30 tuổi 9/22 14/23 12/27 Nghề mẹ Lao động gián tiếp 19/48 33/50* 26/56 Nghề khác 4/17 8/20 10/29 Học vấn mẹ Phổ thông 1/13* 6/15 11/25 CĐ, ĐH 22/52 35/55 35/60 Lần điều trị Lần đầu 21/59 35/63 32/78 Lần thứ 2 2/6 6/7 4/7 Lần TCC Lần đầu 11/32 22/41 23/48 Lần thứ 2 12/33 19/29 13/37 * p<0,05 BÀN LUẬN Khi được hỏi về tác dụng của ORS, chỉ có 21,2% các bà mẹ trả lời đúng là ORS dùng để bù nước và điện giải; 58,8% các bà mẹ trả lời được một phần tác dụng của ORS như chống mất nước, bù nước. Có 2,4% trả lời sai như làm ngừng tiêu chảy, hạ sốt, giữ nước, tăng sức đề kháng. Có tới 17,6% các bà mẹ không biết ORS có tác dụng gì, do vậy vẫn cần nâng cao hiểu biết của bà mẹ hơn nữa để họ có thể sử dụng ORS để điều trị và phòng bệnh TCC chủ động hơn. Khi được hỏi về thành phần gói ORS chỉ có 11 bà mẹ (12,9%) trả lời đuợc là có muối, đường và điện giải, trong khi nghiên cứu tại Nigeria có 1/3 số người được hỏi có sử dụng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Nhi Khoa 91 ORS và hơn 80% trong số đó biết thành phần gói ORS(8). Đa số các bà mẹ đều không trả lời chính xác lượng ORS cần cho uống là bao nhiêu, các câu trả lời hầu hết là 1,2 gói một ngày, 200- 500ml mỗi ngày. Chỉ có 14,1% các bà mẹ biết đúng cần phải cho ntrẻ uống bao nhiều khi vẫn tiêu chảy cấp. Tỷ lệ này là rất thấp, tương đương như trong nghiên cứu ở Zimbabwe và Thái Lan(9). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 57,6% các bà mẹ biết loại dịch thay thế ORS đúng như nước cháo muối, nước đường muối, nước lọc, nước hoa quả. Có 11,8% các bà mẹ biết sai như nước muối pha loãng, nước đường pha đậm đặc, nước quả hồng xiêm rang hay các loại nước chế biến từ các vị thuốc đông y có tác dụng cầm ỉa và 30,6% các bà mẹ không biết loại dịch thay thế ORS. Lâm Văn Thư (1998) nghiên cứu tại Lạng Sơn thấy có 18,5% và Lê Nguyễn Ngọc (2000 tại Cao Bằng) thấy 34% biết dùng nước cháo muối tại nhà khi con bị tiêu chảy; Ngô Thị Thanh Hương (2004 tại Đak Lak), thấy 37,72% biết dùng dung dịch thay thế(6). Tuy tỷ lệ các bà mẹ biết dịch thay thế trong nghiên cứu của chung tôi có cao hơn các nghiên cứu tên đây, nhưng vẫn còn 30,6%) các bà mẹ chưa biết dịch thay thế trong nghiên cứu này cho thấy vẫn cần tiếp tục tuyên truyền giáo dục, thậm chí cần hướng dẫn các bà mẹ về các dung dịch thay thế ORS tại nhà cũng như cách pha chế các loại dịch đó đúng cách để chương trình phòng chống tiêu chảy cấp và điều trị mất nước đạt hiệu quả như mong muốn. Một trong những nguyên tắc quan trọng của điều trị TCC tại nhà đó là cho trẻ ăn nhiều thức ăn giàu dinh dưỡng để đề phòng suy dinh dưỡng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 34,1% các bà mẹ trả lời đúng c ỏch cho trẻ ăn khi đang bị TCC. Đa số các bà mẹ đều cho con ăn ít hơn bình thường hoặc chỉ cho ăn cháo loãng. Nguyễn Thị Như Mai nghiên cứu năm 2006 tại viện Nhi Trung ương thấy tỉ lệ cho ăn đúng là 71,8%(7). Qua đó ta thấy việc tuyên truyền giáo dục bà mẹ cho trẻ ăn đúng cách khi bị TCC cần được tăng cường hơn nữa, bởi thói quen không cho trẻ ăn đủ chất khi bị TCC hoặc ăn ít hơn bình thường, thậm chí không cho ăn vì sợ trẻ đi ngoài nhiều hơn, đã làm giảm hiệu quả điều trị TCC Một trong những tiêu chí mà chúng tôi cho là để đánh giá thái độ của bà mẹ đối với việc sử dụng ORS đó là việc các bà mẹ có dự trữ sẵn ORS ở nhà. Kết quả cho thấy có 59 bà mẹ (69,4%) có sẵn ORS ở nhà. Khi được hỏi ORS có tốt cho trẻ khi bị TCC không, có 88,2% các bà mẹ trả lời ORS tốt, 5,9% trả lời ORS chưa tốt lắm và 5,9% trả lời không biết ORS có tốt không. Như vậy, việc nâng cao hiểu biết cho các bà mẹ là cần thiết để họ có kiến thức đầy đủ về ORS hơn, chấp nhận sử dụng thường xuyên hơn. Đa số các bà mẹ (94,1%) trả lời là sẽ tiếp tục dùng với các lí do như họ thấy ORS tốt hay các bác sĩ khuyên nên dùng. Có 4,7% các bà mẹ không biết sẽ dùng hay không với lí do chờ ý kiến của bác sĩ, hay nếu điều trị lần này khỏi thì lần sau sẽ dùng tiếp, chỉ có 1,2% các bà mẹ trả lời sẽ hỏi ý kiến bác sĩ trước mà không dùng ORS ngay. Qua đó ta thấy rằng việc điều trị tại bệnh viện có sự hướng dẫn của nhân viên y tế đem lại lòng tin cho các bà mẹ nen h? chấp nhận việc sử dụng ORS một cách dễ dàng hơn. Trong số các bà mẹ được phỏng vấn có 82,4% đã từng sử dụng ORS ít nhất là một lần. Kết quả này cao hơn kết quả của Ngô Thị Thanh Hương năm 2004 tại Đak Lak (56,2%) và của Bùi Thị Thúy Ái năm 2000 tại Thanh Xuân, Hà Nội (56,2%)(1,6). Khi quan sát 70 bà mẹ đã từng pha ORS, có 65 bà mẹ chiếm 92,9% có kiểm tra gói ORS trước khi pha, trong số các bà mẹ kiểm tra gói ORS có 35,4% các bà mẹ nhận biết từ 2 biểu hiện trở lên của gói ORS không đảm bảo chất lượng để bỏ gói ORS ấy đi không dùng. Có 61,5% các bà mẹ chỉ nhận biết được một biểu hiện và 3,1% dù có kiểm tra nhưng không nhận biết được. Đa số các bà mẹ đều biết không được dùng khi gói ORS đã quá hạn nhưng lại không biết cách phát hiện gói ORS thủng, rách từ trước, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Chuyên đề Nhi Khoa 92 màu chất ORS thay đổi, chất ORS vón cục hay khi pha ra nếm thấy có vị khác lạ. Tỉ lệ các bà mẹ biết kiểm tra gói ORS trước khi pha ORS trong nghiên cứu này là tương đối cao. Trong số 70 bà mẹ được quan sat khi pha ORS, có 41 bà mẹ (58,6%) pha đúng tất cả các bước rửa tay và tráng dụng cụ pha, dụng cụ chứa, đồ dùng để uống trước khi pha ORS, đo lượng nước chính xác, dùng nước sôi để nguội, pha cả gói ORS trong một lần pha, đậy nắp bình và dụng cụ chứa, chỉ dùng dung dịch đã pha trong 24 giờ. Tỉ lệ này tương đương với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai (2006) có 54,5% pha dung dịch ORS đúng(7). nhưng cao hơn trong nghiên cứu của Lưu Thị Minh Châu (2001) có 39% các bà mẹ pha dung dịch ORS đúng(4). Trong số 29 bà mẹ pha dung dịch ORS sai trong nghiên cứu của chúng tôi, có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần. Mặc dù tỉ lệ này không cao (so với các bà mẹ biết cách pha đúng) nhưng chúng tôi cho rằng cần nâng cao trình độ hiểu biết của các bà mẹ hơn nữa để tránh tình trạng dù bà mẹ có biết dung dịch ORS nhưng lại không biết cách pha đúng liều lượng khiến cho trẻ bị rối loạn nước và điện giải, đặc biệt là ngộ độc muối rất nguy hiểm, khó điều trị do pha ORS quá đặc. Trong nghiên cứu của chúng tôi có trường hợp bệnh nhi Vũ Anh D. 15 tháng tuổi vào viện trong tình trạng mất nước nặng do mẹ cho uống nước quả hồng xiêm rang và nước đường đậm đặc. Kết quả điện giải đồ ngày đầu tiên vào viện của bệnh nhi đó như sau: Na+: 161 mmol/l, K+: 2,5 mmol/l, Cl-: 137mmol/l. Chúng tôi có thử tìm hiểu sự tác động của một số thông số nghiên cứu lên kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ có con TCC được nghiên cứu, nhưng chỉ thấy có vai trò của học vấn của bà mẹ (các bà mẹ học trên phổ thông có kỹ năng kiểm tra gói ORS tốt hơn) và của nghề nghiệp mẹ (các bà mẹ làm lao động văn phòng, trí thức có tỷ lệ pha đúng ORS cao hơn các bà mẹ lao động tay chân). Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn bé, nên việc đánh giá tác động của các yếu tố ảnh hưởng còn rất hạn chế. Cần có nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để đánh giá chính xác và sâu hơn về lĩnh vực này. KẾT LUẬN Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang khảo sát kiến thức, thái độ, và quan sát kỹ năng sử dụng ORS ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC tại Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2007 chúng tôi thu được kết quả như sau: - Có 58,8% các bà mẹ biết một phần tác dụng của ORS, 41,2% biết được 2 loại gói ORS có bán ở các hiệu thuốc, 72,9% không biết thành phần gói ORS và 21,2% biết sai lượng dịch ORS cho trẻ uống khi đang TCC. - Có 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch thay thế ORS, nhưng có tới 65,9% không biết cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC. - Có 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt cho con của họ và 94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ bị TCC lần sau. - Có 92,9% có kiểm tra ORS trước khi pha, là 58,6% pha ORS đúng quy trình, có 89,4% các bà mẹ cho uống ORS đúng. - Trong số các bà mẹ pha ORS sai có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần Qua kết quả nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy: còn một tỷ lệ khá lớn bà mẹ chưa có đủ kiến thức về thành phần, tác dụng của ORS và nhất là cách cho trẻ ăn trong và sau tiêu chảy. Cần tiếp tục chương trình CDD, tập trung vào thông tin về tác dụng ORS và cách nuôi dưỡng trẻ khi tiêu chảy. Mặt khác, cần có thêm những thông tin cụ thể về những tai nạn do sử dụng ORS sai để giúp bà mẹ tránh những tai biến điều trị đáng tiếc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Bùi Thị Thúy [i (2000), Đánh giá kiến thức, thực hành về cách phòng và xử trí bệnh tiêu chảy của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại quận Thanh Xuân, Hà Nội năm 2000, Luận văn thạc sĩ Y học, Đại học Y tế công cộng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Nhi Khoa 93 2 Lâm Văn Thư (1998), Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của bà mẹ liên quan đến việc điều trị tiêu chảy tại nhà ở huyện Lộc Bình năm 1998, luận văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp 1, trường đại học Y Hà Nội. 3 Lê Nguyễn Ngọc (2000), Đánh giá kiến thức về phòng bệnh tiêu chảy của các bà mẹ nuôi con dưới 5 tuổi tại xã Nam Tuấn huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng năm 2001, Luận văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp 1, Đại học Y Hà Nội. 4 Lưu Thị Minh Châu (2001), Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ đối với việc phòng chống tiêu chảy cấp ở trẻ em dưới 1 tuổi tại huyện Khoái Châu, Hưng Yên năm 2001, tạp chí Y học thực hành 2002 số 7, trang 21. 5 Nghiêm Thị Dinh (2006), Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 10 tuổi và kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ tại thị trấn Lim, tỉnh Bắc Ninh năm 2005, Luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng, trường đại học Y Hà Nội. 6 Ngô Thị Thanh Hương (2004), Kiến thức, thực hành của bà mẹ về bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện M.Đrak tỉnh Đak Lak năm 2004, luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng, Đại học Y Hà Nội. 7 Nguyễn Thị Như Mai (2006), Đánh giá kiến thức và thực hành một số bà mẹ có con bị tiêu chảy cấp tại khoa tiêu hóa bệnh viện Nhi Trung ương, Luận văn tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng, Đại học Y Hà Nội. 8 Okete TA, Okafor HU, Amah AC, Onwuasigwe CN, Ndu AC (1998), Diarrhoea in children of Nigeria market women: prevalance, knowlegde of cause and management. 9 Shaw DD, Jacobsen CA, Konare KF, Isa AR (1998), Knowlegde and the use of oral rehydration therapy for childhood diarrhoea in Trumpat district, Thailand. 10 WHO (1985), The management of Diarrhoea and use of Oral Rehydration therapy/ Ajoint WHO/UNICEF statement, WHO, Geneva
File đính kèm:
- kien_thuc_thai_do_ky_nang_su_dung_oresol_cua_cac_ba_me_co_co.pdf