Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc

tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực

hiện theo quy định của pháp luật.

2. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp

hợp pháp mà vẫn không xác định được chính

xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác

định:

a) Trường hợp xác định được tháng

nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày

cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

b) Trường hợp xác định được quý nhưng

không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày

cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó

làm ngày, tháng sinh.

c) Trường hợp xác định được nửa của

năm nhưng không xác định được ngày, tháng

thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng

trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

d) Trường hợp xác định được năm nhưng

không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày

cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó

làm ngày, tháng sinh.

3. Trường hợp không xác định được năm

sinh thì phải tiến hành giám định để xác định

tuổi.”

pdf 9 trang kimcuc 2960
Bạn đang xem tài liệu "Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
15Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
Theo pháp luật hiện hành, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được quy định tại Chương 28, Phần 
thứ 7 BLTTHS năm 2015 và được hướng 
dẫn cụ thể trong Thông tư liên tịch số 
06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân 
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ 
Lao động-Thương binh và Xã hội Về phối 
hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố 
tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người 
dưới 18 tuổi (TTLT số 06/2018) và Thông tư 
số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 
của Tòa án nhân dân tối cao Quy định chi 
tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham 
gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm 
quyền của Tòa gia đình và người chưa thành 
niên. Qua nghiên cứu những quy định này, 
tác giả nhận thấy quy định của BLTTHS 
năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người 
dưới 18 tuổi còn một số bất cập cần được 
sửa đổi, bổ sung rõ ràng, đầy đủ và hợp lý 
hơn. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến 
những vấn đề cụ thể sau:
1. Về việc xác định tuổi của người 
dưới 18 tuổi
Theo quy định tại Điều 417 BLTTHS 
năm 2015, việc xác định tuổi của người bị 
buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi được 
quy định như sau: 
“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc 
tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ 
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA 
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG 
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
* Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về thủ tục tố 
tụng đối với người dưới 18 tuổi đã có những bổ sung, thay đổi đáng kể nhằm 
khắc phục những bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục 
này nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Những hạn chế đó không chỉ 
không bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi mà còn làm cho việc 
giải quyết vụ án khó đạt hiệu quả cao.
Từ khóa: Thủ tục tố tụng; người dưới 18 tuổi; quyền trẻ em; Bộ luật tố 
tụng hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung điều luật.
Ngày nhận bài: 28/02/2020; Ngày biên tập xong: 10/3/2020; Ngày duyệt 
đăng: 10/4/2020.
The 2015 Criminal Procedure Code’s provisions on legal proceedings for 
persons under 18 years of age have been amended and supplemented to 
overcome shortcomings in the 2003 one; however, still remained some 
limitations. They not only do not guarantee the best benefits for persons under 18 
but also make it difficult to solve the cases effectively. 
Keywords: Legal proceedings; persons under 18 years of age; rights of 
children; the 2015 Criminal Procedure Code; amendment and supplementation.
PHAN THỊ THANH MAI *
16
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT... 
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực 
hiện theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp 
hợp pháp mà vẫn không xác định được chính 
xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác 
định:
a) Trường hợp xác định được tháng 
nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày 
cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
b) Trường hợp xác định được quý nhưng 
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày 
cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó 
làm ngày, tháng sinh.
c) Trường hợp xác định được nửa của 
năm nhưng không xác định được ngày, tháng 
thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng 
trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
d) Trường hợp xác định được năm nhưng 
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày 
cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó 
làm ngày, tháng sinh.
3. Trường hợp không xác định được năm 
sinh thì phải tiến hành giám định để xác định 
tuổi.”
Quy định này được hướng dẫn cụ thể 
tại Điều 6 TTLT số 06/2018 như sau: (1) Việc 
xác định tuổi của người bị buộc tội, người 
bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong 
các giấy tờ, tài liệu sau: giấy chứng sinh; 
giấy khai sinh; chứng minh nhân dân; thẻ 
căn cước công dân; sổ hộ khẩu; hộ chiếu. 
(2) Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu tại 
khoản 1 Điều này có mâu thuẫn, không 
rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này 
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố 
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố 
tụng phải phối hợp với gia đình, người 
đại diện, người thân thích, Nhà trường, 
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 
hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi 
người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh 
hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh 
làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài 
liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của 
người đó. Trường hợp đã áp dụng các biện 
pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được 
khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc 
nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy 
từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 
Điều 417 BLTTHS để xác định tuổi của họ; 
(3) Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ 
xác định được khoảng độ tuổi của người bị 
buộc tội, người bị hại thì cơ quan có thẩm 
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm 
quyền tiến hành tố tụng lấy tuổi thấp nhất 
trong khoảng độ tuổi đã xác định được để 
xác định tuổi của họ.
Việc xác định tuổi của người bị buộc 
tội, người bị hại dưới 18 tuổi mặc dù đã 
được quy định và hướng dẫn cụ thể, tuy 
nhiên, theo chúng tôi, quy định này vẫn 
còn có một số bất cập như sau:
Thứ nhất, về việc xác định tuổi của 
người bị hại: Việc xác định tuổi của người 
dưới 18 tuổi là vấn đề rất quan trọng trong 
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ở góc 
độ luật hình sự, việc xác định tuổi của nạn 
nhân có ý nghĩa trong việc xác định hành 
vi có cấu thành tội phạm hay không, xác 
định tội danh, định khung hình phạt, quyết 
định hình phạt. Ở góc độ luật tố tụng hình 
sự, việc xác định tuổi của bị hại có ý nghĩa 
quyết định trong việc lựa chọn thủ tục tố 
tụng để giải quyết vụ án đối với họ. 
Việc xác định tuổi người bị hại căn cứ 
vào giấy khai sinh. Tuy nhiên, trong thực 
tiễn tố tụng, vẫn còn gặp những trường hợp 
bị hại không có giấy khai sinh, có giấy khai 
sinh nhưng chỉ ghi năm sinh hoặc nhiều 
giấy khai sinh với nội dung khác nhau. 
Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm 
17Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành các 
biện pháp hợp pháp để xác định tuổi của 
người bị hại như căn cứ vào các giấy tờ, 
tài liệu (sổ hộ khẩu, học bạ, căn cước...), lời 
khai của người bị hại và những người biết 
ngày sinh của người bị hại. Nếu đã áp dụng 
các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác 
định chính xác được thì theo quy định tại 
khoản 2 Điều 147 BLTTHS năm 2015, ngày, 
tháng, năm sinh của người bị hại được xác 
định theo hướng có lợi cho người bị hại.
Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 417 
BLTTHS năm 2015 đã có sự khác biệt căn bản 
so với Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT- 
VKSNDTC-TANDTC-BTP-BCA-BLĐTBXH 
ngày 12/7/2011 hướng dẫn cách xác định 
độ tuổi đối với bị can, bị cáo và người bị 
hại là người chưa thành niên (TTLT số 
01/2011) về cách xác định độ tuổi của bị 
hại dưới 18 tuổi, đó là xác định độ tuổi 
của bị hại quy định theo hướng bất lợi cho 
người bị buộc tội, ngược lại với nguyên 
tắc suy đoán vô tội.
Hiện nay, có các quan điểm khác nhau 
về quy định tại khoản 2 Điều 417 BLTTHS 
năm 2015 về việc xác định tuổi của người 
bị hại.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, 
BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể 
vấn đề xác định tuổi của người bị buộc tội 
và người bị hại dưới 18 tuổi. Đây là quy 
định thể hiện tinh thần quán triệt sâu sắc 
nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất cho 
người chưa thành niên” phù hợp với các 
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành 
viên. Theo đó, nguyên tắc “lợi ích tốt nhất 
của trẻ em” quy định trong Điều 3 Công 
ước quyền trẻ em được coi là trọng tâm 
trong việc ứng xử với người chưa thành 
niên là bị hại. Nguyên tắc này có tầm quan 
trọng đặc biệt, là kim chỉ nam khi xem xét 
vai trò của trẻ em trong quy trình tư pháp.1 
Việc quy định cách xác định tuổi tại khoản 
2 Điều 417 BLTTHS năm 2015 bảo đảm việc 
giải quyết vụ án liên quan đến người chưa 
thành niên trong những trường hợp cần 
thiết được thuận lợi, kịp thời, vừa bảo đảm 
thực hiện nguyên tắc có lợi đối với người 
chưa thành niên phạm tội, đồng thời bảo 
vệ được tốt hơn quyền và lợi ích của người 
bị hại là người chưa thành niên trước sự 
xâm hại của tội phạm.2
- Quan điểm thứ hai cho rằng, cách xác 
định tuổi của người bị hại là người dưới 18 
tuổi quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 
2015 tuy đã tạo được sự công bằng giữa 
người bị buộc tội và người bị hại trong việc 
xác định tuổi, nhưng nếu dùng để truy cứu 
trách nhiệm hình sự và xác định mức độ 
trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc 
tội thì lại gây bất lợi cho người bị buộc tội, 
vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Quan 
điểm này cho rằng cần sửa đổi khoản 2 
Điều 417 BLTTHS, xác định tuổi của người 
bị hại theo hướng có lợi cho người bị buộc 
tội như hướng dẫn tại TTLT số 01/2011.3
1 Nguyễn Thị Lộc (2017), Vấn đề xác định tuổi của 
người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của 
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học 
Kiểm sát, số 1/2017, trang 33.
2 Nguyễn Hòa Bình chủ biên (2016), Những nội 
dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, 
Nxb Chính trị quốc gia, trang 356.
3 Trần Xuân Thiên An, Tìm hiểu về việc xác định tuổi 
của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi 
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, 
đăng ngày 3/7/2017, 
tin-tuc/tim-hieu-ve-viec-xac-dinh-tuoi-cua-nguoi-
bi-buoc-toi-nguoi-bi-hai-la-nguoi-duoi-18-tuoi-
theo-quy-dinh-cua-bltths-nam-2015-3273.html, 
truy cập ngày 28/4/2019; 
Đinh Văn Quế, Xác định tuổi của người bị hại - 
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Kiểm 
sát số 10/2018, 
tuoi-cua-nguoi-bi-hai-50249.html, đăng ngày 
10/7/2018, truy cập ngày 28/4/2019.
18
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT... 
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
Cả hai quan điểm đều dựa trên những 
nguyên tắc đã được thừa nhận chung: 
Quan điểm một dựa trên nguyên tắc “lợi 
ích tốt nhất cho trẻ em phải là mối quan 
tâm hàng đầu” được quy định trong Công 
ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em; 
còn quan điểm hai dựa trên “nguyên tắc 
suy đoán vô tội” được nêu trong Công ước 
của Liên hợp quốc về các quyền dân sự, 
chính trị. Theo tác giả, trong hai quan điểm, 
quan điểm thứ hai có sức thuyết phục hơn 
vì người bị buộc tội là trung tâm của tố 
tụng hình sự và nguyên tắc suy đoán vô tội 
là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. 
Hơn nữa, nếu theo quan điểm một, nguyên 
tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải là mối 
quan tâm hàng đầu” sẽ khó áp dụng nếu 
trong vụ án cả bị hại và người bị buộc tội 
đều là người dưới 18 tuổi. Khi đó, chúng ta 
buộc phải áp dụng nguyên tắc suy đoán vô 
tội cho người bị buộc tội để xác định tuổi 
người bị hại. 
Về việc xác định tuổi của người bị buộc 
tội, Ủy ban về quyền trẻ em tuyên bố: “Nếu 
không có bằng chứng về độ tuổi thì trẻ em 
có quyền được kiểm tra về y tế, xã hội theo 
phương pháp tin cậy để có thể xác định 
tuổi của trẻ em đó. Trong trường hợp có 
xung đột hoặc bằng chứng không thuyết 
phục, trẻ em đó phải được hưởng quy tắc 
về lợi ích của sự nghi ngờ”.4 Tuy nhiên hiện 
nay, chưa có hướng dẫn nào của Liên hợp 
quốc về việc xác định tuổi của người bị hại 
để định hướng cho việc hoàn thiện pháp 
luật ở Việt Nam về vấn đề này. 
Theo tác giả, để có thể bảo đảm hai 
nguyên tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải 
4 Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2010), 
Quyền con người, tập hợp những bình luận và 
khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc 
(Ủy ban về quyền trẻ em, bình luận chung số 10 về 
quyền trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên, 
đoạn 39), Nxb Công an nhân dân, tr.789.
là mối quan tâm hàng đầu” và “suy đoán 
vô tội”, chúng ta có thể xác định tuổi của 
bị hại vào thời điểm người đó bị tội phạm 
xâm hại theo hướng có lợi cho người bị 
buộc tội (áp dụng nguyên tắc suy đoán 
vô tội) và xác định tuổi của bị hại vào thời 
điểm họ tham gia tố tụng theo hướng có lợi 
cho bị hại để họ được áp dụng thủ tục đối 
với người dưới 18 tuổi. Quy định như vậy 
có thể bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp 
cho bị hại dưới 18 tuổi, đồng thời bảo đảm 
quyền được suy đoán vô tội của người 
bị buộc tội, bảo đảm quyền được đối xử 
công bằng của các bên đối lập trong vụ án. 
Phương án này có thể dẫn đến việc không 
thống nhất trong cách xác định ngày tháng 
năm sinh của người bị hại, tuy nhiên bất 
cập này nhỏ hơn nhiều so với việc vi phạm 
nguyên tắc “suy đoán vô tội” hoặc nguyên 
tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải là mối 
quan tâm hàng đầu”.
Thứ hai, Điều 417 BLTTHS không quy 
định về việc xác định tuổi của người làm 
chứng là không đầy đủ. Tuổi của người 
làm chứng không ảnh hưởng đến việc 
truy cứu trách nhiệm hình sự của người 
bị buộc tội nhưng ảnh hưởng đến việc xác 
định thủ tục tố tụng được áp dụng đối với 
họ. Theo quy định hiện hành, phạm vi áp 
dụng thủ tục đối với người dưới 18 tuổi 
được áp dụng đối với cả người làm chứng 
dưới 18 tuổi. Vì vậy, cần phải bổ sung quy 
định về việc xác định tuổi đối với cả người 
làm chứng dưới 18 tuổi để bảo đảm lợi ích 
tốt nhất cho người làm chứng dưới 18 tuổi.
Về thuật ngữ pháp lý, theo chúng tôi, 
cần phải sử dụng thuật ngữ “bị hại” thay 
cho “người bị hại” trong Điều 417 để thống 
nhất với quy định tại Điều 62 BLTTHS năm 
2015 về bị hại.
Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến 
nghị sửa đổi bổ sung Điều 417 như sau:
19Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
Điều 417. Xác định tuổi của người bị 
buộc tội, bị hại, người làm chứng là người 
dưới 18 tuổi
1. Việc xác định tuổi của người bị buộc 
tội, bị hại, người làm chứng là người dưới 18 
tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố 
tụng thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. (giữ nguyên)
3. (giữ nguyên) 
4. Trong trường hợp đã áp dụng các biện 
pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được 
chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của bị hại 
được xác định:
a) Xác định tuổi của bị hại để truy cứu 
trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội: 
- Trường hợp xác định được tháng nhưng 
không xác định được ngày thì lấy ngày đầu 
tiên của tháng đó làm ngày sinh.
- Trường hợp xác định được quý nhưng 
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày 
đầu tiên của tháng đầu tiên trong quý đó làm 
ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được nửa của năm 
nhưng không xác định được ngày, tháng thì 
lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên trong nửa 
năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được năm nhưng 
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày 
đầu tiên của tháng đầu tiên trong năm đó làm 
ngày, tháng sinh.
b) Xác định tuổi của bị hại để áp dụng thủ 
tục đối với người dưới 18 tuổi thì trong mọi 
trường hợp được xác định theo quy định tại 
khoản 2 Điều này.
2. Về việc áp dụng hoạt động đối chất 
đối với người dưới 18 tuổi 
Theo quy định tại khoản 6 Điều 421 
BLTTHS, “chỉ tiến hành đối chất giữa bị 
hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị cáo 
để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong 
trường hợp nếu không đối chất thì không 
thể giải quyết được vụ án”. Hiện nay, 
không có quy định nào về việc đối chất 
giữa người làm chứng và bị can dưới 18 
tuổi với bị can đã thành niên. Theo ...  giải quyết được vụ án” cũng có nội dung 
tương tự. Đối chất được xác định như biện 
pháp cuối cùng, khi đã sử dụng các biện 
pháp điều tra khác mà không giải quyết 
được mâu thuẫn. Quy định tại khoản 6 
Điều 421 BLTTHS năm 2015 không mang 
tính chất đặc biệt, có tính ưu tiên áp dụng 
riêng đối với bị hại dưới 18 tuổi. Nếu chỉ 
với nội dung như vậy thì không cần thiết 
phải quy định trong thủ tục tố tụng đối với 
người dưới 18 tuổi. 
Thứ hai, hiệu quả của việc đối chất đối 
với người dưới 18 tuổi không cao và kết 
quả đối chất trong những trường hợp này 
rất khó có tính tin cậy. 
Việc đối chất rất phức tạp, phụ thuộc 
vào thái độ, tâm lý, hiểu biết của hai bên 
20
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT... 
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
tham gia đối chất và phụ thuộc rất nhiều 
vào trình độ chuyên môn, kĩ năng nghiệp 
vụ, thái độ khách quan của người tiến 
hành đối chất; kết quả của việc đối chất 
chưa chắc chắn để khẳng định hay bác bỏ 
lời khai của các bên. Mặt khác, nếu bị can 
im lặng, không trả lời câu hỏi của người 
tiến hành đối chất thì khi đó, việc đối chất 
cũng thất bại. Vì vậy, không nên trông chờ 
vào kết quả đối chất như là biện pháp sau 
cùng để giải quyết vụ án. Đặc biệt, việc cho 
người dưới 18 tuổi, nhất là trẻ em đối chất 
với bị can đã thành niên thì việc đối chất có 
khả năng cao là không đạt kết quả. Rất có 
thể họ khai đúng sự thật nhưng khi phải 
đối mặt với bị can, do căng thẳng, hoảng 
sợ nên họ đã im lặng hoặc thay đổi lời 
khai, dẫn đến việc đối chất nhằm bác bỏ 
lời khai gian dối của bị can, bị cáo thường 
không đạt kết quả.
Thứ ba, việc cho bị hại, người làm 
chứng, bị can dưới 18 tuổi đối chất với 
bị can đã thành niên là không bảo đảm 
nguyên tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải 
là mối quan tâm hàng đầu”. Không nên 
quy định bị hại dưới 18 tuổi phải đối chất 
với bị can đã thành niên vì họ có thể phải 
chịu những chấn thương nặng nề về tâm lý 
do phải đối mặt, đối chất với người đã xâm 
hại mình, tránh tình trạng bị hại trở thành 
“nạn nhân lần thứ hai” của hoạt động tố 
tụng. Cũng không nên quy định người làm 
chứng dưới 18 tuổi phải đối chất với bị can 
đã thành niên. Tâm lý chung của người 
làm chứng khi tham gia tố tụng hình sự 
là họ rất lo sợ bị trả thù, ngại lộ danh tính 
và không muốn phải đối chất với bị can, 
đặc biệt là người làm chứng dưới 18 tuổi. 
Vì vậy, việc người làm chứng dưới 18 tuổi 
phải đối chất với bị can, bị cáo sẽ gây ra 
những căng thẳng, lo lắng, hoảng sợ, ảnh 
hưởng tâm lý lâu dài đối với họ. 
Cũng cần hạn chế việc đối chất giữa 
bị can là người dưới 18 tuổi với bị can đã 
thành niên trong cùng một vụ án. Thực tế 
tình hình tội phạm cho thấy, có tình trạng 
các đối tượng phạm tội dụ dỗ, mua chuộc, 
xúi giục, ép buộc người dưới 18 tuổi phạm 
tội, thậm chí còn ép buộc con cháu mình 
phạm tội5, sử dụng người dưới 18 tuổi 
như một dạng “công cụ phạm tội”. Đối 
với vụ án có cả bị can đã thành niên và 
cả bị can dưới 18 tuổi, nhiều trường hợp 
bị can dưới 18 tuổi là người có hoàn cảnh 
đặc biệt như mồ côi cha mẹ, bị bỏ rơi, bị 
khuyết tật, phải bỏ học kiếm sống, bị tổn 
hại thể chất, tinh thần do bạo lực, bị bóc lột, 
bị mua bán v.v. Việc những đối tượng này 
phải đối chất với bị can đã thành niên, đặc 
biệt là người mà bị can dưới 18 tuổi phụ 
thuộc như bố mẹ, người đã ép buộc, xúi 
giục mình chắc chắn sẽ gây áp lực về tâm 
lý, gây ra những sang chấn, tổn thương về 
tinh thần đối với họ. 
Vì những lý do nêu trên, theo chúng 
tôi, nên sửa đổi quy định ở khoản 6 Điều 
421 theo hướng không cho bị hại, người 
làm chứng, bị can dưới 18 tuổi đối chất với 
bị can đã thành niên. Mặt khác, đối chất 
là hoạt động điều tra được thực hiện đối 
với bị can mà không thực hiện đối với bị 
cáo, vì vậy, khoản 6 Điều 421 BLTTHS quy 
định về việc đối chất với bị cáo là không 
cần thiết. Cụ thể, khoản 6 Điều 421 nên sửa 
đổi như sau:
Điều 421. Lấy lời khai người bị giữ 
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, 
người bị tạm giữ, người bị hại, người làm 
chứng; hỏi cung bị can; đối chất
5 SOS tình trạng ép trẻ em phạm tội, 
baodienbienphu.info.vn/tin-tuc/phap-luat/171257/
sos-tinh-trang-ep-tre-em-pham-toi, truy cập ngày 
15/2/2020.
21Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
6. Không tiến hành đối chất giữa người 
dưới 18 tuổi với bị can đã thành niên.
3. Về việc thống nhất và hướng dẫn 
một số quy định liên quan đến việc người 
đại diện của người dưới 18 tuổi
Thứ nhất, hiện nay, các quy định trong 
BLTTHS về địa vị pháp lý của người đại 
diện của người dưới 18 tuổi chưa thống 
nhất với nhau, dẫn đến việc nhận thức và áp 
dụng chưa thống nhất. Điều 420 BLTTHS 
về việc tham gia tố tụng của người đại 
diện, nhà trường, tổ chức quy định: Người 
đại diện của người dưới 18 tuổi có quyền 
và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết 
định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, 
Tòa án. Người đại diện của người dưới 18 
tuổi được tham gia việc lấy lời khai, hỏi 
cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, 
tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo...
Ngoài ra, quyền của người đại diện 
của người dưới 18 tuổi còn được quy định 
ở một số điều luật khác như quy định người 
đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi 
có quyền mời người bào chữa (Điều 75); có 
quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người 
bào chữa (khoản 3 Điều 77); quy định 
quyền của người đại diện của người bị hại 
tại Điều 62; quyền kháng cáo của người 
đại diện của bị cáo và người bị hại dưới 
18 tuổi tại khoản 1 Điều 331 Việc quy 
định không tập trung như vậy về mặt lập 
pháp là chưa rõ ràng, có thể dẫn đến việc 
xác định quyền của người đại diện không 
thống nhất, gây khó khăn cho người đại 
diện của người dưới 18 tuổi khi thực hiện 
quyền của họ, đồng thời gây khó khăn cho 
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo 
đảm quyền của người đại diện. Vì vậy, cần 
phải bổ sung thêm Điều 420 BLTTHS cho 
đầy đủ các quyền của người đại diện của 
người dưới 18 tuổi. 
Thứ hai, Điều 420 BLTTHS quy định 
đại diện của người dưới 18 tuổi có quyền 
đưa chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Tuy nhiên, 
lời khai của người đại diện của người dưới 
18 tuổi không được BLTTHS quy định là 
nguồn chứng cứ và cũng không quy định 
về hoạt động điều tra lấy lời khai của người 
đại diện của người dưới 18 tuổi. Thực tiễn 
tiến hành hoạt động này trong giai đoạn 
điều tra có nhiều ý kiến khác nhau.6
Có ý kiến cho rằng, có thể chuyển hóa 
lời khai của người đại diện của người bị 
hại thành lời khai của người mà họ đại 
diện. Việc chuyển hóa này không hợp lý 
vì người dưới 18 tuổi và người đại diện 
của họ đều có quyền cung cấp chứng cứ 
với tư cách riêng, những thông tin mà họ 
đưa ra cũng mang tính chủ thể riêng biệt, 
không thể chuyển hóa cho nhau. Ý kiến 
khác lại coi đó là lời khai của người làm 
chứng, nhưng lại không xác định tư cách 
tố tụng của họ là người làm chứng khi lấy 
lời khai thì cũng không hợp lý. Không nên 
xác định người đại diện của người bị buộc 
tội và người bị hại là người dưới 18 tuổi 
đồng thời là người làm chứng vì người 
làm chứng có nghĩa vụ phải khai báo trung 
thực, nếu khai gian dối hoặc từ chối khai 
báo không vì lý do bất khả kháng hoặc 
không do trở ngại khách quan thì phải chịu 
trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, người 
đại diện của người bị buộc tội, người bị hại 
dưới 18 tuổi phải vì lợi ích của người mà 
họ đại diện, coi lợi ích đó là mối quan tâm 
hàng đầu nên việc buộc họ phải khai báo 
trung thực, khách quan, không được nghi 
ngờ, suy diễn chủ quan là không hợp lý. 
Trong giai đoạn xét xử, việc thu 
thập thông tin từ lời trình bày của người 
đại diện của người bị hại được quy định 
6 Những ý kiến này do tác giả tham khảo ý kiến 
một số chuyên gia làm công tác thực tiễn trong 
ngành công an, tòa án.
22
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT... 
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
là hoạt động xét hỏi người đại diện của 
người bị hại (Điều 310 BLTTHS) nhưng 
không có quy định về việc xét hỏi đại diện 
của người bị hại, người làm chứng dưới 18 
tuổi. Để giải quyết các bất cập trên, chúng 
tôi kiến nghị cần bổ sung quy định lời khai 
của người đại diện của người dưới 18 tuổi 
là nguồn chứng cứ và bổ sung thêm quy 
định về hoạt động điều tra “lấy lời khai 
của người đại diện của người bị buộc tội, 
bị hại, người làm chứng”; bổ sung thêm 
quy định về xét hỏi người đại diện của bị 
cáo, xét hỏi đại diện của người làm chứng. 
Thứ ba, cần có hướng dẫn cụ thể về việc 
xác định người đại diện cho người dưới 18 
tuổi. Theo Điều 3 TTLT số 06/2018, người 
đại diện của người tham gia tố tụng là 
người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ 
tự: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; người giám hộ; 
người do Tòa án chỉ định. Việc xác định 
người đại diện của người tham gia tố tụng 
dưới 18 tuổi chưa được quy định còn có 
một số bất cập sau: 
Một là, việc xác định thẩm quyền cử 
người giám hộ của Ủy ban nhân dân cấp 
xã nơi người chưa thành niên dưới 18 tuổi 
cư trú còn chưa rõ ràng. Theo quy định tại 
Điều 12 Luật Cư trú năm 2006, nơi cư trú 
của công dân là nơi thường trú hoặc nơi 
tạm trú. Trong thực tiễn, có nhiều trường 
hợp người tham gia tố tụng là người dưới 
18 tuổi đăng ký thường trú một nơi nhưng 
sinh sống ở nơi khác. Như vậy, trong 
trường hợp này, Ủy ban nhân dân cấp xã 
nơi người dưới 18 tuổi đăng ký thường trú 
hay nơi người dưới 18 tuổi có trách nhiệm 
cử người giám hộ cho họ chưa được xác 
định rõ. Và nếu xảy ra tranh chấp trong 
việc cử người giám hộ thì việc Tòa án nơi 
người tham gia tố tụng là người dưới 18 
tuổi đăng ký thường trú hay tạm trú có 
thẩm quyền chỉ định người giám hộ cũng 
chưa được xác định rõ. 
Hai là, trình tự, thủ tục Tòa án chỉ định 
người giám hộ hoặc chỉ định người đại 
diện cho người tham gia tố tụng là người 
dưới 18 tuổi chưa được quy định rõ. Theo 
khoản 3, Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2015, 
trong trường hợp không xác định được 
người đại diện là cha mẹ của người chưa 
thành niên, người giám hộ cho người chưa 
thành niên (bao gồm người giám hộ đương 
nhiên, người giám hộ do Ủy ban nhân dân 
cấp xã cử hoặc do Tòa án chỉ định) thì Tòa 
án chỉ định người đại diện cho người chưa 
thành niên. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục để 
Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc chỉ 
định người đại diện cho người tham gia 
tố tụng là người dưới 18 tuổi được thực 
hiện như thế nào; Tòa án sẽ chỉ định ai là 
người giám hộ hoặc là người đại diện cho 
người tham gia tố tụng là người dưới 18 
tuổi; hoặc là khi có sự tranh chấp về thẩm 
quyền giữa các Tòa án trong việc chỉ định 
người giám hộ, chỉ định người đại diện thì 
việc giải quyết như thế nào lại chưa được 
quy định rõ. Những vướng mắc nêu trên 
do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên 
trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố 
tụng đã lúng túng hoặc không thống nhất 
quan điểm với nhau. Thiết nghĩ, những 
vướng mắc này cơ quan có thẩm quyền 
cần sớm hướng dẫn để việc áp dụng pháp 
luật trong thực tiễn được thống nhất.7
4. Về bào chữa đối với của người bị 
buộc tội là người dưới 18 tuổi
Khoản 1 Điều 422 BLTTHS năm 2015 
quy định “người bị buộc tội là người dưới 
7 Dương Tấn Thanh (2019), Người đại diện của 
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi trong 
tố tụng hình sự, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/
xet-xu/nguoi-dai-dien-cua-nguoi-tham-gia-to-
tung-la-nguoi-duoi-18-tuoi-trong-to-tung-hinh-
su, truy cập ngày 05/02/2020
23Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ 
người người khác bào chữa”. Quy định 
này không thống nhất với nguyên tắc bảo 
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội 
quy định tại Điều 16 BLTTHS năm 2015 
với nội dung người bị buộc tội đồng thời 
có cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ 
người khác bào chữa, họ có thể thực hiện 
cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ người 
khác bào chữa; cũng có thể không nhờ 
người khác bào chữa. Khoản 2, Điều 422 
BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm 
chỉ định người bào chữa cho người bị buộc 
tội dưới 18 tuổi thuộc về Cơ quan điều tra, 
Viện kiểm sát và Tòa án là chưa bao hàm 
hết các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm 
quyền bào chữa theo quy định tại Điều 16 
BLTTHS. Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại 
khoản 1 và khoản 2 Điều 422 BLTTHS năm 
2015 cho phù hợp với quy định tại Điều 
16 BLTTHS năm 2015. Trên cơ sở phân tích 
trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 422 
BLTTHS năm 2015 cụ thể như sau: 
Ðiều 422. Bào chữa
1. Người bị buộc tội là người dưới 18 
tuổi có quyền tự bào chữa, (bỏ chữ hoặc và 
thay bằng dấu phẩy) nhờ người khác bào chữa.
2. (Giữ nguyên)
3. Trường hợp người bị buộc tội là 
người dưới 18 tuổi không có người bào 
chữa hoặc người đại diện của họ không 
lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có 
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định 
người bào chữa theo quy định tại Điều 76 
của Bộ luật này.
Như vậy, quy định về thủ tục tố tụng 
đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS 
năm 2015 là một bước tiến lớn trong hoạt 
động lập pháp của Nhà nước ta nhằm bảo 
đảm ngày càng tốt hơn lợi ích của người 
dưới 18 tuổi; phù hợp và đáp ứng các 
chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em. Tuy 
nhiên, quy định của BLTTHS năm 2015 
vẫn còn một số hạn chế nhất định cần tiếp 
tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn 
nữa chế định này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Xuân Thiên An, Tìm hiểu về việc xác định tuổi 
của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 
tuổi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 
2015, đăng ngày 3/7/2017, 
vn/tin-tuc/tim-hieu-ve-viec-xac-dinh-tuoi-cua-nguoi-
bi-buoc-toi-nguoi-bi-hai-la-nguoi-duoi-18-tuoi-theo-
quy-dinh-cua-bltths-nam-2015-3273.html, truy cập 
ngày 8/2/2020.
2. Nguyễn Hòa Bình chủ biên (2016), Những nội 
dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, 
Nxb Chính trị quốc gia.
3. Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2010), 
Quyền con người, tập hợp những bình luận/khuyến 
nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc, 
Nxb Công an nhân dân.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung 
tâm nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện 
quốc tế về quyền con người, Nxb Thành phố Hồ 
Chí Minh.
5. Nguyễn Thị Lộc (2017), Vấn đề xác định tuổi của 
người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của 
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học 
Kiểm sát, số 1/2017.
6. Đinh Văn Quế, Xác định tuổi của người bị hại - 
Những vấn đề lý luận và thực tiễn,Tạp chí Kiểm 
sát số 10/2018, 
tuoi-cua-nguoi-bi-hai-50249.html, đăng ngày 
10/7/2018, truy cập ngày 8/2/2020.
7. Tòa án nhân dân tối cao, Viện khoa học xét xử 
(2010), Báo cáo tổng quan về cơ sở lý luận và thực 
tiễn của sự cần thiết thành lập Tòa án chuyên 
trách đối với người chưa thành niên ở Việt Nam.
8. Dương Tấn Thanh (2019), Người đại diện của 
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi trong 
tố tụng hình sự, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/
xet-xu/nguoi-dai-dien-cua-nguoi-tham-gia-to-
tung-la-nguoi-duoi-18-tuoi-trong-to-tung-hinh-
su, truy cập ngày 5/2/2020
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Quyền của 
người chưa thành niên trong pháp luật hình sự một 
số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam.
10. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tập bài 
giảng Tư pháp đối với người chưa thành niên.

File đính kèm:

  • pdfkien_nghi_sua_doi_bo_sung_mot_so_quy_dinh_cua_bo_luat_to_tun.pdf