Khéo léo sử dụng con người – nét độc đáo trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam và sự kế thừa của Hồ Chí Minh

Khéo léo hay nghệ thuật sử dụng con người là phương pháp sử dụng và phát huy tài

năng con người một cách hiệu quả vào những mục tiêu tốt đẹp cho con người, đất nước và xã

hội loài người. Trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam ông cha ta đã tổng kết việc

khéo léo sử dụng con người bằng một câu rất ngắn gọn: Dụng nhân như dụng mộc – nguyên

tắc sử dụng người cũng như người thợ mộc chọn gỗ làm đồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá

trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam Người cho rằng: “Muôn việc

thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”(1).

pdf 11 trang kimcuc 5400
Bạn đang xem tài liệu "Khéo léo sử dụng con người – nét độc đáo trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam và sự kế thừa của Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khéo léo sử dụng con người – nét độc đáo trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam và sự kế thừa của Hồ Chí Minh

Khéo léo sử dụng con người – nét độc đáo trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam và sự kế thừa của Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(37)-2018 
129 
KHÉO LÉO SỬ DỤNG CON NGƯỜI – NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG 
QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ 
SỰ KẾ THỪA CỦA HỒ CHÍ MINH 
Phạm Ngọc Trâm 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - 
Đại học Quốc gia TP.HCM 
Ngày nhận bài 20/3/2018; Ngày gửi phản biện 30/3/2018; Chấp nhận đăng 15/5/2018 
Email: phamngoctram@hcmussh.edu.vn 
Tóm tắt 
Khéo léo hay nghệ thuật sử dụng con người là phương pháp sử dụng và phát huy tài 
năng con người một cách hiệu quả vào những mục tiêu tốt đẹp cho con người, đất nước và xã 
hội loài người. Trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam ông cha ta đã tổng kết việc 
khéo léo sử dụng con người bằng một câu rất ngắn gọn: Dụng nhân như dụng mộc – nguyên 
tắc sử dụng người cũng như người thợ mộc chọn gỗ làm đồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá 
trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam Người cho rằng: “Muôn việc 
thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”(1). 
Từ khóa: chính trị, con người, Hồ Chí Minh, khéo léo, nghệ thuật, tư tưởng, truyền thống 
Abstract 
SKILFUL USE OF PEOPLE - UNIQUE IN THE TRADITIONAL VIETNAMESE 
POLITICAL VIEWS AND THE SUCCESSOR OF HO CHI MINH 
Skilful use of human art is a way of using and promoting human talent effectively in 
good intentions for the people, the country and human society. In the traditional Vietnamese 
political viewpoint, our father summarized the ingenuity of employing humans in a very brief 
sentence: The human being is like a carpenter - the principle of using a person as well as a 
carpenter chooses wood for making furniture. President Ho Chi Minh in the search for a way 
to save the country and the leader of the revolution in Vietnam who said: "To succeed or fail, 
either by good or bad officials. That is a certain truth." 
1. Đặt vấn đề 
Đất nước Việt Nam tươi đẹp trải dài hơn 3.000 cây số, cầu nối giữa lục địa châu Á với Biển 
Đông, từ lâu phải thường xuyên đối diện với nhiều đội quân xâm lược lớn mạnh. Lịch sử hàng 
ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quan điểm chính trị Việt Nam được hình thành. 
Đặc trưng cơ bản của quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam là trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia, 
dân tộc lên trên hết, quan tâm giải quyết những lợi ích thiết thực của dân, khéo léo sử dụng con 
người; biết phát huy dân chủ trên tinh thần khoan dung, mềm dẻo biết tiếp thu những kiến thức của 
nhân loại, đúc kết chúng thành những tri thức, kinh nghiệm của mình để vận dụng vào lãnh đạo, 
quản lý đất nước. Từ góc độ lịch sử bài viết tập trung phản ánh tinh hoa chính trị truyền thống 
Việt Nam và sự kế thừa của Hồ Chí Minh về vấn đề khéo léo sử dụng con người. 
Phạm Ngọc Trâm Khéo léo sử dụng con người - nét độc đáo trong quan điểm chính trị... 
 130 
2. Khéo léo sử dụng con người trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam 
Khéo léo hay nghệ thuật sử dụng con người đều chỉ những phương pháp sử dụng và 
phát huy tài năng con người một cách hiệu quả vào những mục tiêu tốt đẹp cho con người, đất 
nước và xã hội loài người. Từ xưa, ông cha ta đã tổng kết việc khéo léo sử dụng con người 
bằng một câu rất ngắn gọn: Dụng nhân như dụng mộc – nguyên tắc sử dụng người cũng như 
người thợ mộc chọn gỗ làm đồ. Mỗi loại gỗ, mỗi loại cây đều có những tố chất khác nhau, cho 
nên phải tùy theo công năng, hình thức của món đồ gỗ đó mà chọn gỗ cho phù hợp. Biết lựa 
gỗ để đóng đồ, hay làm nhà cho thật hợp lý. Dụng nhân như dụng mộc có hàm ý: không có 
người nào là vô dụng, chỉ cần xử dụng đúng người đúng việc thì sẽ phát huy hiệu quả con 
người đó. Bởi vậy khi sử dụng người, đừng vội chê người này người nọ vô dụng mà hãy trách 
mình không biết sử dụng người. 
Từ trong lịch sử dân tộc, khéo léo sử dụng con người, thời nào cũng có. Tấm gương sử dụng 
con người của một nữ chính trị gia tài ba thời phong kiến Việt Nam, Dương Văn Nga là một bài 
học muôn đời cho hậu thế. Cuối năm 979, do mâu thuẫn nội bộ, triều Đinh rối loạn, Đinh Tiên 
Hoàng và con trai Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại; Vệ vương Đinh Toàn, 6 tuổi lên ngôi. Dương 
Văn Nga làm Hoàng thái hậu. Nhân cơ hội này, vua Tống lập tức cử Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn 
Hưng, Hác Thủ Tuấn, Trần Khâm Lộ, Thôi Lương, Lưu Trừng, Giả Thực “họp quân cả bốn 
hướng, hẹn ngày cùng sang xâm lược”(2). Phương Nam thì phò mã Ngô Nhật Khánh, vì hận Đinh 
Tiên Hoàng, dẫn cả ngàn chiến thuyền của Chiêm Thành vào cướp, muốn tiến đánh Hoa Lư. Như 
vậy, sự nghiệp thống nhất đất nước vừa được Đinh Tiên Hoàng vừa được hoàn thành thì bị đe dọa 
từ nhiều phía, bên ngoài phong kiến phương Bắc, phương Nam sửa soạn đại binh để xâm lược. 
Bên trong các triều thần tranh chấp gay gắt có nguy cơ xảy ra nội chiến. Trước tình thế đó, Dương 
Văn Nga đã sử dụng một phương cách rất hay, đó là khéo léo sử dụng con người Lê Hoàn. Đây là 
một nước cờ rất cao tay, cùng lúc hóa giải tất cả. Bà phong Lê Hoàn làm Phó vương nắm quyền 
nhiếp chính. Sau đó, đưa Lê Hoàn lên làm vua, mở đầu một triều đại mới - Triều Lê (còn gọi là 
nhà Tiền Lê). Dương Văn Nga một người phụ nữ chỉ 28 tuổi, đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng 
trong việc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê và cuộc kháng chiến chống quân 
xâm lược nhà Tống. Nghệ thuật sử dụng con người của Bà đã góp phần giữ cho giang sơn yên ổn 
thanh bình, chuyển giao quyền lực đúng thời điểm lịch sử, chọn đúng người tài đứng ra giúp nước. 
Nhờ vậy, bà đã bảo toàn được mạng sống, danh vọng, địa vị cho mình và con trai - thông qua việc 
nhường ngôi cho Lê Hoàn. Bởi vì, nếu việc cướp ngôi xảy ra, mẹ con bà sẽ mất tất cả. Cuối cùng 
con trai của bà và Đinh Tiên Hoàng vẫn được làm Vệ Vương, riêng bà vẫn là bậc mẫu nghi thiên 
hạ. Nếu không có nghệ thuật sử dụng con người, nhường ngôi báu cho Lê Hoàn, liệu mẹ con bà và 
giang sơn Đại Việt không biết sẽ về đâu? 
Nghệ thuật sử dụng con người của ông cha ta trong lịch sử đã được phát huy cao độ 
trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. Nhờ vậy, trong cuộc kháng chiến “dù trăm 
thân phơi ngoài cỏ nội, nghìn thây bọc trong da ngựa”, các tướng sĩ cũng xả thân vì đại nghĩa 
của dân tộc. Trần Bình Trọng bị giặt bắt vẫn ngoan cường: “Ta thà làm ma nước Nam, chứ 
không thèm làm vương đất Bắc”. Trần Quốc Toản với lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân” 
anh dũng chặn quân Nguyên, không cho chúng vượt sông Cầu về nước trong cuộc kháng 
chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai. 
Năm 1300, khi được vua Trần Anh Tông hỏi về kế sách đánh giặc, Hưng Đạo Vương – 
Trần Quốc Tuấn trả lời: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(37)-2018 
131 
bắt. Đó là trời xui vậy”(3). Để phát huy sự đồng lòng, chung sức ấy, nhà Trần sử dụng người 
tài, “Bạt dụng lương tướng” (chọn dùng tướng giỏi), “Phụ tử chi binh”(4) (Quân đội đồng lòng 
như cha con một nhà). Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn cho rằng: “Đời Đinh, Lê dùng 
được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên 
dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống”(5). Ông khẳng 
định: “Phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có 
được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được”(6). Trong Binh thư yếu lược, Hưng 
Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn cũng nhiều lần nhấn mạnh nghệ thuật sử dụng con người: 
“Muốn binh mạnh để chiến thắng thì cần ở sự dụng tướng được người, rồi sau mới có thể quy 
phục được thiên hạ và các rợ xung quanh. Đó là gốc lớn để trị nước”(7). “Người dùng tướng thì 
trước hết phải giỏi chọn tướng. Người giỏi chọn tướng thì trước hết phải giỏi biết tướng cái 
tinh vi của người dùng tướng dùng quân đều ở cả đó”(8). Như vậy, Hưng Đạo Vương – Trần 
Quốc quan niệm nghệ thuật sử dụng con người là vấn đề căn bản trong quan điểm chính trị, 
lãnh đạo đất nước – gốc lớn để trị nước. 
Tiêu chí để chọn người, khéo léo sử dụng con người trong quan điểm chính trị truyền 
thống Việt Nam phải đảm bảo hai mặt đức và tài. Hưng Đạo Vương – Trần Quốc cho rằng 
tướng, người lãnh đạo đất nước phải xứng đáng “trung thần nghĩa sĩ”, “dĩ thân tuẫn quốc”, 
phải có lòng trung, công minh, chính trực, phải có lòng “phụ tử” với binh sĩ. 
Trong Binh thư yếu lược Hưng Đạo Vương – Trần Quốc phản ánh phẩm chất tài, phải 
đủ năm phẩm chất, ngũ tài: dũng, trí, nhân, tín và trung; dũng thì không ai phạm được; trí thì 
không cái gì làm rối; nhân thì yêu dân; tín thì không lừa dối; trung thì không hai lòng(9). Tiêu 
chuẩn chọn người làm tướng, làm lãnh đạo theo Hưng Đạo Vương – Trần Quốc ngoài đức độ 
và dũng, trí, nhân, tín, trung thì người lãnh đạo cần phải biết chỉ huy, có kiến thức rộng, toàn 
diện. Ngoài những kiến thức nghiệp vụ của mình, phải hiểu biết về chính trị, pháp luật (hình 
gia), về tư duy triết học (danh gia) và những mối quan hệ trong xã hội (âm dương gia). “Hình 
gia và danh gia không cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm hình gia và danh gia; 
âm dương gia thì không cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm âm dương gia”(10). 
Việc chọn người, sử dụng con người, nhất là chọn, xây dựng đội ngũ những người lãnh đạo, 
những người tướng cầm quân đương đầu trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược chính là 
phải biết “dùng người hiền lương”, “bạt dụng lương tướng”. Phải chọn dùng, cất nhắc tướng giỏi. 
Tướng giỏi – người lãnh đạo giỏi – phải vừa có tinh thần dám đánh, vừa có kiến thức, mưu trí, linh 
hoạt, nhạy bén nắm bắt cái mới nảy sinh, sớm tìm ra đối sách để phá giặc, thắng giặc; phải đủ sức 
đương đầu đối phó với các âm mưu tàn bạo và xảo quyệt của kẻ xâm lược. Vua Trần ra lệnh chọn 
người tài: “Chọn trong các quan viên, người nào có tài năng luyện tập nghề võ, tinh thông thao 
lược thì không kể tông thất đều cho làm tướng coi quân”. Đánh giá phương cách dùng người tiến 
bộ của nhà Trần, sử gia Phan Huy Chú viết: “Thời Trần dùng người thật công bằng việc kén 
dùng chỉ cần tài là được chỉ cần người dùng được, chứ không câu nệ đường xuất thân”(11). Nhờ 
vậy, bên cạnh những tướng tài trong giới quý tộc nhà Trần như: Trần Quang Khải, Trần Khánh 
Dư, Trần Nhật Duật, Trần Khát Chân trong thời kỳ này, nhiều người không thuộc dòng dõi quý 
tộc, nhưng có tài năng cũng được triều đình phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, cân nhắc trở thành 
những tướng giỏi như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, Lê Tần Kể cả những người có thân phận 
thấp kém là gia nô cũng được cân nhắc, đề bạt sử dụng hiệu quả, trở thành những vị tướng tài thời 
Trần như Yết Kiêu, Dã Tượng 
Phạm Ngọc Trâm Khéo léo sử dụng con người - nét độc đáo trong quan điểm chính trị... 
 132 
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên (thời Lê) đánh giá cao phương cách sử dụng con người và 
phẩm chất, tài năng các tướng lĩnh thời Trần: “Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như 
Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy thì biểu hiện ở câu thơ, không 
chỉ có chuyện về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm 
được, người xưa cũng không ai vượt nổi các ông. Lê Phụ Trần thì dũng lược đứng đầu ba 
quân, một mình một ngựa xông pha trong trận giặc, tùy cơ ứng biến, chống đỡ cho chúa trong 
lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử. Đủ biết, nhà Trần dùng người, 
vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm”(12). 
Lê Quý Đôn cũng hết lời ca ngợi phương cách phát hiện, chọn lựa, bồi dưỡng, trọng 
dụng nhân tài của vương triều Trần: “Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa 
nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng 
vượt qua thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không hổ với trời, dưới không thẹn với 
đất. Ôi như thế, người đời sau còn có thể theo kịp thế nào được”(13). 
Trong cuộc kháng chiến lâu dài, “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, nghệ thuật 
phát hiện, bồi dưỡng sử dụng nhân tài của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã có những phương cách 
rất độc đáo: “hậu đãi tân khách, với người trốn tránh, dùng người làm phản (quân Minh); 
ngầm nuôi kẻ sĩ mưu trí, bỏ của phát thóc giúp người cơ bần; nhún nhường hậu lễ để thu hào 
kiệt”(14). Nhờ vậy, buổi đầu lực lượng khởi nghĩa chỉ độ vài ngàn người về sau tăng lên hàng 
vạn, hào kiệt khắp nơi đều tìm về Lam Sơn tụ nghĩa, giành thắng lợi trong cuộc chiến trang 
giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. 
Coi trọng người hiền tài vốn là một cách xử thế sáng suốt, là nghệ thuật chính trị của 
Vua Quang Trung. “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”(15), nhà vua đã ý thức sâu sắc về điều 
đó và chủ trương kêu gọi người hiền tài ra giúp nước: “Chiếu cầu hiền”(16). Mặc dù, vương 
triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ có thời gian tồn tại ngắn, nhưng nghệ thuật thu nạp và trọng 
dụng nhân tài của Nguyễn Huệ thể hiện tầm vọng một nhà lãnh đạo lớn, mang cái tâm nhân 
nghĩa bao trùm cả thời đại ông. 
Vua Quang Trung bộc bạch: “Trẫm đương để ý lắng nghe, sớm hôm mong mỏi. Thế mà 
những người tài cao học rộng, chưa có ai đến. Hay Trẫm là người ít đức, không xứng đáng để 
những người đó phò tá chăng? Hay là đương thời loạn lạc”(17). 
Thái độ chiêu hiền đãi sĩ của vua Quang Trung là rất chân thành. Nhà vua tỏ rõ sự 
khiêm tốn, thực lòng mong muốn có sự cộng tác của các bậc hiền tài để xây dựng một triều 
đại mới vững mạnh: “Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở 
buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỷ cương nơi triều chính còn nhiều 
khiếm khuyết, công việc ngoài biên cương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà 
đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai 
vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kỹ thì thấy rằng: Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, 
mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này, cứ cái 
ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn 
như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền 
buổi ban đầu của trẫm hay sao ?”(18). 
Vua Quang Trung đã chỉ rõ tính chất của thời đại và nhu cầu trước mắt của đất nước, 
đồng thời cũng thẳng thắn tự nhận những điều bất cập của triều đại mới do mình đứng đầu 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(37)-2018 
133 
như chính sách cai trị còn nhiều thiếu sót, việc biên ải chưa yên, dân chưa hồi sức sau chiến 
tranh, đức hoá của vua chứa thấm nhuần, Trong khi đó, công việc ngày càng nhiều và trách 
nhiệm của triều đình ngày càng nặng nề, đòi hỏi phải có sự trợ giúp của các bậc hiền tài. Hình 
ảnh “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn và mưu lược của một người không thể 
dựng nghiệp trị bình” (19)là nhận xét khách quan, đúng đắn, thể hiện quan điểm chính trị lấy 
dân làm gốc và tầm nhìn chiến lược sáng suốt của Vua Quang Trung ở thời điểm ấy. 
Thái độ khiêm nhường, chân thành và chính sách chiêu hiền của nhà vua khiến các bậc 
hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới: “Chiếu này ban xuống, các bậc 
quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn 
đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được, thì cất nhắc 
không kể thứ bậc; chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà 
bắt tội. Còn người có ng ... h tâm của một bậc minh 
quân như Quang Trung – Nguyễn Huệ. Tấm lòng của nhà vua đã lay động, chuyển hóa hàng 
ngàn trái tim đất Bắc. Họ “hiểu rất rõ Quang Trung là một ông vua thật lòng muốn đất nước 
đổi thay, thực sự trăn trở trước số phận dân tộc, chứ không phải tùy tiện nhân danh đất nước, 
nhân danh dân tộc để thu vén ngai vàng cho mình” (24). Quá trình xác định đối tượng và sự 
khéo léo, kiên trì cầu hiền của Quang Trung – Nguyễn Huệ đã làm phong phú thêm cho tri 
thức chính trị truyền thống Việt Nam. 
3. “Khéo léo sử dụng con người” của Hồ Chí Minh 
Sinh ra và lớn lên ở xứ Nghệ, vùng đất được mênh danh là địa linh nhân kiệt, nơi sản 
sinh nhiều danh nhân, anh hùng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học hỏi, kế thừa, phát huy 
nhiều giá trị trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam như khéo léo sử dụng con 
người, bồi dưỡng trọng dụng nhân tài. Người coi đây là một nguyên tắc, phương pháp luận 
Phạm Ngọc Trâm Khéo léo sử dụng con người - nét độc đáo trong quan điểm chính trị... 
 136 
trong công tác cán bộ. Người nói: “Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng 
ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. 
Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ 
mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người, 
thì hai người đều thành công” (25). Muốn sử dụng, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài theo Hồ Chí 
Minh cần hiểu rõ và đánh giá đúng con người. Việc đánh giá ấy cần xem xét rõ ràng trong 
thực tiễn, từ công tác và cách sinh hoạt; cách nói, cách viết và việc làm; cách đối xử với mọi 
người, biết cả ưu điểm và khuyết điểm của con người; tránh rụt rè hoặc quá khắt khe, cũng 
như tránh vội vàng, thiếu nghiên cứu, cân nhắc khi bố trí, sắp xếp, đề bạt. Sử dụng con người 
phải đúng việc, vì việc mà đặt người chứ không vì người mà định việc. Phải công tâm, có lòng 
yêu thương cán bộ và nắm vững yêu cầu của tổ chức, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người 
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một 
người có ích cho công việc chung của chúng ta” (26). 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm 
thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà” 
(27). Đối với Người, việc bồi dưỡng, cất nhắc, đề bạt cán bộ trước hết là “vì công tác, vì tài 
năng”. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang thì nhất định không ai phục, mà lại gây 
nên mối lôi thôi trong Đảng, là có tội với Đảng, có tội với đồng bào. Trong quá trình đào tạo, 
sử dụng cán bộ, cần mạnh dạn giao việc cho cán bộ thực hiện. Giao việc theo tư tưởng của Hồ 
Chí Minh là dân chủ, là phân nhiệm rõ ràng, là đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, là 
phát huy sáng tạo của cán bộ. Trước khi từ biệt thế giới này, Người còn căn dặn: Bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Với thanh niên, Đảng 
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây 
dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. 
Hồ Chí Minh đã khéo léo trong công tác tổ chức, cán bộ. Trong những năm cuối thế kỷ 
XIX, đầu thế kỷ XX, trước yêu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận 
thức rõ được hạn chế của lực lượng cách mạng, những người Việt Nam yêu nước, ngay từ 
năm 1923, trước khi rời nước Pháp bí mật sang Liên Xô, Người đã để lại bức thư cho bạn bè, 
đồng chí mình tỏ rõ: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức 
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” (28). 
Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của 
Hồ Chí Minh, nhằm sử dụng, phát huy các nhân tố cách mạng non trẻ. Sự khéo léo ở đây 
chính là “thức tỉnh” thanh niên và đào tạo nên những nhà cách mạng chuyên nghiệp trở về 
nước “thức tỉnh” quần chúng. Trên cơ sở đó, lựa chọn những thanh niên Việt Nam có khả 
năng gửi đi học ở Trường đại học Cộng sản của những người lao động Phương Đông ở 
Mátxcơva (Trường đại học Phương Đông) và Trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu. Sự 
khéo léo của Hồ Chí Minh đã dẫn dắt đi từ tổ chức ban đầu là Hội Việt Nam Cách mạng 
Thanh niên để giác ngộ cách mạng đối với những thanh niên yêu nước qua đó mà nâng dần sự 
giác ngộ, đưa về nước để thúc đẩy phong trào công nhân trong nước phát triển, tạo nguồn lực 
để dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự khéo léo ấy là một trong những thực 
tiễn cách mạng thể hiện đậm nét nghệ thuật dẫn dắt, xây dựng tổ chức cách mạng của Hồ Chí 
Minh. Trong sự nghiệp chính trị, thực tiễn trong nước và quốc tế luôn không ngừng biến động 
đòi hỏi bất kỳ một tổ chức, cá nhân hoạt động chính trị nào cũng phải thay đổi không ngừng 
cho phù hợp. “Khéo léo sử dụng con người” của Hồ Chí Minh thể hiện ở nghệ thuật tổ chức 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(37)-2018 
137 
và định hướng xây dựng tổ chức, kiên định bảo vệ, dẫn dắt tổ chức biến đổi theo sự thay đổi 
của tình hình thực tiễn. Mục đích của Người khi tiến hành công việc trên thể hiện ở phương 
châm tất cả vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. 
 Trong sự “Khéo léo sử dụng con người” Hồ Chí Minh luôn chú ý đến vấn đề duy trì 
cân bằng quyền lực, tránh xu hướng lạm dụng và biểu hiện tha hóa quyền lực trong xây dựng 
và hoạt động của tổ chức. Khi xây dựng tổ chức, Hồ Chí Minh duy trì những nguyên tắc tổ 
chức và hoạt động để đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy tổ chức. Trong đó Người 
đặc biệt chú ý kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản, nền tảng đảm 
bảo sự cân bằng giữa việc “tập trung quyền lực” và “phân tán quyền lực”. Người thấy rõ việc 
tập trung quá nhiều quyền lực vào trong tay một tổ chức, một cá nhân nhất định sẽ dễ dẫn đến 
vấn đề lạm dụng quyền lực phục vụ cho lợi ích cá nhân dẫn đến sự tha hóa quyền lực, tệ độc 
đoán, chuyên quyền, không phát huy khả năng mọi thành viên trong tổ chức. Do đó, Người 
yêu cầu phải làm cho cán bộ, đảng viên ai ai cũng được nói lên ý kiến của mình, được bộc 
bạch tư tưởng sau đó đi đến thảo luận, tập trung ý kiến; quyền tự do tư tưởng hóa thành quyền 
tự do phục tùng chân lý. Điều này sẽ đảm bảo tránh được tệ chuyên quyền, độc đoán cũng như 
biểu hiện dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Hơn nữa Hồ Chí Minh cũng nhận định: “Vì một 
người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ 
xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi 
mặt của một vấn đề” (29), “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ 
ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó 
mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy” (30). Việc thực hiện tập trung 
dân chủ hay dân chủ tập trung do đó sẽ giúp cân bằng quyền lực, đảm bảo quyền lực không bị 
lạm dụng và còn thực thi có hiệu quả quyền lực. 
Cách lãnh đạo tốt nhất theo Hồ Chí Minh là cách lãnh đạo dân chủ. Có dân chủ mới làm 
cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Khéo dùng quyền dân chủ là một nghệ thuật quan 
trọng mà người hoạt động chính trị cần phải đạt được để cởi trói cho sức mạnh sáng tạo, khả 
năng tiềm tàng trong nhân dân, trong cán bộ. Khéo dùng quyền dân chủ để đảm bảo nhân dân 
ở vị thế là chủ và được làm chủ. 
Khéo léo sử dụng con người hay nghệ thuật dùng người của Hồ Chí Minh là tùy tài mà 
dùng và phải nâng dần khả năng của cán bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phong trào 
cách mạng. Hồ Chí Minh đã nhận định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ 
tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” (31). Người cũng hình dung “Cán bộ là cái dây 
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn 
bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi 
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” (32). Do 
vậy mà Hồ Chủ tịch luôn xem đây là vấn đề trọng tâm. Người nhận định ““cán bộ là tiền vốn 
của Đoàn thể”. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì 
thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” (33), “Lãnh đạo 
khéo, tài nhỏ có thể hoá ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hoá ra tài nhỏ” (34). Một 
người lãnh đạo giỏi thì phải biết “khéo dùng cán bộ”, theo Hồ Chí Minh tức là: phải biết tùy 
tài mà dùng, biết phát huy ưu điểm của cán bộ, khắc phục dần những khuyết điểm của họ 
nhằm mục đích hoàn thiện người cán bộ và đáp ứng yêu cầu thực hiện chủ trương, chính sách 
của Đảng và Nhà nước. 
Phạm Ngọc Trâm Khéo léo sử dụng con người - nét độc đáo trong quan điểm chính trị... 
 138 
Ngay cả khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền thiết lập nên Nhà nước 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng chính sách trọng dụng nhân 
tài, bất phân giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo...chỉ cần có lòng yêu nước, phục 
vụ nhân dân thì mời vào Chính phủ Hồ Chí Minh. Người đã mời Bảo Đại ra làm cố vấn, mời 
cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Phó Chủ tịch nước, mời Vi Văn Định lên chiến khu tham gia 
kháng chiến, mời nhà tư sản Nguyễn Mạnh Hà làm Bộ trưởng Kinh tế Hồ Chí Minh nói: 
“Trong thế giới, cái gì cũng biến hoá. Tư tưởng của người cũng biến hoá. Vì vậy cách xem xét 
cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hoá... Quá khứ, hiện tại và tương lai 
của mọi người không phải luôn giống nhau” (35). Tùy vào vị trí công việc mà lựa chọn và bố trí 
người cho hợp lý, đồng thời phải có cái nhìn biện chứng trong đánh giá cán bộ để có biện 
pháp đào tạo, cảm hóa cán bộ ngày càng tiến lên nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu 
quả công việc, đảm bảo phục vụ nhân dân được tốt hơn. 
Hồ Chí Minh cũng luôn luôn chú ý đến việc rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, thực hiện 
nghiêm nguyên tắc phê bình và tự phê bình để giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng, rèn 
luyện ý chí, bản lĩnh cách mạng, nâng cao tài năng đáp ứng yêu cầu thời đại. Trong vấn đề rèn 
luyện cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê 
bình” (36), Bác xem đây là vũ khí sắc bén trong công tác cán bộ. Nhiều người lại cho rằng phê 
bình và tự phê bình khó có kết quả bởi lẽ không ai tự vạch ra lỗi lầm của mình. Cách làm của 
Bác là phải giải thích, thuyết phục cảm hóa để họ tự thấy mà sửa chữa sai lầm của mình: 
“Muốn họ thành tâm sửa chữa, phải giải thích rõ ràng, làm cho họ tự trông thấy, tự nhận rõ sự 
sai lầm đó, làm cho họ vui lòng sửa đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi” (37). Tuy 
nhiên cũng phải căn cứ vào lỗi lầm mà có tiến hành xử phạt hay không bởi nếu không xử lý 
những hành vi sai phạm nghiêm trọng thì sẽ đe dọa “mất kỷ luật” và còn “mở đường cho bọn 
cố ý phá hoại”. Phải khéo ở đây hoàn toàn không phải không dùng xử phạt mà cái gì cũng 
dùng xử phạt cũng không nên. 
Như vậy, trong sự khéo léo sử dụng con người của Hồ Chí Minh về công tác tổ chức, 
cán bộ nổi bật lên ở nghệ thuật định hướng và dẫn dắt tổ chức, cán bộ đi từ trình độ thấp đến 
trình độ cao, tùy thuộc và tình hình thực tiễn mà có sự biến hóa, linh hoạt cho phù hợp với yêu 
cầu cách mạng; hướng tới đích cuối cùng là phục vụ cho sự nghiệp độc lập cho dân tộc, tự do, 
hạnh phúc cho nhân dân. Những chủ trương, biện pháp dùng quyền dân chủ của Hồ Chí Minh 
được thực hiện trên cơ sở nhìn nhận được sức mạnh của dân chủ, dân chủ chính là“cái chìa 
khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” (38). Do đó, trong khéo léo sử dụng con người 
theo Hồ Chí Minh là phải biết cách khơi dậy sức mạnh từ dân chủ, đặc biệt đối với lực lượng 
quần chúng nhân dân. Người nói: “Sáng kiến và năng lực của quần chúng là vô cùng tận. Nếu 
khéo lãnh đạo, khéo tổ chức thì nó phát triển mãi” (39); “Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực 
lượng ấy sẽ làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng 
to lớn ấy đánh tan” (40). 
4. Kết luận 
Xuất thân từ một gia đình nhà Nho yêu nước, từ quê hương xứ Nghệ giàu truyền thống 
cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa nhiều truyền thống quá báu của ông cha, trong 
đó có kế thừa sự khéo léo sử dụng con người, bồi dưỡng trọng dụng nhân tài trong quan điểm 
chính trị truyền thống Việt Nam. Nhờ vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Người đào tạo, 
dẫn dắt một thế hệ cách mạng đủ sức đảm đương sứ mệnh trọng đại của dân tộc, giải phóng 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(37)-2018 
139 
dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, đưa đất nước phát triển theo 
con đườn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đối với Người, khéo léo 
sử dụng con người phải có phương pháp bồi dưỡng, cất nhắc, đề bạt nhân sự theo những 
nguyên tắc nhất định. Trong đó phải vì mục tiêu chung “vì công tác, vì tài năng” chứ không vì 
lòng yêu ghét, vì thân thích, nể nang. Sự khéo léo sử dụng con người của Hồ Chí Minh vừa là 
khoa học vừa là nghệ thuật dẫn dắt tổ chức lực lượng cách mạng đi từ thấp đến cao, đi từ đơn 
giản đến phức tạp kiên định bảo vệ, dẫn dắt tổ chức biến đổi theo sự thay đổi của tình hình 
thực tiễn. Và suy cho cùng sự khéo léo sử dụng con người của Người đều vì độc lập cho dân 
tộc, tự do cho nhân dân. 
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO 
(1), (25), (26), (29), (30), (31), (32), (33), (34), (35), (36), (37) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, 
NXB Chính trị quốc gia (2011), trang 280, 314, 313, 619, 619, 280, 68, 356, 320, 317 – 318, 
305, 323. 
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, NXB Khoa học xã hội (1983), trang 217. 
(3), (5), (6), (12) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Khoa học xã hội (1983), trang 79, 79, 79, 
105 – 106. 
(4) Trong Di chúc, Trần Quốc Tuấn viết: “Phải đạt được quân đội đồng lòng như cha con một nhà 
mới có thể dùng được (Thủ đắc phụ tử chi binh, thuỷ khả dụng dã). 
(7), (8), (9), (10) Viện sử học, Binh thư yếu Lược, NXB Khoa học xã hội (1970), trang 59, 34, 55, 
60. 
(11) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập III, NXB Khoa học xã hội (1992), trang 7. 
(13) Lê Quý Đôn, Toàn tập, T.II, NXB Khoa học xã hội (1977), trang 258-259. 
(14) Viện Sử học, Nguyễn Trãi Toàn tập, NXB Khoa học xã hội (1976), tr.47. 
(15), (23) Thân Nhân Trung. 
(16) (17) (18) (19) (20) (21) Tạp chí Xưa và nay, số 77B/7-2000; có đối chiếu với bản “Chiếu cầu 
hiền” in trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, tập 1, NXB Giáo dục (2016), tr. 68, 69, 70. 
(22) Thư trả lời của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp - Chiêu Thống năm đầu, tháng chín, ngày mồng 
5 (1787). Dẫn theo  
(24) Nguyễn Phan Quang, Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, NXB Tổng hợp 
TP.HCM (2005), trang 188. 
(27) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia (2011), trang 528. 
(28) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Văn học (2001), 
trang 55-56. 
(38) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia (2011), trang 325. 
(39), (40) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia (2011), trang 343, 358. 
“Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố 
Hồ Chí Minh trong khuôn khổ đề tài C2018-18b-08” 

File đính kèm:

  • pdfkheo_leo_su_dung_con_nguoi_net_doc_dao_trong_quan_diem_chinh.pdf