Khung năng lực cốt lõi dành cho cán bộ thư viện Việt Nam trong thế kỷ 21

Nghiên cứu phân tích tầm nhìn và xu thế phát triển đang đặt ra những cơ hội và thách

thức mới cho ngành thư viện trên thế giới cũng như Việt Nam trong kỷ nguyên thông tin. Những thách

thức và cơ hội này đặt ra cho ngành thư viện phải tích cực đổi mới và cùng nhau hợp tác để phát triển,

trong đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định đến tương lai của ngành thư viện. Xây dựng khung

năng lực cốt lõi là bước đầu tiên trong tiến trình đổi mới và nâng cao năng chất lượng đào tạo nguồn

nhân lực. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo nhân lực ngành thư viện Việt Nam và tham khảo

các khung năng lực của IFLA, Hoa Kỳ, Úc và Canada, nghiên cứu đề xuất cách tiếp cận chuẩn đầu

ra theo phương pháp CDIO và khung năng lực cốt lõi dành cho cán bộ thư Việt Nam trong thế kỷ 21

pdf 10 trang kimcuc 6660
Bạn đang xem tài liệu "Khung năng lực cốt lõi dành cho cán bộ thư viện Việt Nam trong thế kỷ 21", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khung năng lực cốt lõi dành cho cán bộ thư viện Việt Nam trong thế kỷ 21

Khung năng lực cốt lõi dành cho cán bộ thư viện Việt Nam trong thế kỷ 21
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
3THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
TS Đỗ Văn Hùng
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
Tóm tắt: Nghiên cứu phân tích tầm nhìn và xu thế phát triển đang đặt ra những cơ hội và thách 
thức mới cho ngành thư viện trên thế giới cũng như Việt Nam trong kỷ nguyên thông tin. Những thách 
thức và cơ hội này đặt ra cho ngành thư viện phải tích cực đổi mới và cùng nhau hợp tác để phát triển, 
trong đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định đến tương lai của ngành thư viện. Xây dựng khung 
năng lực cốt lõi là bước đầu tiên trong tiến trình đổi mới và nâng cao năng chất lượng đào tạo nguồn 
nhân lực. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo nhân lực ngành thư viện Việt Nam và tham khảo 
các khung năng lực của IFLA, Hoa Kỳ, Úc và Canada, nghiên cứu đề xuất cách tiếp cận chuẩn đầu 
ra theo phương pháp CDIO và khung năng lực cốt lõi dành cho cán bộ thư Việt Nam trong thế kỷ 21.
Từ khóa: Khung năng lực cốt lõi; cán bộ thư viện; đào tạo nhân lực; tầm nhìn toàn cầu; thông tin 
thư viện.
Core competency framework for Vietnamese librarians in the 21st century 
Abstract: The article analyses how new vision and development trends are creating new 
opportunities and challenges for the library industry in the world and Vietnam in the information era. 
These opportunities and challenges promote the active innovation and cooperation in the library 
industry, especially innovation in human resource training since the human factor plays a decisive 
role in the future of the library industry. Building the core competency framework is the first step of 
the process to innovate and improve the quality of human resource training. Based on the analysis on 
the current status of the human resource training in Vietnam and some competency frameworks of 
IFLA, U.S.A, Australia and Canada, the article recommends the application of the outcome standard 
approach based on CDIO methodology in human resource training in the library industry as well as 
the core competency framework for Vietnamese librarians in the 21st century. 
Keywords: Core competency framework; librarians; human resource training; global vision; 
library information.
KHUNG NĂNG LỰC CỐT LÕI DÀNH CHO CÁN BỘ THƯ VIỆN VIỆT NAM TRONG THẾ KỶ 21
1. Tầm nhìn và xu thế mới đặt ra cho 
ngành thư viện
Năm 2017, IFLA (Liên đoàn Quốc tế của 
các Hội và Cơ quan thư viện) đã khởi động 
chương trình “Xây dựng tầm nhìn toàn cầu” 
cho ngành thư viện trên toàn thế giới [IFLA, 
2017]. Cơ sở để IFLA đưa ra chương trình 
này là sự thay đổi của khoa học và công 
nghệ (KH&CN), kinh tế-xã hội trên toàn 
cầu đang tác động mạnh mẽ đến ngành 
thư viện, các thư viện cần hợp tác để xây 
dựng cho mình một sứ mệnh chung dựa 
trên một giá trị phổ quát trong kỷ nguyên 
thông tin. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để 
cán bộ thư viện và thư viện duy trì sứ mệnh 
của mình để hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội 
trong bối cảnh công nghệ thay đổi không 
ngừng như hiện nay? [Coghill & Russell, 
2017]. Các thư viện ngày nay không còn 
là một thực thể riêng biệt trong một cộng 
đồng hay địa phương mà nó đang phục vụ, 
thay vào đó, trong bối cảnh xã hội thông 
tin số và kết nối trực tuyến thì thư viện phải 
tham gia vào cộng đồng chung để quay trở 
lại phục vụ cho cộng đồng riêng của mình 
tốt hơn. 
Tầm nhìn toàn cầu mà IFLA đưa ra cho 
ngành thư viện trong thế kỷ 21 là: một 
ngành thư viện lớn mạnh và hợp tác thống 
nhất trên toàn cầu để thúc đẩy một xã hội 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
4 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
học tập không có nạn mù chữ, ai cũng có 
thể tiếp cận giáo dục, một xã hội mà với 
giá trị cốt lõi là tự do, công bằng và phát 
triển, và một xã hội thông tin mà ở đó mỗi 
cá nhân đều có đủ các nguồn lực, giáo dục 
và kỹ năng để tự do tiếp cận miễn phí đến 
nguồn thông tin đáng tin cậy và có giá trị, 
qua đó hỗ trợ quyền tự quyết của cá nhân 
về các vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị. 
Theo IFLA (2018), để hoàn thành sứ 
mệnh trên, ngành thư viện cần tập trung 
vào 10 vấn đề cốt lõi, đó là: (1) tập trung 
thúc đẩy việc cung cấp thông tin và tri thức 
một cách bình đẳng và miễn phí, cán bộ 
thư viện phải là những người dẫn đầu trong 
việc thúc đẩy tự do tri thức; (2) cam kết 
sâu sắc với vai trò cốt lõi trong việc hỗ trợ 
xóa mù chữ, tăng cường việc học và đọc 
của người dân; (3) phục vụ cộng đồng một 
cách cụ thể và hiệu quả, thư viện phải thực 
sự hiểu nhu cầu của cộng đồng mình đang 
phục vụ và xây dựng những dịch vụ phù 
hợp; (4) ứng dụng và đổi mới trong lĩnh vực 
kỹ thuật số; (5) tìm kiếm sự ủng hộ mạnh 
mẽ cho ngành thư viện ở cấp quốc gia 
và khu vực; (6) tìm kiếm tài trợ cho hoạt 
động của thư viện, đây là thách thức lớn 
nhất, do vậy thư viện cần phải khiến cho 
các bên liên quan hiểu được giá trị và tác 
động của mình đối với cộng đồng; (7) thúc 
đấy sự hợp tác và phát triển quan hệ đối 
tác mạnh mẽ hơn, xây dựng một ngành thư 
viện thống nhất (united library field); (8) 
thực sự mong muốn loại bỏ sự quan liêu và 
ngại thay đổi đang tồn tại trong ngành thư 
viện; (9) tự hào là những người bảo vệ tài 
sản trí tuệ và tri thức của thế giới, các thư 
viện thúc đẩy tối đa việc truy cập đến các 
nguồn tri thức của nhân loại; (10) thu hút 
thế hệ chuyên gia thư viện trẻ cùng cam 
kết sâu sắc và mong muốn được dẫn dắt 
xu thế phát triển của ngành. Để làm điều 
này, ngành thư viện cần tạo điều kiện cho 
thế hệ trẻ có cơ hội thực sự trong việc học 
tập, phát triển và dẫn dắt. 
IFLA chỉ ra 5 xu thế hiện nay có tác động 
trực tiếp đến ngành thư viện và thúc đẩy sự 
thay đổi của ngành [IFLA, 2016]. Thứ nhất, 
công nghệ mới vừa mở rộng, vừa giới hạn 
khả năng truy cập thông tin. Câu hỏi đặt ra 
là khi thông tin chia sẻ một cách dễ dàng, 
vậy người thực sự sở hữu thông tin là ai? 
Các vấn đề về bản quyền số, truy cập số 
đang đặt ra cho thư viện một thách thức 
trong cách tiếp cận mới về thu thập, lưu trữ, 
tổ chức và chuyển giao thông tin theo một 
phương thức hoàn toàn mới. 
Chúng ta đang sống trong thời đại bùng 
nổ thông tin với lượng thông tin khổng lồ 
được tạo ra hàng ngày, do vậy, việc lựa 
chọn thông tin phù hợp trong biển dữ liệu 
này thực sự là thách thức đối với mỗi cá 
nhân. Mỗi ngày có 2.5 Exabytes dữ liệu 
được tạo ra, tương đương gấp 250.000 
lần độ lớn của Thư viện Quốc hội Hoa 
Kỳ [Khoso, 2016]. John Naisbitt khẳng 
định rằng, chúng ta đang chết đuối trong 
thông tin, nhưng chết đói về tri thức [NLB, 
2017]- đó chính là vấn đề mà mỗi công 
dân số (digital citizen) phải đối mặt trong 
kỷ nguyên thông tin số. Cán bộ thư viện sẽ 
làm gì để hỗ trợ công dân số thích nghi với 
môi trường mới này? Điều đầu tiên họ phải 
là một công dân số thực sự với nền tảng 
năng lực thông tin số tốt.
Xu thế thứ hai là giáo dục trực tuyến sẽ 
dân chủ hóa và phá vỡ kết cấu của hoạt 
động học tập trên toàn cầu. Giáo dục trực 
tuyến (MOOC, OCW) và miễn phí đang là 
xu thế mới hiện nay. Giáo dục mở tạo ra cơ 
hội học tập cho tất cả mọi người. Giáo dục 
mở là con đường hữu hiệu và khả thi để 
thỏa mãn những ai muốn có được trình độ 
đại học mà không tạo thêm gánh nặng cho 
giáo dục đại học. Người học tham gia những 
khóa học mọi lúc, mọi nơi với giá rẻ hoặc 
thậm chí là miễn phí để phục vụ các nhu 
cầu đặc thù trong công việc. Các khóa học 
được đóng gói theo cá nhân hóa, các nguồn 
học liệu chất lượng cũng được truy cập mở 
miễn phí (tài nguyên giáo dục mở - OER). 
Theo Cerny (2015) các trường đại học 
trở thành trung tâm của cộng đồng, nơi 
kết hợp sức mạnh tổng hợp của đào tạo 
chính thức và phi chính thức. Các trường 
ứng dụng công nghệ để thay đổi hệ thống 
giáo dục truyền thống nhằm đáp ứng tốt 
hơn nhu cầu của một xã hội học tập trong 
kỷ nguyên thông tin.
Xu thế này đặt ra thách thức cho các thư 
viện vì với mô hình này thư viện sẽ là một 
thực thể không thể thiếu trong hệ thống 
giáo dục trực tuyến. Thư viện là nhân tố 
tích cực hỗ trợ mỗi người dân tiếp cận đến 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
5THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
phương thức giáo dục mở thông qua việc 
cung cấp các kỹ năng cho người học cũng 
như cung cấp cơ sở hạ tầng để họ truy cập 
đến nguồn thông tin có chất lượng, đến các 
khóa học mở. Cán bộ thư viện tham gia vào 
xu thế này với vai trò là một nhà giáo dục, 
trực tiếp tham gia vào tiến trình thúc đẩy 
giáo dục mở tại địa phương cũng như trên 
phạm vi toàn cầu.
Xu thế thứ ba là ranh giới về quyền riêng 
tư và bảo vệ dữ liệu sẽ được xác định lại 
trong bối cảnh hiện nay. Câu hỏi đặt ra là 
ai là người bạn sẽ tin tưởng - chính phủ hay 
là các công cụ tìm kiếm? Vấn đề về thu 
thập, quản lý và sử dụng thông tin cá nhân 
đang được đặt ra nóng hơn bao giờ hết khi 
mà mọi sản phẩm, dịch vụ mà con người 
đang sử dụng hiện nay đang dần dần được 
trực tuyến. Wikileaks công bố hàng ngàn 
trang tài liệu về việc chính phủ thu thập 
thông tin của công dân, hay Facebook 
vướng vào việc hỗ trợ hãng phân tích số 
liệu Cambridge Analytica khai thác dữ liệu 
người dùng của mình là những ví dụ thực 
tế về vấn đề riêng tư và bảo vệ dữ liệu cá 
nhân đang bị xâm phạm. Thư viện đang và 
sẽ triển khai các dịch vụ trực tuyến, kết hợp 
với các đối tác công nghệ, tài chính và dịch 
vụ, tham gia mạng xã hội sẽ phải cần 
lưu ý đến vấn đề quyền riêng tư của người 
dùng cũng như dữ liệu cá nhân của họ. Với 
2 luật mới vừa ra đời là Luật tiếp cận thông 
tin (2016) và Luật an ninh mạng (2018), 
các thư viện và cán bộ thư viện cần trang 
bị cho mình những kiến thức nền tảng về 
an toàn thông tin và bảo vệ quyền riêng tư 
của mỗi cá nhân.
Xu thế thứ tư, đó là các mạng xã hội 
trực tuyến siêu kết nối sẽ lắng nghe và trao 
quyền cho cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng 
có tầm ảnh hưởng. Internet và mạng xã hội 
đang làm thay đổi cách con người tương 
tác với nhau. Người ta kết nối, lập nhóm và 
chia sẻ những vấn đề có cùng mối quan 
tâm một cách dễ dàng. Không thể phủ 
nhận việc tương tác trực tuyến đang và sẽ 
là xu thế chủ đạo trong thời gian sắp tới. Xu 
thế này mang lại những lợi ích thiết thực, 
tuy nhiên cũng tiềm ẩn những rủi ro như 
các vấn đề về an toàn và an ninh khi tham 
gia mạng xã hội trực tuyến. Vai trò của thư 
viện trong bối cảnh mới là tham gia đào 
tạo một thế hệ người dùng internet áp dụng 
một cách tích cực các tiêu chuẩn và hành 
vi văn hóa có giá trị truyền thống vào môi 
trường số trực tuyến. Nói một cách khác là 
cùng nhau xây dựng văn hóa mạng trong 
môi trường kết nối số.
Xu thế thứ năm, đó là nền kinh tế thông 
tin toàn cầu sẽ bị thay đổi bởi các công 
nghệ mới, như: điện toán đám mây, dữ liệu 
lớn, blockchain, trí tuệ nhân tạo, robot, vạn 
vật kết nối, Cùng với nền kinh tế chia sẻ, 
các công nghệ này sẽ tác động trực tiếp 
đến nền kinh tế của mỗi một quốc gia, 
trong đó lực lượng lao động đang bị tác 
động mạnh nhất, con người dần bị thay thế 
trong phần lớn các công việc. Thư viện với 
việc ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ 
sẽ bị tác động rất sớm. Câu hỏi đặt ra là 
khi các khâu công việc trong thư viện đã 
tự động hóa, thông tin đã được số hóa, 
người dùng chủ động khai thác thông tin, 
vậy vai trò của cán bộ thư viện ở đâu? Có 
thể khẳng định vai trò cốt lõi của cán bộ 
thư viện không thay đổi, nhưng cách họ 
thực hiện vai trò đã thay đổi. Mô tả một cán 
bộ thư viện trong thế kỷ 21 có thể được 
gói gọn- đó là người môi giới và cung cấp 
thông tin dựa trên nền tảng công nghệ. 
chuyên gia
Hình 1.Vai trò của cán bộ thư viện trong môi trường thông tin số
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
6 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
Bảng 1. So sánh mức độ đáp ứng của chương trình đào tạo tại Việt Nam và chuẩn của IFLA 
Nội dung
Chương trình đào tạo
LIS1 LIS2 LIS3 LIS4 LIS5 LIS6 LIS7
Nội dung 1a: Môi trường thông tin, tác 
động của xã hội thông tin, đạo đức 
nghề nghiệp.
Thấp Thấp Thấp Thấp Thấp Thấp Thấp
Nội dung 1b: Chính sách thông tin, lịch 
sử thông tin thư viện.
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình 
Cao Trung 
bình
Cao Trung 
bình
Nội dung 2: Tạo lập, kết nối và sử dụng 
thông tin.
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Nội dung 3: Đánh giá nhu cầu tin và thiết 
kế dịch vụ đáp ứng nhu cầu tin.
Trung 
bình
Cao Cao Trung 
bình
Cao Cao Trung 
bình
Nội dung 4: Quy trình chuyển giao thông tin. Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Nội dung 5: Quản trị nguồn lực thông tin 
bao gồm: tổ chức, xử lý, truy xuất, lưu trữ 
và bảo quản thông tin ở các định dạng và 
trình bày khác nhau.
Cao Trung 
bình
Trung 
bình
Cao Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Nội dung 6: Nghiên cứu, phân tích và 
diễn giải thông tin.
Cao Trung 
bình
Trung 
bình
Trung 
bình
Cao Trung 
bình
Trung 
bình
Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình 
đổi mới mạnh mẽ giáo dục, đặc biệt là giáo 
dục đại học và đào tạo nghề. Trong đó, 
giáo dục đại học tập trung đào tạo nguồn 
nhân lực chất lượng cao, chú trọng phát 
triển đào tạo nghề, thúc đẩy năng lực tự 
học suốt đời của người học, chú trọng phát 
triển kỹ năng, năng lực của người học thay 
vì tập trung truyền thụ kiến thức. Đổi mới 
nội dung chương trình đào tạo để phù hợp 
với nhu cầu thực tiễn, nhu cầu xã hội và 
hội nhập quốc tế, đồng thời cung cấp nguồn 
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát 
triển đang là mục tiêu ưu tiên của giáo dục 
đại học Việt Nam [MOET, 2014]. Những 
thay đổi này đang đặt ra cho thư viện - đơn 
vị hỗ trợ giáo dục quốc dân một nhiệm vụ 
mới là tham gia vào đổi mới giáo dục và 
thúc đẩy nhu cầu tự học của người dân, 
xây dựng một xã hội học tập và kiến tạo.
2. Thực trạng đào tạo ngành thông 
tin - thư viện tại Việt Nam
Hiện nay đang có 2 chương trình được 
Bộ giáo dục và Đào tạo chính thức công 
nhận là ngành Quản lý thông tin và ngành 
Thông tin-Thư viện (TT-TV), trước năm 
2018 là 2 ngành Thông tin học và Khoa 
học thư viện [MOET, 2017]. Thay đổi này 
cho thấy sự dịch chuyển trong tư duy về 
ngành nghề, trong đó chú trọng đến quản 
trị thông tin trong bối cảnh nền kinh tế Việt 
Nam đang có sự dịch chuyển lớn sang nền 
kinh tế thông tin và tri thức. Cả nước có 
12 trường đào tạo về ngành thư viện với 
đủ 3 bậc đào tạo: cử nhân, thạc sĩ và tiến 
sĩ. Hàng năm đào tạo và cung cấp cho thị 
trường lao động khoảng 1000 nhân lực.
Khảo sát 7 chương trình đào tạo ngành 
TT-TV tại 4 trường đại học hàng đầu Việt 
Nam cho thấy, đang còn một khoảng cách 
lớn giữa đào tạo trong nước với yêu cầu của 
IFLA về năng lực cần có của cán bộ thư viện 
trong thế kỷ 21 [IFLA, 2012] (xem Bảng 1).
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
7THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
Ghi chú: Để đảm bảo tính khuyết danh trong nghiên cứu, các chương trình đào tạo của 
các trường đại học được mã hóa từ LIS1 đến LIS7.
Nghiên cứu chỉ ra một số vấn đề bất cập 
trong đào tạo nghề TT-TV hiện nay:
• Còn một khoảng cách khá lớn giữa 
nội dung của các chương trình đào tạo 
nguồn nhân lực TT-TV tại Việt Nam với 
thế giới. Các nội dung mang tính ứng dụng 
công nghệ, quản trị tri thức, môi trường 
thông tin, tác động xã hội của xã hội thông 
tin, đạo đức nghề nghiệp, tri thức bản địa 
chưa được các trường quan tâm.
• Các chương trình đào tạo đang 
nặng về lý thuyết, tỷ lệ thực hành, thực tập 
rất  ... trọng đến phát triển kỹ năng và 
thái độ của người học, gắn kết khả năng 
làm việc của sinh viên với yêu cầu của nhà 
tuyển dụng, giúp người học phát triển toàn 
diện với các kỹ năng cứng và kỹ năng mềm 
để nhanh chóng thích ứng với môi trường 
làm việc luôn thay đổi và thậm chí là đi đầu 
trong việc thúc đẩy thay đổi đó.
Năng lực tích lũy của mỗi người học sau 
khi tốt nghiệp được thể hiện qua ba khía 
cạnh đánh giá, đó là: kiến thức, kỹ năng và 
thái độ. Từ kiến thức chung được cung cấp, 
người học hiểu được thông tin mình đang 
tiếp nhận, chuyển hóa thông tin đó thành 
kiến thức riêng của mình để phản ánh và 
hiểu thế giới quan mình đang sống, hiểu 
lĩnh vực mình sẽ làm việc. Trong khi đó, kỹ 
năng giúp người học triển khai, hoàn thành 
các công việc cụ thể một cách tốt nhất, 
đặc biệt là các kỹ năng giúp họ phối hợp 
tổ chức và hợp tác trong công việc. Và thái 
độ, thói quen hay hành vi là những giá trị 
cá nhân mà người đó cần tích lũy theo năm 
tháng, dĩ nhiên là hoạt động giáo dục có vai 
trò xây dựng và hình thành giá trị nền tảng 
này. Thái độ sống, thái độ làm việc của một 
người có ảnh hưởng mang tính quyết định 
đến thành công của người đó.
Do vậy, các chương trình đào tạo phải 
được thiết kế với việc chú trọng vào phát 
triển năng lực nào cho người học. Theo 
nghiên cứu mới nhất, kiến thức không phải 
là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công 
trong công việc, nó chỉ chiếm 15%, trong 
khi đó thái độ sống, kỹ năng cá nhân đóng 
vai trò 85% trong thành công của mỗi cá 
nhân. Đây chính là vấn đề đặt ra cho giáo 
dục của chúng ta hiện nay, khi đang đặt 
nặng về vấn đề truyền dạy kiến thức theo lối 
hàn lâm. Điều này cũng đang đặt ra thách 
thức đối với việc đào tạo ngành TT-TV khi 
các trường đào tạo ngành này đang có hạn 
chế ở yếu tố thực hành nghề nghiệp và phát 
triển năng lực tư duy sáng tạo cá nhân.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
Kỹ năng 
mềm 
Công nghệ 
thông tin 
Cán bộ 
thư viện 
Nghiên cứu
chuyển giao
Lãnh đạo, 
quản lý 
Xây dựng 
và quản trị 
nguồn lực 
thông tin 
Kiến thức 
nền tảng 
Năng lực 
thông tin 
Hình 4. Năng lực cần có của cán bộ thư viện trong thế kỷ 21
3.2. Khung năng lực cho cán bộ thư viện
Trên cơ sở tham khảo các khung năng 
lực dành cho cán bộ thư viện của Hoa Kỳ 
[ALA, 2009], Canada [CARL, 2010], Úc 
[ALIA, 2014] và IFLA, kết hợp với khảo sát 
thực tiễn tại Việt Nam, chúng tôi đề xuất 
khung năng lực mới dành cho cán bộ thư 
viện Việt Nam trong thế kỷ 21. Trong đó, 
năng lực của cán bộ thư viện được hình 
thành bởi 7 nhóm lĩnh vực (xem Hình 4). 
* Kiến thức nền tảng (Foundational 
Knowledge)
Bao gồm kiến thức về môi trường xã hội, 
văn hóa, kinh tế, chính trị và thông tin nơi 
họ sống và làm việc: kiến thức cơ bản về 
nghề thư viện như vấn đề đạo đức, giá trị 
và những quy tắc căn bản của nghề thư 
viện; vai trò của thư viện trong việc thúc 
đẩy tự do chia sẻ tri thức thông qua việc 
xây dựng, quản lý và lưu trữ tài liệu khoa 
học; hiểu biết về nguồn học liệu học thuật 
như các đơn vị chuyên cung cấp học liệu 
học thuật, các tạp chí truy cập mở, các 
nguồn học liệu uy tín; các kiến thức về sở 
hữu trí tuệ, bản quyền tác giả để cung cấp 
thông tin cho người dùng một cách hiệu 
quả và đúng quy định của pháp luật.
Hiểu biết cặn kẽ đơn vị mà họ đang làm 
việc như: cấu trúc tổ chức, quy trình ra 
quyết định, quy trình công việc, tài chính, 
chính sách, chiến lược bổ sung, các dịch 
vụ đang cung cấp, các đối tượng bạn đọc 
mà họ phục vụ; ngoài ra họ còn phải nắm 
được bức tranh tổng quan về tầm nhìn, mục 
tiêu và chiến lược phát triển chung của tổ 
chức họ đang phục vụ. Không những thế, 
những hiểu biết rộng hơn về môi trường 
làm việc bên ngoài tổ chức (trong nước và 
quốc tế) cũng là yêu cầu bắt buộc cán bộ 
thư viện phải biết để họ có thể điều hành 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
10 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
hoạt động thư viện được hiệu quả trong bối 
cảnh hội nhập.
* Kỹ năng mềm (Interpersonal skills)
Kỹ năng mềm hay kỹ năng cá nhân 
được coi là một trong những nhóm yếu tố 
quyết định sự thành công của mỗi cá nhân. 
Kỹ năng mềm bao gồm: khả năng thích 
ứng, sự linh hoạt, sự hứng thú với những 
trải nghiệm và kiến thức mới; khả năng 
giao tiếp và tuyên truyền để cộng đồng 
thấy được vai trò và tầm quan trọng của 
thư viện; năng lực đàm phán để đạt được 
sự đồng thuận trong giải quyết vấn đề đặt 
ra, khả năng quản lý các thay đổi với tư 
duy mở và sẵn sàng thích ứng với các tình 
huống khác nhau; khả năng ra quyết định, 
kỹ năng giải quyết vấn đề; có sáng kiến 
mới và tư duy sáng tạo cùng tư duy đổi mới; 
khả năng phối hợp và hợp tác trong công 
việc; kỹ năng marketing để chủ động giới 
thiệu các sản phẩm và dịch vụ của thư viện 
đến người dùng, kỹ năng định hướng và tư 
vấn, kỹ năng viết và kỹ năng thuyết trình. 
Trong nghiên cứu của mình, Hawamdeh 
và Foo (2001) cho rằng, thói quen, hành vi 
ứng xử và thái độ là những năng lực quan 
trọng của cán bộ thư viện.
* Lãnh đạo và quản lý (Leadership and 
Management)
Năng lực lãnh đạo và quản lý được cho 
là nhóm năng lực giúp cán bộ thư viện chủ 
động tổ chức hoạt động của thư viện một 
cách hiệu quả. Năng lực này được thể hiện 
thông qua khả năng gây ảnh hưởng tạo 
động lực cho người khác trong công việc 
và môi trường làm việc của mình. Các kiến 
thức liên quan đến lãnh đạo và quản lý 
bao gồm: quản trị tài chính, quản trị nguồn 
nhân lực, phát triển các dịch vụ và nguồn 
lực thông tin, quản trị rủi ro, quản trị dự án, 
năng lực thẩm định và đánh giá, kỹ năng 
hợp tác và phối hợp đối với các bên liên 
quan. Không chỉ cán bộ quản lý thư viện, 
các nhân viên thư viện cũng cần được trang 
bị tối thiểu những năng lực này để tổ chức 
thực hiện công việc.
* Xây dựng và quản trị nguồn lực thông tin 
(Information Resources and Organization 
of Recorded Knowledge and Information)
Cán bộ thư viện có kiến thức nền tảng 
về tổ chức phát triển và quản lý nguồn lực 
thông tin trong thư viện phục vụ cho nhu 
cầu của người dùng tin. Kiến thức này bao 
gồm: hiểu được vòng đời của một ấn phẩm 
khoa học; phát triển và quản lý các bộ sưu 
tập; kiến thức về tổ chức thông tin số như 
lựa chọn, thu thập, lưu trữ, mô tả, tổ chức 
các tài liệu số với nhiều định dạng khác 
nhau; kiến thức về bảo quản số như các 
quy tắc căn bản, chính sách, quy trình, 
dịch vụ và các hoạt động cần thiết để đảm 
bảo cho việc truy cập lâu dài; kiến thức 
về lưu trữ và bảo quản tài liệu in ấn; hiểu 
thông tin được tổ chức như thế nào để từ 
đó xây dựng và quản trị các loại cơ sở dữ 
liệu trong thư viện. Sử dụng các hệ thống 
và tiêu chuẩn về mô tả thư mục, siêu dữ 
liệu, đánh chỉ mục và phân loại tri thức để 
tổ chức thông tin và tri thức.
* Năng lực thông tin (Information Literacy)
Năng lực thông tin (NLTT) được coi là 
năng lực thiết yếu của mỗi cá nhân trong 
thế kỷ 21. Hiệp hội Thư viện đại học quốc 
gia và cao đẳng Anh (SCONUL) đề xuất mô 
hình 7 trụ cột về NLTT [SCONUL, 2011]. 
NLTT bao gồm: nhận dạng (Indentify): có 
khả năng nhận biết nhu cầu thông tin mình 
cần; phạm vi (Scope): có khả năng truy cập 
đến nguồn tri thức khác nhau để lấp đầy sự 
hiểu biết của mình về vấn đề đang quan 
tâm, tức là biết các cách khác nhau để đáp 
ứng nhu cầu tin; lập kế hoạch (Plan): biết 
cách xây dựng chiến lược tìm kiếm, xác 
định thông tin và dữ liệu; thu thập (Gather): 
có khả năng định vị và truy cập đến nguồn 
thông tin và dữ liệu mình cần; đánh giá 
(Evaluate): biết cách so sánh và đánh giá 
thông tin và dữ liệu; quản lý (Manage): có 
khả năng tổ chức thông tin và dữ liệu, đồng 
thời áp dụng được những tri thức thu nhận 
được; thể hiện (Present): có khả năng trình 
bày kết quả nghiên cứu, tổng hợp những 
thông tin và dữ liệu đã có để tạo ra tri thức 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
11THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
mới và phân phối tri thức này dưới nhiều 
hình thức đa dạng khác nhau.
NLTT được chia thành 5 cấp độ, đó là: 
(1) Mức độ bắt đầu: chưa có NLTT; (2) Mức 
độ cơ bản: có NLTT để phục vụ cho các 
công việc cá nhân; (3) Mức độ nâng cao: 
có NLTT, có thể làm chủ mọi nhu cầu thông 
tin của mình và biết cách tìm kiếm, đánh 
giá và sử dụng một cách hiệu quả; (4) Mức 
độ thành thạo: NLTT trở thành một phần 
của năng lực cá nhân để phục vụ cho mục 
tiêu học tập suốt đời; (5) Mức độ chuyên 
gia: có NLTT để trở thành chuyên gia tư 
vấn, đào tạo NLTT cho người khác. Cán bộ 
thư viện cần đạt được NLTT ở mức độ 5. 
Năng lực thông tin của cán bộ thư viện 
được thể hiện qua việc đào tạo và hướng 
dẫn người dùng sử dụng thư viện hiệu quả; 
có kỹ năng sư phạm để giảng dạy về khai 
thác và sử dụng thông tin; khả năng tư duy 
phản biện và năng lực tự học suốt đời; tư 
vấn hỗ trợ dịch vụ thông tin tham khảo; 
tương tác giao tiếp với bạn đọc để hỗ trợ và 
làm thỏa mãn nhu cầu về thông tin của họ.
* Nghiên cứu và chuyển giao (Research 
& Contributions to the Profession)
Cán bộ thư viện phải có kiến thức nền 
tảng về nghiên cứu khoa học cũng như có 
sự cam kết hỗ trợ phát triển nghiên cứu 
khoa học và chuyển giao công nghệ. Họ 
đóng góp vào quá trình nghiên cứu và xuất 
bản như: viết bài, hiệu đính, tham khảo và 
đánh giá; hỗ trợ thông tin tham khảo trong 
quá trình nghiên cứu; giảng dạy phương 
thức trích dẫn và xây dựng tài liệu tham 
khảo, cũng như tham gia giảng dạy về 
khoa học thư viện; có phương pháp nghiên 
cứu và hiểu rõ các mô hình nghiên cứu; có 
khả năng viết hồ sơ kêu gọi tài trợ cho hoạt 
động nghiên cứu và triển khai các dự án 
nghiên cứu.
* Kỹ năng công nghệ thông tin (Information 
Technology Skills)
Cán bộ thư viện phải có sự hiểu biết và 
năng lực về CNTT một cách cơ bản để có 
thể ứng dụng CNTT vào hoạt động của 
thư viện nhằm đổi mới hoạt động, giúp thư 
viện bắt kịp với tiến bộ của KH&CN. Có thể 
khẳng định những tiến bộ của công nghệ 
xử lý thông tin, lưu trữ thông tin, truyền 
dẫn thông tin đều được áp dụng rất sớm 
vào lĩnh vực thư viện. Cán bộ thư viện cần 
nắm được hệ thống thư viện tích hợp, các 
công nghệ website mới nổi, quản trị nguồn 
lực thông tin điện tử, phát triển web, công 
nghệ lưu trữ, hệ thống quản trị nội dung, 
hệ thống hỗ trợ học tập, quản trị dữ liệu và 
kỹ năng đa phương tiện [Heinrichs & Lim, 
2009]. Họ cũng cần biết cách sử dụng các 
phương pháp đánh giá và thẩm định các 
thông số kỹ thuật, hiệu quả đầu tư của các 
sản phẩm và dịch vụ dựa trên công nghệ; 
Với vai trò là một chuyên gia thư viện số, 
cán bộ TT-TV phải nắm được các nguyên 
tắc và các kỹ thuật cần thiết để nhận dạng 
và phân tích các công nghệ mới và phát 
minh nhằm thúc đẩy ứng dụng các công 
nghệ tiên tiến có liên quan đến ngành 
TT-TV [Shahbazi & Hedayati, 2013].
4. Kết luận
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, thư 
viện Việt Nam cần tham gia kết nối để có 
tâm nhìn toàn cầu, và thực hiện tốt trách 
nhiệm phục vụ cộng đồng địa phương 
(think global, act local). Vai trò của cán bộ 
thư viện là thúc đẩy tiến trình hội nhập của 
thư viện Việt Nam với thế giới. Để làm được 
điều này, họ cần được trang bị năng lực để 
có khả năng thích ứng với môi trường làm 
việc quốc tế có tính cạnh tranh cao với sự 
thay đổi không ngừng của KH&CN.
Nghiên cứu này đưa ra các tiếp cận về 
chuẩn đầu ra theo mô hình “kiến thức - kỹ 
năng - thái độ” dựa theo phương pháp đào 
tạo CDIO, trong đó nhấn mạnh đến phát 
triển kỹ năng và thái độ của người học 
nhằm giúp họ thích ứng tốt với môi trường 
làm việc luôn thay đổi và có năng lực học 
suốt đời. Trên cơ sở đó đề xuất khung năng 
lực cốt lõi dành cho cán bộ thư viện thư 
viện Việt Nam trong thế kỷ 21. Khung năng 
lực gồm 7 nhóm lĩnh vực là cơ sở để các 
trường đào tạo ngành TT-TV có thể tham 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
12 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019
khảo trong việc đổi mới và điều chỉnh các 
chương trình đào tạo. Qua đó, góp phần 
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao 
tiệm cận với trình độ quốc tế, đồng thời 
tham gia tích cực vào tiến trình phát triển 
kinh tế-xã hội của đất nước trong bối cảnh 
hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ALA Council, (2009). ALA’s core 
competences of librarianship. Approved 
by the ALA Executive Board, October 25th 
2008. Approved and adopted as policy by 
the ALA Council, January 27th 2009.
2. ALIA. (2014). The library and information 
sector: core knowledge, skills and 
attributes. Truy cập tại https://www.alia.
org.au/about-alia/policies-standards-and-
guidelines/library-and-information-sector-
core-knowledge-skills-and-attributes.
3. CARL. (2010). Core competencies for 
21st century CARL librarians. Truy cập tại 
https://www.carl-abrc.ca/doc/core_comp_
profile-e.pdf.
4. Cerny, M. (2015). The way to open 
education through the modern technology. 
Procedia - Social and Behavioral Sciences, 
vol 174, pp. 3194 - 3198.
5. Coghill, J.G., Russell, R.G. (2017). 
Developing librarian competencies for the 
digital age. Rowman & Littlefield.
6. IFLA. (2018). Global vision report summary 
top 10 highlights and opportunities. Truy 
cập tại https://www.ifla.org/files/assets/
GVMultimedia/publications/gv-report-
summary.pdf
7. IFLA. (2017). the IFLA Global Vision 
Project. Truy cập tại https://www.ifla.org/
node/11900.
8. IFLA. (2016). IFLA trend resport 2016 
update. Truy cập tại https://trends.ifla.
org/files/trends/assets/trend-report-2016-
update.pdf.
9. Gunnarsson, S. (2017). Automatic control 
education in a CDIO perspective. IFAC-
Papers OnLine. 50(1), pp. 12161-12166.
10. Hawamdeh, S., & Foo, S. (2001). 
Information professionals in the information 
age: Vital skills and competencies. Proc. 
International Conference for Library and 
Information Science Educators in the 
Asia Pacific Region (ICLISE 2001), Kuala 
Lumpur, Malaysia, June 11-12.
11. Heinrichs, J.H. & Lim, J.S. (2009). 
Emerging requirements of computer 
related competencies for librarians. Library 
& Information Science Research, 31, pp. 
101-106.
12. Khoso, M. (2016). How much data is 
produced every day? Northeastern 
University. Truy cập từ 
northeastern.edu/levelblog/2016/05/13/
how-much-data-produced-every-day. 
13. Luật tiếp cận thông tin. Số 104/2016/QH13, 
ngày 06 tháng 4 năm 2016 bởi Quốc hội 
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14. Luật an ninh mạng. Số 24/2018/QH14, 
ngày 12 tháng 6 năm 2018 bởi Quốc hội 
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
15. MOET. 2014. Quyết định số 2653/QĐ-
BGDĐT: ban hành Kế hoạch hành động 
của ngành Giáo dục triển khai Chương 
trình hành động của Chính phủ thực hiện 
Nghị quyết số 29-NQ/TW.
16. NLB (2017). Drowning in information 
but starved for knowledge. Truy cập từ 
information-but-starved-for-knowledge
17. SCONUL (2011). The SCONUL seven 
pillars of information literacy core model 
for higher education. SCONUL Working 
Group on Information Literacy. Truy cập từ 
documents/coremodel.pdf 
18. Shahbazi, R. and Hedayati, A. (2013). 
Identifying digital librarian competencies 
according to the analysis of newly emerging 
IT-based LIS jobs in 2013. The Journal of 
Academic Librarianship, vol 42, pp. 542-550.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 10-9-2018; 
Ngày phản biện đánh giá: 15-11-2018; Ngày 
chấp nhận đăng: 15-12-2018).

File đính kèm:

  • pdfkhung_nang_luc_cot_loi_danh_cho_can_bo_thu_vien_viet_nam_tro.pdf