Kiểm toán nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Việt Nam không nằm trong các nhóm nước có gánh nặng về nợ cao. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công vẫn chưa thực sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề hiệu quả quản lý và sử

dụng nợ công, Chính phủ cần có chiến lược kiểm soát đầu tư trong khu vực công, giảm thâm hụt ngân sách

để có thế kiểm soát được nợ vay nước ngoài. Trong đó, việc quan trọng là phải nâng cao hiệu quả đầu tư

của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, quản lý nợ công phải gắn chặt với quản lý kinh tế vĩ mô,

dự đoán được các nhân tố tác động đến quy mô nợ như lãi suất và tỷ giá, để giảm thiểu rủi ro. Kiểm toán

nợ công là một trong những nhiệm vụ quan trọng của KTNN nhằm đảm bảo tính minh bạch trong quản lý

và sử dụng các khoản nợ công cũng như tính hiệu quả và bền vững của quản lý nợ công nói riêng và NSNN

nói chung. Bài báo trình bày thực trạng kiểm toán nợ công ở Việt Nam và đưa ra một số giải pháp hoàn

thiện kiểm toán nợ công.

pdf 6 trang kimcuc 6720
Bạn đang xem tài liệu "Kiểm toán nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm toán nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Kiểm toán nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp
19NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 117 - tháng 7/2017
Kieåm toaùn nôï coâng ôû vieät nam,
thöïc traïng vaø giaûi phaùp 
PGS.TS. NGUYỄN PHÚ GIANG*
Nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Việt Nam không nằm trong các nhóm nước có gánh nặng về nợ cao. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công vẫn chưa thực sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề hiệu quả quản lý và sử 
dụng nợ công, Chính phủ cần có chiến lược kiểm soát đầu tư trong khu vực công, giảm thâm hụt ngân sách 
để có thế kiểm soát được nợ vay nước ngoài. Trong đó, việc quan trọng là phải nâng cao hiệu quả đầu tư 
của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, quản lý nợ công phải gắn chặt với quản lý kinh tế vĩ mô, 
dự đoán được các nhân tố tác động đến quy mô nợ như lãi suất và tỷ giá, để giảm thiểu rủi ro. Kiểm toán 
nợ công là một trong những nhiệm vụ quan trọng của KTNN nhằm đảm bảo tính minh bạch trong quản lý 
và sử dụng các khoản nợ công cũng như tính hiệu quả và bền vững của quản lý nợ công nói riêng và NSNN 
nói chung. Bài báo trình bày thực trạng kiểm toán nợ công ở Việt Nam và đưa ra một số giải pháp hoàn 
thiện kiểm toán nợ công.
Từ khóa: Nợ công, kiểm toán nợ công, kiểm toán nhà nước, quản lý nợ công.
Public debt audit in Vietnam, current situation and solutions
Public debt includes Government debt, Government guaranteed debt, and Local government debt. 
According to the World Bank and the International Monetary Fund, Vietnam is not in the group of high 
debt burdens. However, the effectiveness of the management and use of public debt is still not very effective. 
In order to solve the problem of effective management and use of public debt, the government needs a 
strategy to control investment in the public sector, budget deficits to manageable foreign debt. In particular, 
it is important to improve the investment efficiency of the SOE sector. In addition, public debt management 
must be closely linked to macroeconomic management, predicting factors affecting the size of debt such as 
interest rates and exchange rates, to minimize risk. Public debt audit is one of the important tasks of the State 
Audit to ensure transparency in the management and use of public debts as well as the effectiveness and 
sustainability of public debt management in particular and the state budget in general. This article presents 
the state of public debt audit in Vietnam and offers several solutions to improve public debt audit.
 keywords: Public debt, public debt audit, state audit, public debt management.
1. Nợ công ở Việt Nam hiện nay
Theo Luật Quản lý Nợ công số 29/2009/QH12, 
nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính 
phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong 
đó, nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các 
khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, 
phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính 
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký 
kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định 
của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm 
khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát 
hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng 
thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ 
của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay 
trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. 
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban 
*Khoa Kế toán Kiểm toán, Đại học Thương mại
20
Kieåm tOAÙN Nôï cOâNg - NAâNg cAO hieäu quAû quAûN lyÙ vAø söû duïNg cAÙc KhOAûN Nôï cOâNg
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 117 - tháng 7/2017
nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương 
(sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh) 
ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Mức nợ công tính đến cuối năm 2016 của Việt 
Nam là 63,7% GDP, trong đó, nợ Chính phủ là 
52,6%. Tuy nhiên, đây không phải là mức cao nhất 
trong giai đoạn 2016 - 2020.
Mới đây, Bộ Tài chính đã dự báo rằng đỉnh nợ 
công sẽ rơi vào năm 2017 - 2018 và có thể giảm 
dần trong những năm sau đó. Cụ thể, với giả định 
rằng tăng trưởng GDP vào khoảng 6,7 - 7% thì nợ 
công năm 2017 sẽ lên đến 64,8% GDP. Năm 2018, 
nợ công vẫn duy trì ở mức cao, vào khoảng 64,7% 
GDP. Và phải đến 2020, nợ công mới có thể giảm 
điểm phần trăm, lùi về 63,7%.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và Quỹ 
Tiền tệ Quốc tế, Việt Nam không nằm trong các 
nhóm nước có gánh nặng về nợ cao. Tuy nhiên, 
hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công vẫn chưa thực 
sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề hiệu quả quản lý 
và sử dụng nợ công, Chính phủ cần có chiến lược 
kiểm soát đầu tư trong khu vực công, giảm thâm 
hụt ngân sách để có thể kiểm soát được nợ vay 
nước ngoài. Trong đó, việc quan trọng là phải nâng 
cao hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà 
nước. Bên cạnh đó, quản lý nợ công phải gắn chặt 
với quản lý kinh tế vĩ mô, dự đoán được các nhân 
tố tác động đến quy mô nợ như lãi suất và tỷ giá, để 
giảm thiểu rủi ro. 
Hiện nay, rủi ro nợ công ở Việt Nam phụ thuộc 
vào những yếu tố chính như tốc độ tăng GDP, lạm 
phát, lãi suất, mức thâm hụt tài khoản vãng lai và 
dự trữ ngoại hối của quốc gia. Do đó, những nhân 
tố này cần được kiểm soát tốt để giảm thiếu rủi ro 
về nợ công. 
Cần lưu ý rằng, việc quản lý nợ công không chỉ 
liên quan đến trách nhiệm của Bộ Tài chính mà 
còn liên quan đến nhiều cơ quan khác. Vì vậy, cần 
có sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan dưới 
sự điều hành chung của Chính phủ để quản lý nợ 
công hiệu quả, trong đó Kiểm toán nhà nước là cơ 
quan đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện 
các rủi ro gian lận liên quan đến nợ công. 
2. kiểm toán nợ công ở Việt Nam 
Kiểm toán nợ công là một trong những nhiệm 
vụ quan trọng của KTNN nhằm đảm bảo tính 
minh bạch trong quản lý và sử dụng các khoản nợ 
công cũng như tính hiệu quả và bền vững của quản 
lý nợ công nói riêng và NSNN nói chung.
Tại báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách 
nhà nước năm 2015 đã cho thấy: Theo Báo cáo 
của Chính phủ số 464/BC-CP ngày 19/10/2016 về 
mục tiêu định hướng huy động, sử dụng vốn vay và 
quản lý nợ công giai đoạn 2016-2020, nợ công đến 
31/12/2015 là 2.608.421 tỷ đồng, bằng 62,2%GDP.
Kiểm toán nhà nước xác định nợ công đến 
31/12/2015 theo Luật Quản lý nợ công 2.556.039 tỷ 
21NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 117 - tháng 7/2017
đồng, bằng 61% GDP, giảm 52.382 tỷ đồng so với 
số báo cáo của Chính phủ.
Nếu tính đầy đủ các khoản vay thực hiện trong 
năm 2016 để bù đắp bội chi năm 2014, 2015 số tiền 
25.219 tỷ đồng và 8.171 tỷ đồng bù đắp bội chi năm 
2015 đến thời điểm kiểm toán Bộ Tài chính chưa 
vay, thì nợ công 2.589.429 tỷ đồng, bằng 61,8% GDP, 
nợ Chính phủ 2.098.022 tỷ đồng, bằng 50% GDP.
Liên quan đến nợ công, qua kiểm toán cho thấy, 
Bộ Tài chính chưa lập kịp thời Báo cáo giám sát nợ, 
chưa lập Bản tin nợ công năm 2015 theo quy định 
của Luật Quản lý nợ công về báo cáo thông tin và 
công khai thông tin về nợ công; quản lý nợ công 
còn phân tán, thiếu đối chiếu; theo dõi, thống kê, 
tổng hợp và báo cáo số liệu nợ công chưa kịp thời, 
đầy đủ, chính xác theo quy định.
Vì vậy, việc Bộ Tài chính tổng hợp nợ công có thể 
chưa đầy đủ các khoản nợ Chính phủ, chính quyền 
địa phương. Hơn nữa, mặc dù nợ doanh nghiệp nhà 
nước không có bảo lãnh Chính phủ không phải nợ 
công nhưng nguy cơ tiềm tàng cao ảnh hưởng đến 
nền kinh tế và uy tín Chính phủ khi doanh nghiệp 
nhà nước thua lỗ, không trả được nợ.
Về quản lý danh mục nợ, Kiểm toán nhà nước 
xác định tình trạng vay tồn ngân không quy định 
thời hạn trả nợ hoặc quy định thời hạn tạm ứng 12 
tháng nhưng phải gia hạn nợ nhiều lần vẫn chậm 
khắc phục, tiềm ẩn rủi ro thanh khoản của hệ thống 
Kho bạc Nhà nước (đến 31/12/2015, tổng số dư nợ 
vay tồn ngân kho bạc 157.162 tỷ đồng; trong đó các 
khoản ứng vốn có thời hạn trên 03 năm là 60.816 tỷ 
đồng, trên 01 năm là 61.045 đồng; các khoản vay từ 
năm 2014 trở về trước đến năm 2017 phải gia hạn 
năm 2015 là 120.725 tỷ đồng).
Ngoài ra, Bộ Tài chính áp dụng mức phí tạm 
ứng tồn ngân KBNN (0,15%/tháng) đối với các 
khoản vay tồn ngân để bù đắp bội chi NSNN 
không đúng đối tượng quy định tại Điều 2, Thông 
tư số 162/2012/TT-BTC (Báo cáo kiểm toán BCQT 
NSNN năm 2014, KTNN đã kiến nghị Bộ Tài 
chính tham mưu Chính phủ quy định cụ thể việc 
vay tồn ngân KBNN để bù đắp bội chi, song kiến 
nghị chưa được thực hiện); vay các quỹ ngoài ngân 
sách không được hạch toán chi tiết theo đối tượng. 
Nợ nước ngoài của Chính phủ được theo dõi tại 
Cục Quản lý nợ và KBNN nhưng không phù hợp 
về tiêu thức và số liệu.
Đến 31/12/2015, Bộ Tài chính đã chuyển 4.438 
tỷ đồng cho VEC để thanh toán trái phiếu được 
Chính phủ bảo lãnh đến hạn nhưng chưa được 
VEC ký nhận nợ, trong đó Bộ Tài chính tính vào 
nợ của Chính phủ 2.477 tỷ đồng; ghi thu ghi chi 
vốn cấp phát đối với vốn vay nước ngoài về cho vay 
lại của 05 dự án đường bộ cao tốc của VEC (tổng 
số tiền đã ghi thu ghi chi 18.123 tỷ đồng chưa được 
quyết toán NSNN, trong đó năm 2014: 10.783 tỷ 
đồng, năm 2015: 7.340 tỷ đồng) khi các dự án chưa 
được chuyển đổi nguồn vốn đầu tư sang cấp phát 
và bổ sung kế hoạch vốn; chưa ký hợp đồng cho vay 
lại đối với khoản cho vay được cơ cấu lại từ nguồn 
trái phiếu quốc tế 01 tỷ USD theo Quyết định số 
1227/QĐ-TTg ngày 31/7/2015 của Thủ tướng 
Chính phủ về việc tái cơ cấu nợ vay lại của Tổng 
công ty Công nghiệp Tàu thủy (SBIC) từ nguồn 
vốn trái phiếu quốc tế năm 2005 và năm 2010.
Cũng theo kết quả kiểm toán của Kiểm toán 
nhà nước, một số chương trình, dự án được 
Chính phủ cho phép miễn thế chấp tài sản không 
đúng quy định tại Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 
15/2011/NĐ-CP; quản lý tài sản đảm bảo đối với 
các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh theo quy 
định tại Khoản 4 Điều 13 Nghị định số 15/2011/
NĐ-CP còn chậm trễ; nhiều dự án vay lại và vay 
được Chính phủ bảo lãnh sử dụng vốn không hiệu 
quả, khó khăn trong việc trả nợ, dừng sản xuất 
kinh doanh, phải cơ cấu lại, gia tăng nghĩa vụ của 
Quỹ tích lũy và nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính 
phủ trong những năm tiếp theo.
Kiểm toán nhà nước còn phát hiện việc hoàn trả 
NSNN các khoản vay về cho vay lại chưa đầy đủ, kịp 
thời: Khoản trả lãi trái phiếu quốc tế 2014 (cho vay 
lại SBIC) số tiền 24 triệu USD tương đương 515 tỷ 
đồng; Khoản trả lãi năm 2015 của Dự án đường cao 
tốc Bắc Nam 35 tỷ đồng (dự án cho vay lại của VEC).
Về nợ chính quyền địa phương, Kiểm toán nhà 
nước cho rằng một số địa phương chưa xây dựng hạn 
mức vay; không lập kế hoạch vay và trả nợ vay; bố trí 
cho các công trình không đúng mục đích, danh mục 
22
Kieåm tOAÙN Nôï cOâNg - NAâNg cAO hieäu quAû quAûN lyÙ vAø söû duïNg cAÙc KhOAûN Nôï cOâNg
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 117 - tháng 7/2017
đăng ký; chưa lập và gửi báo cáo về nợ chính quyền 
địa phương theo quy định; 14/46 địa phương được 
kiểm toán có mức dư nợ tại 31/12/2015 vượt 30% 
vốn đầu tư xây dựng ngân sách cấp tỉnh theo quy 
định của Luật NSNN; một số khoản vay trong năm 
của địa phương nhưng đến hết năm 2015 không giải 
ngân hết, cá biệt, tỉnh Quảng Ninh phát hành trái 
phiếu nhưng phân bổ, sử dụng không kịp thời làm 
giảm hiệu quả sử dụng vốn vay.
Để nhìn nhận, đánh giá có hiệu quả về nợ công, 
vấn đề này cần tổ chức các cuộc kiểm toán riêng 
về nợ công bao gồm kiểm toán các báo cáo thường 
niên về nợ công, kiểm toán chuyên đề về nợ công 
hoặc kiểm toán đầy đủ về tình hình quản lý và sử 
dụng các khoản nợ công. Đồng thời, hoàn thiện tổ 
chức kiểm toán nợ công cả về căn cứ kiểm toán, 
mục tiêu, nội dung và nhân lực kiểm toán. Trên cơ 
sở đó đưa ra kiến nghị góp phần ngăn ngừa các rủi 
ro phát sinh, đề ra các biện pháp quản lý các khoản 
nợ công một cách tốt hơn.
Hiện nay, khi kiểm toán quyết toán NSNN, 
KTNN đã ngày càng chú trọng thực hiện kiểm toán 
các khoản nợ công để nắm bắt được tình hình quản 
lý nợ công hàng năm, trên cơ sở đó đưa ra kiến 
nghị góp phần ngăn ngừa các rủi ro phát sinh, đề ra 
các biện pháp quản lý các khoản nợ công một cách 
tốt hơn. Mặc dù chưa phải là cuộc kiểm toán riêng, 
độc lập về quản lý nợ nhưng KTNN đã thành lập 
Tổ kiểm toán về nợ công và đã thực hiện khá nhiều 
cuộc kiểm toán để đánh giá về nợ công. Ngoài ra, 
khi kiểm toán NSNN, KTNN đã có những kiến 
nghị về việc vay nợ ngân sách địa phương giúp 
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng có 
biện pháp quản lý nhằm hạn chế các rủi ro từ vay 
nợ của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, thực 
hiện một cuộc kiểm toán độc lập đối với nợ công 
vẫn là đích hướng tới của KTNN.
3. Giải pháp nào nhằm nâng cao chất lượng 
kiểm toán nợ công?
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với 
yêu cầu công khai minh bạch thông tin, đảm bảo 
tình hình tài chính ngân sách quốc gia được bền 
vững thì yêu cầu kiểm toán nợ công hàng năm là 
yêu cầu được các định chế tài chính quốc tế đề ra. 
Hiện nay, quá trình kiểm toán quyết toán NSNN 
đã có sự đánh giá về vay nợ Chính phủ nhưng mức 
độ vẫn còn hạn chế. Hiện tại, KTNN vẫn chưa thực 
hiện kiểm toán nợ công với tư cách là một cuộc 
kiểm toán độc lập. KTNN cũng chưa xây dựng quy 
trình kiểm toán, tiêu chí đánh giá về quản lý nợ 
công, trình độ của kiểm toán viên về quản lý nợ 
công và kiểm toán nợ công còn rất hạn chế.
Về cơ sở pháp lý, Luật quản lý nợ công chưa quy 
định rõ trách nhiệm của cơ quan KTNN trong việc 
kiểm toán nợ công, trách nhiệm của cơ quan quản 
lý nợ trong việc cung cấp thông tin liên quan đến 
quản lý nợ công, trách nhiệm báo cáo định kỳ, đột 
xuất cho KTNN về các vấn đề nợ công và quản lý 
nợ công. 
Số liệu nợ công bị hạn chế cung cấp làm cho 
KTNN khó tiếp cận một cách đầy đủ để có thể đưa 
ra ý kiến và những đánh giá xác đáng về công tác 
quản lý nợ công.
Các thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán nợ công
Hiện nay, KTNN chưa có một quy trình riêng 
biệt, cũng như chưa thiết kế các thủ tục kiểm toán 
cơ bản và thủ tục kiểm soát riêng cho kiểm toán nợ 
công.Đây là vấn đề cần được quan tâm xây dựng, 
để đảm bảo kiểm toán nợ công được hiệu quả.
Các thử nghiệm cơ bản giúp kiểm toán viên 
nhận được các bằng chứng kiểm toán phù hợp 
giúp họ có những đánh giá và đưa ra kết luận một 
cách xác đáng. Mục tiêu của thử nghiệm cơ bản là 
giúp kiểm toán viên xác định xem liệu rằng giá trị 
tiền tệ của các giao dịch nợ công hay số dư nợ công 
có chính xác không? Các thử nghiệm cơ bản kiểm 
toán nợ công thường gắn với các cơ sở dẫn liệu của 
kiểm toán. Khi kiểm toán nợ công, kiểm toán cần 
làm rõ khoản nợ công đó có thực sự tồn tại hay 
không? Thời điểm phát sinh có chính xác không? 
Bên mắc nợ và chủ nợ khoản nợ công có thực sự 
có quyền và nghĩa vụ đối với khoản nợ công hay 
không? Các khoản nợ công có được ghi nhận đầy 
đủ trên sổ kế toán không? Việc đánh giá và đo 
lường các khoản nợ công này có đúng quy định và 
phù hợp với pháp luật không? Các khoản nợ công 
này được trình bày và công bố đầy đủ trên Báo cáo 
tài chính hay không?
23NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 117 - tháng 7/2017
Bảng 1: Các thử nghiệm cơ bản khi kiểm toán nợ công
Cơ sở dẫn liệu Thử nghiệm cơ bản
Tồn tại và phát 
sinh
Lấy xác nhận của các chủ nợ (của các khoản nợ công) hay các tổ chức tín dụng, 
tổ chức lưu giữ hồ sơ về nợ công, người được ủy thác về sự tồn tại của các khoản 
nợ công 
Kiểm tra các hợp đồng thỏa thuận về nợ công và các tài liệu bổ sung khác, thu 
thập các hóa đơn, văn bản bằng giấy tờ hoặc dưới dạng thông tin điện tử đối với 
các khoản nợ công 
Thực hiện các thủ tục kiểm toán thay thế sau ngày kết thúc niên độ nếu không 
thu thập được các bằng chứng kiểm toán trực tiếp 
Quyền và nghĩa 
vụ
Lấy xác nhận của các chủ nợ (của các khoản nợ công) hay các tổ chức tín dụng, 
tổ chức lưu giữ hồ sơ về nợ công, người được ủy thác về trách nhiệm, nghĩa vụ 
đối với các khoản nợ công bên đi vay, bên mắc nợ
Kiểm tra các hợp đồng thỏa thuận về nợ công và các tài liệu bổ sung khác, thu 
thập các hóa đơn, văn bản bằng giấy tờ hoặc dưới dạng thông tin điện tử đối với 
các khoản nợ công để khẳng định quyền và nghĩa vụ đối với bên cho nợ và bên 
mắc nợ 
Sự đầy đủ
Tổng hợp lại tất cả các giao dịch của các bên, khi yêu cầu bằng chứng từ các bên 
đối tác với nhau cần xem xét bằng chứng nào đáp ứng yêu cầu và liệu các bằng 
chứng đó có thể hiện được tất cả các khía cạnh cần được xử lý tại đơn vị được 
kiểm toán hay không?
Gửi xác nhận (loại số dư bằng 0) cho các chủ nợ hay các bên đối tác liên quan 
của đơn vị được kiểm toán 
Nghiên cứu các báo cáo của các bên trung gian về sự tồn tại của các giao dịch 
và các công cụ nợ
Sử dụng các công cụ kỹ thuật hỗ trợ để chiết xuất các dữ liệu và đối chiếu với sổ 
cái và Báo cáo tài chính 
Thực hiện việc kiểm tra lấy mẫu của các xác nhận, bằng chứng từ các bên liên 
quan 
Xem xét các số liệu kế toán về các giao dịch bất thường trước và sau năm kiểm 
toán 
Xem xét các xác nhận từ các bên liên quan mà các số liệu không khớp với giao 
dịch
Xem xét các khoản chênh lệch khi đối chiếu chưa được giải quyết trong báo cáo 
Kiểm tra các khoản nợ công có nguồn gốc từ các công cụ tài chính phái sinh
Thực hiện việc tính toán các khoản chi phí lãi vay liên quan đến nợ công
Đánh giá và đo 
lường
Kiểm tra các sổ sách liên quan đến thu tiền vay
Xin xác nhận về giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của các khoản nợ công của các tổ 
chức tín dụng hoặc bên ủy thác
Tính toán lại dựa trên thời giá thị trường với một số mẫu nợ công có giá trị cao
Kiểm tra các tỷ giá chuyển đổi trên sổ sách với giá thị trường của các khoản nợ 
công bằng ngoại tệ
Sử dụng các giá thị trường đã được niêm yết để kiểm tra các số liệu công bố về 
nợ công, các công cụ thị trường tiền tệ và các công cụ tài chính phái sinh
24
Kieåm tOAÙN Nôï cOâNg - NAâNg cAO hieäu quAû quAûN lyÙ vAø söû duïNg cAÙc KhOAûN Nôï cOâNg
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 117 - tháng 7/2017
Trình bày và công 
bố
Kiểm tra xem các nguyên tắc kế toán được lựa chọn và áp dụng tại đơn vị được kiểm 
toán có phù hợp với pháp luật, các chuẩn mực kế toán, văn bản qui định
Kiểm tra xem Báo cáo tài chính và các thuyết minh liên quan có cung cấp đầy đủ các 
công bố thông tin không, đảm bảo không quá chi tiết cũng không quá tập trung 
Kiểm tra xem Báo cáo tài chính phản ánh các giao dịch về mức nợ công, khoản lãi vay, 
dòng tiền theo cách thức trong giới hạn chấp nhận được hay không? 
Rà soát việc phân loại các công cụ nợ công để đảm bảo phù hợp với luật pháp, các qui 
định và thông lệ
Xem xét các yếu tố kinh tế chung
Khi kiểm toán, kiểm toán viên cần xem xét 
các yếu tố môi trường kinh tế chung ảnh hưởng 
đến bản chất và phạm vi của việc quản lý nợ công. 
Chẳng hạn, khi lãi suất vay có xu hướng tăng lên, 
người đi vay sẽ có động thái giữ nguyên chi phí lãi 
vay bằng cách sử dụng các công cụ tài chính phái 
sinh như hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn Các 
yếu tố này có thể bao gồm: Tốc độ phát triển kinh 
tế trong nước, điều kiện kinh tế của quốc gia mà 
Chính phủ có khoản vay, mức lãi suất, tỷ lệ lạm 
phát, đặc điểm thị trường, dòng tiền của khoản 
nợ công... Các công cụ tài chính phái sinh này khi 
được sử dụng có thể làm xuất hiện các khoản chi 
phí, thu nhập liên quan hoặc làm thay đổi giá trị 
khoản nợ công của đơn vị.
Kiểm toán viên cần hiểu được các đặc điểm 
hoạt động và rủi ro của thị trường tài chính trong 
đó khoản nợ công tồn tại, các công cụ tài chính mà 
khoản nợ công sử dụng và phương pháp kế toán 
các công cụ tài chính đó, nhất là các công cụ tài 
chính phái sinh cần xem xét về cách thức đo lường, 
ghi nhận và trình bày công bố. Trường hợp kiểm 
toán viên chưa hiểu rõ các công cụ tài chính phái 
sinh cần tìm các chuyên gia tư vấn phù hợp
Hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiểm toán nợ công 
KTNN cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho kiểm 
toán nợ công trong Luật KTNN; cần phân biệt cách 
tiếp cận cho cuộc kiểm toán nợ công với các cuộc 
kiểm toán ngân sách nhà nước khác, xây dựng các 
cẩm nang hoặc hướng dẫn và nghiên cứu, thu thập 
những bài học từ các quốc gia khác; chọn lọc áp 
dụng các thông lệ kiểm toán nợ công phù hợp nhất 
để xây dựng một quy trình kiểm toán nợ công phù 
hợp với Việt Nam.
4. kết luận
Kiểm toán nợ công nhằm đánh giá sự tuân thủ 
các quy định pháp luật về huy động, phân bổ, sử 
dụng vốn vay, trả nợ của cơ quan quản lý và sử 
dụng nợ công, qua đó đánh giá tính kinh tế, hiệu 
lực và hiệu quả của các hoạt động quản lý nợ, bao 
gồm cả việc lập và thực hiện chiến lược quản lý nợ. 
Đây cũng là cơ sở để huy động được một lượng 
vốn theo yêu cầu, đảm bảo sao cho các nhu cầu tài 
chính và trách nhiệm thanh toán của Chính phủ 
được đáp ứng ở chi phí thấp nhất trong trung hạn 
và dài hạn nhằm đạt được các mục tiêu về kiểm 
soát rủi ro và chi phí, và đáp ứng được các mục tiêu 
quản lý nợ. Vì vậy, kiểm toán nợ công một cách 
hiệu quả là vấn đề ngày càng trở nên cấp thiết trong 
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Don P. Clark, “FDI, Technology Spillovers, 
Growth, and Income Inequality: A Selective 
Survey”, Global Economy Journal, Volume 
11, Issue, 2011.
2. Eiteman, D., K, Arthur I. Stonehill, and Micheal 
H. Multinational Business Finance. 12th. 
Boston, Massachusetts: Prentice Hall, 2010.
3. Gonzales. H, Brenda, “Investors’ Risk 
Appetite and Global Financial Market 
Conditions,” IMF Working Paper 08/85 
(Washington: International Monetary 
Fund), 2008.
4. Jaimovich. D and Panizza. U, “Public debt 
around the world: a new data set of central 
government debt”, Applied Economics 
Letters, 2010.

File đính kèm:

  • pdfkiem_toan_no_cong_o_viet_nam_thuc_trang_va_giai_phap.pdf