Khủng hoảng tài chính toàn cầu - Một số giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng

kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra,

dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang

sống, đốm lửa nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall nơi ngọn

lửa đã bùng cháy và tiếp tục lan xa đã tác động đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính. Mối

quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế, đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động

trong mọi tình huống, dự báo, dự đoán được khả năng xảy ra và định lượng rủi ro. Từ đó có biện

pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro.

pdf 7 trang kimcuc 9020
Bạn đang xem tài liệu "Khủng hoảng tài chính toàn cầu - Một số giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khủng hoảng tài chính toàn cầu - Một số giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Khủng hoảng tài chính toàn cầu - Một số giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
26 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU - MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ 
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 
Nguyễn Thị Hồng Yến*, Trần Phạm Văn Cương 
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng 
kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra, 
dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang 
sống, đốm lửa nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall nơi ngọn 
lửa đã bùng cháy và tiếp tục lan xa đã tác động đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính. Mối 
quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế, đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động 
trong mọi tình huống, dự báo, dự đoán được khả năng xảy ra và định lượng rủi ro. Từ đó có biện 
pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro. 
Từ khóa: Khủng hoảng tài chính, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp ngăn chặn. 
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÀ GÌ? 
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một 
hay một số nhân tố của nền kinh tế trong 
việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài 
chính của mình. Dấu hiệu của Khủng hoảng 
tài chính là: 
Các NHTM không hoàn trả được các khoản 
tiền gửi của người gửi tiền. 
Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng 
được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy 
đủ các khoản vay cho ngân hàng. Chính phủ 
từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. 
NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG 
HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 
Các khoản cho vay mua nhà dưới chuẩn 
Bắt nguồn từ thị trường địa ốc Mỹ, cuộc 
khủng hoảng “nợ dưới chuẩn” (subprime) đã 
lan rộng như một virus máy tính, làm chao 
đảo thị trường tiền tệ và chứng khoán quốc tế. 
Ngân hàng trung ương các cường quốc đã 
phải lập tức đưa ra những biện pháp cấp cứu, 
nhiều tập đoàn ngân hàng, quỹ đầu tư, cơ 
quan tài trợ bất động sản chịu lỗ nặng khiến 
nhiều lãnh đạo bị mất chức và hàng loạt nhân 
viên bị sa thải. Nhiều kinh tế gia đã tiên đoán 
là kinh tế Mỹ sẽ bước vào giai đoạn suy thoái, 
gây ảnh hưởng lớn cho toàn thế giới! Để tìm 
hiểu, chúng ta hãy tìm về cội nguồn của vấn 
đề. Vậy thế nào là cho vay dưới chuẩn? 
Vay trả góp nhà theo hình thức cổ điển 
 Tel: 0912662033 , Email: ngocantra@yahoo.com 
Ngân hàng buộc người vay phải có ít nhất 10% 
- nghĩa là chỉ cho vay tối đa 90% trị giá căn 
nhà. Số tiền trả góp hàng tháng thì không nên 
vượt quá mức an toàn là một phần ba mức thu 
nhập trước khi tính thuế. Các ngân hàng Mỹ 
thường dùng một công thức gọi là “tỷ lệ 
28:36” dựa vào mức thu nhập hàng tháng - 
28% là tỷ lệ trước (front ratio) và 36% là tỷ lệ 
sau (back ratio). Ngân hàng thường chỉ cho 
vay nếu số tiền trả góp hằng tháng (kể cả thuế 
và tiền bảo hiểm ngôi nhà) không vượt quá 
28% (tỷ lệ trước) thu nhập hằng tháng. Cộng 
thêm các khoản nợ khác (như tiền trả nợ thẻ tín 
dụng, mua xe, nợ trả học phí cho con cái...) thì 
tất cả không được quá 36% (tỷ lệ sau) của số 
thu nhập hằng tháng. Một người lãnh lương 
5.000 USD mỗi tháng thì tốt nhất là có thể dành 
ra 1.400 USD (5.000 x 28%) để trả nợ mua 
nhà. Không kể thuế và tiền bảo hiểm nhà cửa, 
nếu dùng số tiền này để trả đều mỗi tháng thì 
người ấy có thể vay trả góp theo hình thức 
chiết khấu (amortization) trong 30 năm với lãi 
suất 7,25%, một món nợ là 205.000 USD. Vì 
cần ứng ra 10% nên người ấy có thể mua một 
ngôi nhà trị giá 228.000 USD (205.000/90%) 
và cần đặt cọc 23.000 USD. Ngoài ra, khi xét 
đơn vay nợ thì các ngân hàng Mỹ lại còn căn 
cứ vào “điểm tín dụng” (credit score) của 
người đi vay. Đây là thang điểm do Công ty 
Fair Isaac Corp. thiết lập, gọi tắt là điểm số 
FICO, từ 300 - 900 điểm. Điểm tín dụng này 
được thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên năm 
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
27 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
yếu tố mà quan trọng nhất là “tiểu sử tín 
dụng”. Điểm càng cao thì càng dễ vay và 
được cho vay với lãi suất thấp hơn. Thông 
thường thì người vay sẽ gặp khó khăn với 
điểm tín dụng thấp hơn 620(4). 
Cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending) 
Là hình thức cho vay rất phổ biến, đặc biệt tại 
Mỹ. Thuật ngữ “dưới tiêu chuẩn - subprime” ở 
đây liên quan đến vị thế tín dụng của người vay. 
“Những người đi vay dưới tiêu chuẩn thường có 
quá khứ tín dụng (tiền sử tín dụng) không tốt, 
như thường có những khoản thanh toán quá 
hạn, và có thể có những vấn đề nghiêm trọng 
như phải ra toà, phá sản (4). 
Cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn 
(subprime housing mortgage) 
Là một trong những loại hình thuộc lĩnh vực 
cho vay dưới tiêu chuẩn. Cho vay dưới hình 
thức này đều chấp nhận đảm bảo bằng tài sản 
hình thành từ vốn vay. 
Vay nợ... dưới chuẩn. Tại sao ở Mỹ lại phát 
triển hình thức cho vay này? 
Tin tưởng rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng 
Nguồn tài trợ địa ốc gia tăng 
Lượng tiền cho vay địa ốc gia tăng 
Chứng khoán hoá các khoản cho vay thế chấp 
Những món nợ địa ốc đa cấp, đa dạng nay đã 
được “trái phiếu hóa” thành những sản phẩm 
tài chính thông dụng và gọn gàng, có thể mua 
bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ. Với niềm 
tin mù quáng vào tương lai bất động sản 
Mỹ, mọi người - kể cả những ngân hàng lớn - 
đều lao vào mua các trái phiếu bất động sản 
này. Thêm vào đó, những quỹ đầu tư lớn cũng 
đã vay rất nhiều từ các ngân hàng để mua các 
trái phiếu bất động sản cho nên chính các 
ngân hàng lại cũng “gián tiếp” gánh thêm các 
món nợ đầu tư địa ốc - qua việc tài trợ các 
quỹ đầu tư mua những trái phiếu này. 
Như vậy, cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp 
tại Mỹ xuất phát từ việc các ngân hàng giảm 
nhẹ các tiêu chuẩn cho vay cho đối với các 
khoản vốn vay để mua nhà có độ rủi ro cao và 
việc các ngân hàng nước này có xu hướng 
chứng khoán hóa các khoản cho vay đó 
KẾT QUẢ 
Thị trường, sẽ thừa nhà (xem biểu đồ 01). 
Biểu đồ 01 dưới đây cho thấy lượng cung nhà 
ở Mỹ tăng vọt bắt đầu từ nửa cuối năm 2005 
như là kết quả của quá trình cho vay mua nhà 
quá “phóng khoáng” của các ngân hàng Mỹ. 
Thị trường đĩa ốc Mỹ lại rơi vào thời kỳ 
đóng băng, người vay tiền để mua nhà bán 
kiếm lời lại không thể bán được nhà (xem 
biểu đồ 02), 
trong khi nhu cầu nhà ở lại giảm mạnh (xem 
biểu đồ 03), cứ như thế món nợ vay mua 
nhà bỗng tăng vọt. Đến lúc này các ngân 
hàng bắt đầu nhận thấy nợ xấu, nợ khó đòi 
tăng vọt. Số lượng nợ xấu và khách hàng vỡ 
nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào 
cảnh thua lỗ đáng sợ. 
Chưa hết, các khoản vay tín dụng xấu này 
được chứng khoán hóa thành các loại cổ 
phiếu, chẻ nhỏ ra rồi đem lên giao dịch trên 
thị trường chứng khoán (TTCK). 
Người vay 
mua nhà 
Các Ngân hàng 
và các công ty 
tài trợ đị a ốc 
Người vay 
mua nhà 
Các 
khoản vay 
 thế chấp 
Chứng 
 khoán 
hoá các 
khoản vay 
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
28 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Vì thế, mặc dù cuộc khủng hoảng cho vay 
mua nhà chỉ xảy ra ở Mỹ nhưng ảnh hưởng 
thì lan đến tận New Zealand, Đức, Pháp, Úc, 
Nhật... vì họ cũng tham gia mua bán chứng 
khoán loại này. 
Nguyên nhân căn bản của cuộc khủng hoảng 
tài chính toàn cầu hiện nay là do những vấn 
đề liên quan đến thị trường nhà ở thế chấp, 
Tuy nhiên, theo nhà phân tích chiến lược 
Igor Nikolayev của Cơ quan kiểm toán tư 
FBK - tác giả của bản nghiên cứu Thị 
trường chứng khoán: “Tăng trưởng cao, sụt 
giảm thấp”, nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa 
của vấn đề này chính là việc cấp quá nhiều 
vốn vào thị trường. 
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay 
là do tỷ lệ cấp vốn vào thị trường so với GDP 
vượt quá giá trị mà có thể đảm bảo một sự 
phát triển ổn định trong tương lai. Cuộc 
khủng hoảng thế chấp tại Mỹ chỉ là chất xúc 
tác cho tiến trình này. Nếu nó không xảy ra, 
thì cũng có một thứ khác thay thế. Một sự xụp 
giảm mạnh trong tỷ lệ cấp vốn vào thị trường 
chứng khoán của các nước khác nhau là điều 
tất yếu, cũng giống như là sẽ tất yếu dẫn đến 
cuộc suy thoái GDP. 
Mỹ đã không triệt để cải tổ cơ cấu kinh tế 
một cách mạnh mẽ kể từ khủng hoảng kinh 
tế Châu Á năm 1997 
Các nước Châu Á liên tục có thặng dự thương 
mại do đồng nội tệ bị phá giá trong khủng 
hoảng khiến xuất khẩu có tính cạnh tranh cao. 
Mặt khác, do mất niềm tin vào IMF, Châu Á 
tập trung củng cố dự trữ ngoại hối để tăng 
cường khả năng đối phó với khủng hoảng tài 
chính tiền tệ tương tự. Kết quả là dự trữ ngoại 
tệ của các nước Châu Á đã tăng mạnh (Trung 
quốc 1997: 180 tỉ; 2008: 1700 tỉ, Nhật 1997: 
210 tỉ, 2008: 1 nghìn tỉ, Ấn độ: 1997: 50 tỉ, 
2008: 250 tỉ). Châu Á chuyển từ châu lục 
thâm hụt và nhập vốn sang thặng dư và xuất 
vốn. Sau 1997, mặc dù kinh tế tăng trưởng 
nhưng Mỹ luôn trong tình trạng thâm hụt cán 
cân thanh toán vãng lai. Thâm hụt thương mại 
với Châu Á, đặc biệt với Trung Quốc tăng 
gần 250 tỉ đô la. Giá dầu tăng gấp 5 lần, từ 20 
đô/thùng dầu thô lên hơn 100 đô la/thùng năm 
2007 khiến nhập siêu tăng mạnh. Chiến tranh 
I-rắc, Afghanistan làm ngân sách thâm hụt 
800 tỉ đô. Các chính sách giảm thuế làm 
nguồn thu ngân sách giảm. Do vậy tăng 
trưởng kinh tế của Mỹ sau năm 1997 là không 
bền vững. Thay vì các biện pháp cải cách 
kinh tế sâu rộng để củng cố tăng trưởng, Mỹ 
chọn việc nhập khẩu vốn (vay nợ) của Châu 
Á, chủ yếu là của Trung Quốc để khác phục 
thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Việc 
vay nợ được thực hiện qua phát hành các trái 
phiếu kho bạc và doanh nghiệp. Trong gần 
mười năm, quá trình vay nợ này được tiến hành 
thuận lợi, Mỹ trở thành con nợ lớn nhất thế giới 
và châu Á, trong đó Trung Quốc là điển hình, 
trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. Trung Quốc 
sở hữu 38% trái phiếu kho bạc Mỹ. 
Việc vay nợ dễ dàng để khắc phục cán cân 
thanh toán vãng lai không những trì hoãn cải 
cách kinh tế lẽ ra phải được thực hiện sớm, mà 
còn khiến tín dụng Mỹ phát triển thái quá. 
Thay vì nâng lãi xuất cơ bản để thắt chặt tín 
dụng, Ngân hàng Trung ương Mỹ lại duy trì lãi 
xuất thấp để khuyến khích vay nợ nước ngoài. 
Khi tín dụng mở rộng, lãi xuất cơ bản thấp đã 
kích thích thị trường tài chính và thị trường 
chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư và công 
ty tài chính lao vào các hoạt động kinh doanh 
rủi ro với mục đích thu lời cao hơn nữa. Đầu 
tiên, các kinh doanh rủi ro tập trung vào lĩnh 
vực công nghệ viễn thông (IT). Sự đầu cơ quá 
đáng trong lĩnh vực IT đã dẫn đến qua bong 
bóng viễn thông nổ vào năm 2000 và kinh tế 
Mỹ đi vào suy thoái trong năm 2001. Cùng 
với quả bong bóng IT nổ, thị trường chứng 
khoán Mỹ cũng lao đao vì những vụ gian lận 
tín dụng như vụ Eron năm 2002. 
Mở rộng thị trường cạnh tranh, nhưng lầm 
lẫn giữa “rào cản” cần phá bỏ và các 
“kiểm soát” cần bảo vệ 
Cho phép ngân hàng thương mại (commercial 
banks) hoạt động đa năng và rộng khắp cả 
nước. Mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài 
chính mới xuất hiện mà không có sự kiểm 
soát nào.Cho phép các hành động đầu tư hoàn 
toàn mang tính đầu cơ. Bán khống trần trụi 
(naked shorting) là một thí dụ. Đây là hành 
động mà giới tài chính có thể sử dụng để đẩy 
giá một loại chứng khoán nào đó xuống để 
làm giàu. Họ bán chứng khoán ra (dù không 
có chứng khoán trong tay) - tức là bán được 
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
29 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
giá cao - và làm thế giá chứng khoán bị đẩy 
xuống, họ mua lại với giá thấp. 
Kinh doanh mạo hiểm vượt quá giới hạn 
của các ngân hàng đầu tư và công ty tài 
chính (LÒNG THAM CỦA CÁC NH) 
Sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức 
năng cũng đóng góp phần không nhỏ tạo ra 
khủng hoảng. Trong khi các ngân hàng 
thương mại bị giám sát chặt chẽ với các hệ 
thống đánh giá rủi ro hiệu quả, thì các ngân 
hàng đầu tư và công ty tài chính hầu như 
không bị giám sát. Thêm vào đó, việc giám 
sát chất lượng đánh giá tín dụng của các công 
ty đánh giá tín dụng cũng không hiệu quả.Nói 
cách khác, hệ thống giám sát của Mỹ với thị 
trường tài chính rủi ro chưa đủ hiệu quả để có 
thể quản lý thị trường này. 
Bán khống làm trầm trọng thêm cuộc khủng 
hoảng vì đã tạo ra làn sóng bán tháo chứng 
khoán. Bán khống (Short-selling), trong tài 
chính có nghĩa là một cách kiếm lợi nhuận từ 
sự kỳ vọng tụt giảm giá của một loại chứng 
khoán, ngoại tệ... Bán khống là bán một loại 
chứng khoán mà người bán không sở hữu tại 
thời điểm bán(4). Cụ thể, họ vay chứng khoán 
để bán và sau đó mua lại chứng khoán với 
giá thấp hơn để trả cho người họ vay, phần 
chênh lệch giá thấp hơn đó mang lại lợi 
nhuận cho người bán khống. 
HẬU QUẢ 
Phá sản hàng loạt các ngân hàng và công 
ty tài chính 
Tổng số lượng vốn của toàn bộ hệ thống tài 
chính Mỹ bị thiệt hại là gần 2 nghìn tỉ. 
Các ngân hàng trên thế giới đồng loạt thua lỗ 
Các ngân hàng và các định chế tài chính có 
thể lỗ 1 tỷ USD từ cuộc khủng hoảng tín 
dụng do khủng hoảng nợ dưới chuẩn cho 
vay cầm cố. 
Do lượng nợ xấu ngày một tăng đã được 
chuyển sang cho những công ty thu hồi nợ 
chuyên nghiệp, nên ngành công nghiệp thu 
hồi nợ dự tính sẽ tăng trưởng 9,5% năm 2008 
và sẽ tiếp tục có tăng trưởng chừng nào nợ 
quá hạn vẫn tiếp tục tăng. 
Gánh nặng trả nợ của người vay tiền 
Suy thoái kinh tế toàn cầu: Dự báo tăng 
trưởng giảm. 
Những dự báo về tăng trưởng kinh tế ngày 
càng bi quan do thu hẹp tín dụng ngày càng lộ 
rõ. Dưới đây là dự báo của IMF kể từ năm 
2006 đối với kinh tế thế giới (3). 
Dự báo kinh tế thế giới từ năm 2006 
Thị trường tín dụng đóng băng 
Các khoản vay thế chấp đã giảm hẳn trong 
năm 2008 trong đó khoản vay thế chấp 
thương mại hoàn toàn biến mất trên biểu đồ. 
Thị trường chứng khoán bất ổn 
Thị trường chứng khoán trên toàn thế giới, từ 
Thượng Hải cho tới London đều sụt giảm. 
Trong khi đó tại nước Mỹ, chỉ số công nghiệp 
Dow Jones cũng mất điểm mạnh và xuống 
thấp nhất trong năm. 
Biểu đồ chỉ số công nghiệp Dow Jones 
trong 12 tháng qua (tính đến hết 31/7) 
Thị trường địa ốc sụp đổ 
Nguyên nhân cơ bản khiến thị trường tài 
chính chao đảo là do giá nhà tại Mỹ giảm 
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
30 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
mạnh lan ra toàn nước Mỹ lần đầu tiên kể từ 
những năm 30. 
Giá nhà sẽ tiếp tục xuống. Cho đến nay giá 
nhà ở một số nơi như thành phố New York 
gần như chưa bị ảnh hưởng. Nhưng với số 
người trong khu vự tài chính mất việc làm, 
khả năng xuống giá ở New York là rất cao. 
Lạm phát gia tăng (giá cả lương thực, nguyên 
liệu): Giá hàng hóa leo thang 
Giá hàng hóa đã leo thang chóng mặt trong 
chỉ trong vòng 12 tháng qua đặc biệt là giá 
vàng và giá dầu. Giá vàng tăng thêm 54% 
trong khi giá dầu tăng tới 91%. Đồng euro 
trước khi bị mất giá so với đồng USD trong 
thời gian gần đây cũng đã tăng giá thêm 18% 
so với đồng USD. 
Lạm phát trong tương lai sẽ tăng cao dù giá 
xăng dầu xuống vì mức tín dụng được Fed 
đẩy mạnh để cứu nguy các công ty tài chính 
và để nền kinh tế không đi vào suy thoái. 
Điều có thể xảy ra là nền kinh tế suy thoái 
hoặc phát triển chậm nhưng lạm phát vẫn cao. 
Thất nghiệp 
Dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế Mỹ thể 
hiện rõ qua con số người bị mất việc làm. 
Kể từ đầu năm 2008 đến nay đã có khoảng 
1,2 triệu người Mỹ mất việc làm, chiếm 
8,5% dân số Mỹ. 
VIỆT NAM CÓ BỊ ẢNH HƯỞNG? 
Tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng đến 
kinh tế trong nước không lớn. Tuy nhiên, tác 
động gián tiếp thì lại rất mạnh mẽ. Thực tế, 
thời gian qua vẫn chưa ghi nhận và đo lường 
được những thiệt hại cụ thể nào từ cuộc 
khủng hoảng này đối với nước ta. Điều này 
được thể hiện ở một số mặt sau: 
Trong thời gian qua không biểu hiện nào cho 
thấy các ngân hàng có liên quan đến cho vay thế 
chấp bất động sản dưới tiêu chuẩn ở Mỹ có chi 
nhánh tại Việt Nam rút vốn về nước. Bên 
cạnh đó, hiện tại chưa có ngân hàng Việt 
Nam nào có hoạt động cho vay thế chấp bất 
động sản trên thị trường Mỹ. Vì vậy sự ảnh 
hưởng của cuộc khủng hoảng này đến Việt 
Nam hiện tại ít có khả năng. 
Mặc dù cuộc khủng hoảng nhà đất đã lan sang 
thị trường chứng khoán của một số quốc gia 
hàng đầu thế giới, nhưng ảnh hưởng của nó 
đối với thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn 
không nhiều. Sự sụt giảm chỉ số VN Index 
được đánh giá chưa hẳn là do tác động của 
cuộc khủng hoảng, nguyên nhân chính có thể 
là do VN Index trở về với giá trị thực của nó. 
VIỆT NAM LÀM GÌ NẾU KHỦNG 
HOẢNG KÉO DÀI 
Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia 
Lê Đức Thúy nhấn mạnh: 
"Nhiệm vụ trọng tâm trong những tháng cuối 
năm và năm sau là coi việc ngăn ngừa chiều 
hướng đình trệ sản xuất kinh doanh"(2). 
Một số giải pháp để ứng phó với cuộc khủng 
hoảng bao gồm: 
Nâng cao năng lực tài chính của các ngân 
hàng để tăng khả năng chống đỡ với những 
ảnh hưởng khách quan; 
Trở lại nguyên tắc lãi suất thỏa thuận chứ 
không nên áp dụng trần lãi suất như hiện nay; 
Phải lấy tỷ giá thực làm cơ sở định tỷ giá 
danh nghĩa; 
Tháo dỡ hạn mức tăng trưởng tín dụng không 
quá 30% để tạo điều kiện cho các tổ chức 
tín dụng có thể phân bổ vốn đến những nơi 
có hiệu quả. 
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
31 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát và giám sát 
bằng hệ số an toàn vốn, dự phòng rủi ro; có 
một số giải pháp về việc miễn, hoãn hay hoàn 
thuế cho DN... 
Để giảm bớt tác động tiêu cực của cuộc 
khủng hoảng toàn cầu, các doanh nghiệp Việt 
Nam nên có chiến lược tồn tại bằng cách củng 
cố dòng tiền mặt. 
Các doanh nghiệp cũng nên định hướng xuất 
khẩu sang các thị trường mới ở Trung Đông 
và ASEAN cũng như thị trường nội địa. 
Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần 
rút ra những bài học kinh nghiệm từ một loạt 
các sự kiện gần đây. 
Chúng ta cần ngăn chặn một cuộc khủng hoảng 
ngân hàng liên quan đến các khoản cho vay bất 
động sản xấu. Hoạt động thanh tra, kiểm tra 
phải được tiến hành nghiêm khắc và Ngân hàng 
Nhà nước (NHNN) nên sẵn sàng bơm thanh 
khoản cho hệ thống ngân hàng khi cần thiết và 
có kế hoạch sáp nhập những ngân hàng yếu vào 
những ngân hàng mạnh. 
NHNN nên có kế hoạch bảo hiểm các khoản 
tiền gửi ngân hàng. 
Trong trường hợp khủng hoảng thế giới xấu 
đi, cơ quan quản lý cần kích thích tiêu dùng 
trong nước thông qua chính sách tín dụng 
mềm dẻo hơn. Việc NHNN cắt giảm lãi suất 
cơ bản cùng một số biện pháp nới lỏng chính 
sách tiền tệ khác là bước đi đúng hướng. 
KIẾN NGHỊ VỚI CÁC BÊN LIÊN QUAN 
Đối với các Ngân hàng thương mại 
Rà soát lại và thường xuyên kiểm tra mục 
đích sử dụng vốn của khách hàng vay. 
Tỷ lệ cho vay trên giá trị căn nhà thấp và chỉ 
cho vay đối với khách hàng có tiền sử tín 
dụng tốt. 
Thẩm định thật kỹ các dự án nhà đất và phải 
thẩm định cả phần rủi ro nếu thị trường rơi 
vào tình trạng đóng băng. 
Đối với Ngân hàng nhà nước 
Tiếp tục hoàn chỉnh để tiến tới ban hành Cơ 
chế tiếp nhận xử lý tổ chức tham gia Bảo 
hiểm tiền gửi(1). Nếu được thực hiện tốt thì lần 
đầu tiên Việt Nam sẽ có một cơ chế tiếp nhận 
và xử lý đồng bộ các ngân hàng khi khủng 
hoảng và đổ vỡ. Như vậy, kể từ nay các 
TCTD khi gặp sự cố, có nguy cơ dẫn đến đổ 
vỡ sẽ được tiếp nhận và xử lý theo một quy 
trình chuẩn, hạn chế hậu quả ở mức thấp nhất 
và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Bên 
cạnh đó, sẽ tạo ra một môi trường pháp lý cho 
việc giải quyết phá sản, giải thể phù hợp với 
đặc thù của hoạt động tiền tệ và ngân hàng, 
thiết lập được một tổ chức đầu mối chịu trách 
nhiệm trong xử lý khủng hoảng. 
NHNN cần theo dõi sát diễn biến cuộc khủng 
hoảng này để có những động thái phù hợp, đặc 
biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán 
Việt Nam vẫn trên đà suy giảm và lạm phát 
trong nước tăng cao như hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bảng tổng hợp các câu hỏi phỏng vấn các cán 
bộ công chức, các chuyên gia TC - NH. 
[2] Phát biểu của Thống đốc Lê Đức Thúy. 
[3] Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài 
chính tiền tệ tháng 1-5 năm 2006. 
[4] Website Ngân hàng Nhà nước VN - 
www.sbv.gov.vn 
GLOBAL FINANCIAL CRISIS - SOME SOLUTIONS RESPOND BANKING 
SYSTEM OF VIETNAM 
 Nguyen Thi Hong Yen , Tran Pham Van Cuong 
 Economics and Business Administration - Thai Nguyen University
SUMMARY 
The economy today, one of the main reasons causing the economic crisis is due to the weakness of 
 Tel: 0912662033, Email: ngocantra@yahoo.com 
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32 
32 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
the Banking system. When the financial crisis began to take place, seems it is just a spot fire on the 
mountain. But in the real world connection that we are living, he spotted a small fire was opening 
a large fire. Wind shocks on Wall Street where the fire had spread and continued to burn away the 
impact of all those related to finance. Close relationships between banks - customers - the 
economy, requiring the banks must be active in every situation, forecast and predict the possibility 
and quantify risk. Since that precautions minimize the impact of risk. 
Key words: Financial crisis, causes, consequences and solutions to prevent. 

File đính kèm:

  • pdfkhung_hoang_tai_chinh_toan_cau_mot_so_giai_phap_ung_pho_cua.pdf