Khảo sát khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun trichocephalus suis của phương pháp ủ phân

Nghiên cứu về khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của phương pháp ủ phân nhằm

hạn chế sự phát tán trứng giun T. suis ở ngoại cảnh và khả năng gây bệnh của chúng, giảm thiểu ô

nhiễm môi trường. Kết quả cho thấy:

Các công thức ủ phân (khác nhau về nguyên liệu và tỷ lệ các nguyên liệu) đều có khả năng sinh nhiệt

và diệt được trứng giun T. suis. Tuy nhiên, công thức ủ IV (phương pháp ủ phân compost) có khả

năng sinh nhiệt tốt nhất và thời gian diệt trứng giun T. suis ngắn nhất so với các công thức I, II và III

(phương pháp ủ nhiệt sinh học).

pdf 6 trang kimcuc 5260
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun trichocephalus suis của phương pháp ủ phân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun trichocephalus suis của phương pháp ủ phân

Khảo sát khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun trichocephalus suis của phương pháp ủ phân
Nguyễn Thị Kim Lan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 134(04): 193 - 198 
193 
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG SINH NHIỆT VÀ TÁC DỤNG DIỆT TRỨNG GIUN 
TRICHOCEPHALUS SUIS CỦA PHƯƠNG PHÁP Ủ PHÂN 
Nguyễn Thị Kim Lan2, Nguyễn Thị Bích Ngà1*, Hạ Thúy Hạnh3 
 Trương Thị Tính1, Vũ Minh Đức1, Nguyễn Đình Hải2 
1Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên 
2Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên 
3Trung tâm Khuyến nông quốc gia 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu về khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của phương pháp ủ phân nhằm 
hạn chế sự phát tán trứng giun T. suis ở ngoại cảnh và khả năng gây bệnh của chúng, giảm thiểu ô 
nhiễm môi trường. Kết quả cho thấy: 
Các công thức ủ phân (khác nhau về nguyên liệu và tỷ lệ các nguyên liệu) đều có khả năng sinh nhiệt 
và diệt được trứng giun T. suis. Tuy nhiên, công thức ủ IV (phương pháp ủ phân compost) có khả 
năng sinh nhiệt tốt nhất và thời gian diệt trứng giun T. suis ngắn nhất so với các công thức I, II và III 
(phương pháp ủ nhiệt sinh học). 
Từ khóa: Phân lợn, ủ phân, Trichocephalus suis, nhiệt độ, trứng 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977) [5], 
Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [4], Nguyễn Thị 
Kim Lan (2008, 2012) [2, 3], Roepstorff A. 
và cs (2011) [7], Nejsum P. và cs. (2012) [6], 
bệnh do giun tròn Trichocephalus suis (T. 
suis) gây ra ở lợn là bệnh phổ biến và gây tác 
hại lớn cho chăn nuôi lợn của nhiều nước trên 
thế giới, trong đó có Việt Nam. 
Khi lợn mắc bệnh, trứng giun T. suis theo 
phân lợn bài xuất ra ngoại cảnh, làm lây lan 
dịch bệnh sang lợn khỏe. Điều tra thực tế cho 
thấy, tại tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn, công 
tác phòng chống bệnh ký sinh trùng nói chung 
và bệnh do giun T. suis gây ra ở lợn nói riêng 
còn chưa tốt. Nhiều hộ chăn nuôi chưa chú ý 
đến vấn đề xử lý phân diệt trứng giun, sán. 
Đây cũng là một trong những nguyên nhân 
dẫn đến tỷ lệ lợn nhiễm giun T. suis ở tỉnh 
Thái Nguyên và Bắc Kạn còn khá cao. Vì 
vậy, cần có cơ sở khoa học để khuyến cáo 
người chăn nuôi lợn thực hiện các phương 
pháp ủ phân, nhằm diệt trứng giun, sán nói 
chung, diệt trứng giun T. suis nói riêng trong 
phân lợn. 
Xuất phát từ mục tiêu trên, trong tháng 8 - 9 
của năm 2013 chúng tôi đã nghiên cứu để xác 
*
 Tel: 0976 238295;Email:nguyennga160182@gmail.com 
định công thức ủ phân cho khả năng sinh 
nhiệt cao và có tác dụng diệt trứng giun T. 
suis tốt. 
Kết quả của nghiên cứu này có ý nghĩa trong 
việc xây dựng quy trình phòng trị bệnh giun 
T. suis ở lợn có hiệu quả cao và góp phần làm 
giảm sự ô nhiễm môi trường do các chất thải 
trong chăn nuôi gây ra. 
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
Vật liệu nghiên cứu 
- Phân lợn, chất độn chuồng, tro bếp, vôi bột, 
cây phân xanh và các loại cỏ. 
- Mẫu phân của lợn nhiễm giun T. suis nặng. 
- Kính hiển vi quang học, các hóa chất và 
dụng cụ thí nghiệm khác. 
Nội dung nghiên cứu 
 - Khảo sát khả năng sinh nhiệt và tác dụng 
diệt trứng giun T. suis của phương pháp ủ 
nhiệt sinh học (công thức ủ I, II, III ) và 
phương pháp ủ phân compost (công thức IV). 
- So sánh khả năng sinh nhiệt và diệt trứng 
giun T. suis của 4 công thức ủ. 
Phương pháp nghiên cứu 
- Bố trí các công thức ủ theo phương pháp ủ 
nhiệt sinh học (Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [3]). 
Nguyễn Thị Kim Lan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 134(04): 193 - 198 
194 
+ Bố trí 3 công thức ủ I, II, III. Mỗi công thức 
ủ có tỷ lệ các nguyên liệu khác nhau: Công 
thức I (500 kg phân chuồng, 100 kg cây phân 
xanh và 30 kg tro bếp), công thức II (500 kg 
phân chuồng, 100 kg cây phân xanh và 25 kg 
vôi bột), công thức III (500 kg phân chuồng, 
100 kg cây phân xanh, 30 kg tro bếp và 25 kg 
vôi bột). 
Trong mỗi công thức ủ, các nguyên liệu được 
trộn đều theo tỷ lệ tương ứng ở trên, sau đó vun 
thành đống, bên ngoài trát bùn dày 10 cm. 
+ Bố trí công thức ủ IV (phương pháp ủ phân 
compost), nguyên liệu gồm: 500 kg phân 
chuồng, 500 kg nguyên liệu gồm cây phân 
xanh và các cây cỏ khác. Chia phân chuồng 
thành 6 phần bằng nhau, chia nguyên liệu từ 
cây xanh thành 6 phần bằng nhau. Rải một 
phần cây xanh lên mặt nền xi măng, đường 
kính 1,5 m, độ dày 25 - 30 cm. Rải lên lớp 
cây xanh một phần phân, độ dầy 10 cm. Làm 
các lớp tiếp theo cho đến khi hoàn thành. Sau 
khi hoàn thành đống ủ, dùng bạt quấn kín 
xung quanh. 
- Phương pháp xác định khả năng sinh nhiệt 
của các công thức ủ: Hàng ngày đo nhiệt độ 
của các công thức ủ I, II, III và IV bằng nhiệt 
kế 100 0C. Ở mỗi công thức ủ, tiến hành đo 
nhiệt độ tại 9 vị trí khác nhau. Nhiệt độ của 
phân ủ là nhiệt độ trung bình của 9 vị trí trên. 
Nhiệt độ của môi trường được xác định bằng 
nhiệt kế đặt cách các hố ủ 3 m. 
 - Phương pháp xác định tác dụng diệt trứng 
giun T. suis của các công thức ủ: Mẫu phân 
của lợn nhiễm giun T. suis nặng được trộn với 
các nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng cho mỗi 
công thức ủ. Sau đó, hỗn hợp nguyên liệu này 
được cho vào các túi vải (khoảng 15 gam 
/một túi vải), các túi vải được đặt vào sâu bên 
trong hố ủ. Cứ 5 ngày, ở mỗi công thức ủ lấy 
3 túi ở các vị trí khác nhau, xét nghiệm chất 
chứa trong túi vải bằng phương pháp 
Fulleborn để kiểm tra tác dụng diệt trứng giun 
T. suis của các công thức ủ. Khi kiểm tra thấy 
trứng giun T. suis chết với tỷ lệ cao thì xét 
nghiệm chất chứa trong 2 - 3 ngày liên tục để 
xác định đúng thời gian toàn bộ trứng T. suis 
bị phá hủy. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Kết quả về khả năng sinh nhiệt và tác dụng 
diệt trứng giun T. suis của các công thức ủ 
phân được trình bày ở bảng 1, 2, 3 và 4.
Bảng 1: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công thức ủ I 
Thời gian 
sau ủ 
(ngày) 
Nhiệt độ 
trung bình
 của 
không khí 
(
0
C) 
Nhiệt độ của 
phân ủ 
( X ± m x ) (
0
C) 
Số trứng giun T. 
suis /VT /mẫu 
( X ± m x ) 
Số trứng giun T. 
suis chết /VT 
/mẫu 
( X ± m x ) 
Tỷ lệ 
chết 
 (%) 
0 28,0 28,87 ± 0,41 28,33 ± 0,41 0 0,00 
5 27,0 32,19 ± 0,67 29,67 ± 0,59 0 0,00 
10 28,0 38,07 ± 0,66 25,80 ± 0,58 0 0,00 
15 27,5 42,02 ± 0,31 27,47 ± 1,41 0 0,00 
20 28,2 45,03 ± 0,31 27,07 ± 1,27 0 0,00 
25 26,8 48,16 ± 0,42 22,80 ± 0,93 4,33 ± 0,45 18,99 
30 28,0 53,02 ± 0,35 20,80 ± 0,99 11,00 ± 0,71 52,88 
35 27,2 51,32 ± 0,28 16,47 ± 0,81 13,80 ± 0,59 83,79 
36 28,0 50,56 ± 0,28 9,67 ± 1,78 8,67 ± 1,08 89,66 
37 29,0 49,84 ± 0,31 6,33 ± 2,27 6,33 ± 2,27 100 
40 28,1 48,40 ± 0,19 6,00 ± 0,83 6,00 ± 0,83 100 
45 28,2 45,59 ± 0,45 1,47 ± 0,24 1,47 ± 0,24 100 
50 29,8 39,42 ± 0,46 0 0 100 
55 31,3 32,88 ± 056 0 0 100 
60 31,2 31,11 ± 0,10 0 0 100 
Nguyễn Thị Kim Lan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 134(04): 193 - 198 
195 
Bảng 1 cho thấy: Trong 20 ngày đầu, nhiệt độ trung bình của phân ủ tăng dần từ 28,870C - 45,03 
0C; tuy nhiên, trong thời gian này, trứng giun T. suis vẫn chưa bị phá hủy. Ngày thứ 25 - 36, nhiệt 
độ trung bình của phân ủ là 48,16 0C - 50,560C, lúc này trứng giun T. suis đã bắt đầu bị phá hủy 
và tỷ lệ chết tăng lên từ 18,99 % - 89,66 %. Kiểm tra ở ngày thứ 37, nhiệt độ trung bình của phân 
ủ là 49,84 0C và 100 % số trứng giun T. suis chết. Những ngày sau đó, nhiệt độ hố ủ giảm dần, 
đến ngày thứ 60, nhiệt độ trung bình của hố ủ là 31,11 0C, tương đương với nhiệt độ của môi 
trường. Nhiệt độ cao nhất của công thức I là 53,94 0C ở ngày thứ 29 sau ủ. 
Bảng 2: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công thức ủ II 
Thời gian 
sau ủ 
(ngày) 
Nhiệt độ 
trung bình
 của 
không khí 
(
0
C) 
Nhiệt độ của 
phân ủ 
( X ± m x ) (
0
C) 
Số trứng giun 
T. suis /VT 
/mẫu 
( X ± m
x
) 
Số trứng giun 
T. suis chết /VT 
/mẫu 
( X ± m
x
) 
Tỷ lệ 
chết 
(%) 
0 28,0 28,57 ± 0,30 25,67 ± 2,94 0 0,00 
5 27,0 34,27 ± 0,77 27,40 ± 0,74 0 0,00 
10 28,0 40,69 ± 0,38 28,07 ± 4,67 0 0,00 
15 27,5 43,13 ± 0,30 26,73 ± 2,81 0 0,00 
20 28,2 47,44 ± 0,45 26,07 ± 2,69 3,00 ± 0,65 11,51 
25 26,8 52,53 ± 0,43 20,07 ± 2,56 8,87 ± 0,48 44,20 
30 28,0 56,62 ± 0,38 15,67 ± 1,54 13,07 ± 0,28 83,41 
31 27,0 57,44 ± 0,21 13,67 ± 0,41 12,67 ± 0,41 92,68 
32 28,0 58,50 ± 0,04 11,33 ± 0,41 11,33 ± 0,41 100 
35 27,2 58,10 ± 0,20 9,73 ± 2,56 9,73 ± 2,56 100 
40 28,1 55,87 ± 0,52 5,73 ± 1,67 5,73 ± 1,67 100 
45 28,2 48,49 ± 0,59 1,13 ± 0,94 1,13 ± 0,94 100 
50 29,8 41,48 ± 0,79 0 0 100 
55 31,3 35,72 ± 0,50 0 0 100 
60 31,2 31,53 ± 0,18 0 0 100 
Bảng 2 cho thấy: Nhiệt độ của phân ủ ở công 
thức II tăng liên tục trong 32 ngày đầu, đạt 
bình quân 28,57 
0
C - 58,50 
0C. Trứng giun T. 
suis bắt đầu bị phá hủy từ ngày thứ 20 (47,53 
0C). Tuy nhiên, tỷ lệ trứng hỏng không đáng 
kể (11,51 %). Sau đó, nhiệt độ phân ủ tăng 
nhanh, đạt trung bình cao nhất sau 32 ngày ủ 
(58,50 
0C). Ở nhiệt độ như vậy, trứng giun T. 
suis bị chết hoàn toàn ở ngày thứ 32. Từ ngày 
thứ 40 trở đi, nhiệt độ phân ủ giảm dần đến 
31,53 
0C ở ngày thứ 60, tương đương với 
nhiệt độ của môi trường. Đỉnh nhiệt của phân 
ủ ở công thức II là 58,50 0C ở ngày thứ 32 sau 
ủ, cao hơn so với công thức I. 
Bảng 3 cho thấy: Sau 15 ngày, nhiệt độ của 
phân ủ ở công thức III đã tăng lên trung bình 
là 49,44 
0C, lúc này trứng giun T. suis đã bị 
hỏng với tỷ lệ 28,49 %. Trứng giun T. suis 
tiếp tục chết nhiều trong các ngày 20 - 25 
(47,63 % - 88,03 %). Ngày thứ 26, khi nhiệt 
độ trung bình của phân ủ đạt cao là 59,37 0C, 
trứng giun T. suis bị chết hoàn toàn. Những 
ngày sau đó, nhiệt độ phân ủ giảm dần và còn 
32,29 
0C sau 60 ngày ủ, gần tương đương với 
nhiệt độ của môi trường bên ngoài. Đỉnh nhiệt 
của phân ủ của công thức III là 60,44 0C ở ngày 
thứ 30, cao hơn so với công thức ủ I và II. 
Kết quả ở các bảng 1, 2, 3 cho thấy: công 
thức ủ III có khả năng sinh nhiệt cao hơn và 
nhanh hơn so với công thức ủ I, II. Do vậy, 
tác dụng diệt trứng giun T. suis của công thức 
ủ III tốt hơn so với công thức I và II. 
Đào Trọng Đạt và cs. (1986) [1], Nguyễn Thị 
Lê và cs. (1996) [4] cho biết: Sau 3 - 4 tuần, 
nhiệt độ của phân ủ tăng lên 45 0C. Trong thí 
nghiệm của chúng tôi, thời gian cần thiết để 
phân ủ ở các công thức I, II và III tăng lên 45 0C 
ngắn hơn so với nhận xét của các tác giả trên.
Nguyễn Thị Kim Lan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 134(04): 193 - 198 
196 
Bảng 3: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công thức ủ III 
Thời gian 
sau ủ 
(ngày) 
Nhiệt độ 
trung bình
của không khí 
(
0
C) 
Nhiệt độ của 
phân ủ 
 ( X ± m x ) (
0
C) 
Số trứng giun 
T. suis /VT 
/mẫu 
 ( X ± m x ) 
Số trứng giun T. 
suis chết 
/VT/mẫu 
 ( X ± m x ) 
Tỷ lệ 
chết 
(%) 
0 28,0 28,77 ± 0,40 23,00 ± 0,71 0 0,00 
5 27,0 38,04 ± 0,53 21,60 ± 0,85 0 0,00 
10 28,0 45,51 ± 0,58 24,47 ± 1,05 0 0,00 
15 27,5 49,44 ± 0,38 23,87 ± 0,93 6,80 ± 0,53 28,49 
20 28,2 52,40 ± 0,36 21,27 ± 0,89 10,13 ± 0,47 47,63 
25 26,8 57,67 ± 0,36 16,13 ± 0,47 14,20 ± 0,42 88,03 
26 27,0 59,37 ± 0,88 12,33 ± 1,08 12,33 ± 1,08 100 
30 28,0 59,70 ± 0,21 9,20 ± 0,85 9,20 ± 0,85 100 
35 27,2 56,13 ± 0,55 4,93 ± 0,40 4,93 ± 0,40 100 
40 28,1 51,64 ± 0,53 1,40 ± 0,33 1,40 ± 0,33 100 
45 28,2 46,98 ± 0,42 0 0 100 
50 29,8 42,87 ± 0,56 0 0 100 
55 31,3 36,58 ± 0,52 0 0 100 
60 31,2 32,29 ± 0,35 0 0 100 
Chúng tôi tiếp tục khảo sát khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công thức 
ủ IV (phương pháp ủ phân compost) để so sánh với các công thức ủ trên. Kết quả được trình bày 
ở bảng 4. 
Bảng 4: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công thức ủ IV 
Thời gian 
sau ủ 
(ngày) 
Nhiệt độ 
trung bình
 của 
không khí 
(
0
C) 
Nhiệt độ của 
phân ủ 
 ( X ± m x ) (
0
C) 
Số trứng 
giun T. suis 
/VT /mẫu 
 ( X ± m x ) 
Số trứng giun T. 
suis chết /VT 
/mẫu 
 ( X ± m x ) 
Tỷ lệ 
chết 
(%) 
0 28,0 28,54 ± 0,34 29,67± 0,82 0 0,00 
5 27,0 68,82 ± 1,26 26,60 ± 0,60 19,93 ± 2,36 74,92 
6 28,0 66,00 ± 5,31 23,33 ± 1,08 23,33 ± 1,08 100 
10 28,0 62,93 ± 2,22 18,13 ± 1,52 18,13 ± 1,52 100 
15 27,5 59,47 ± 2,23 11,80 ± 0,89 11,80 ± 0,89 100 
20 28,2 56,58 ± 2,69 8,27 ± 0,51 8,27 ± 0,51 100 
25 26,8 54,13 ± 2,58 5,53 ± 0,40 5,53 ± 0,40 100 
30 28,0 53,78 ± 2,21 2,00 ± 0,47 2,00 ± 0,47 100 
35 27,2 49,71 ± 2,63 0 0 100 
40 28,1 45,22 ± 2,29 0 0 100 
45 28,2 42,18 ± 2,07 0 0 100 
50 29,8 38,18 ± 1,77 0 0 100 
55 31,3 35,69 ± 1,26 0 0 100 
60 31,2 34,07 ± 0,88 0 0 100 
65 32,0 32,53 ± 0,46 0 0 100 
Bảng 4 cho thấy: Nhiệt độ trung bình của phân ủ tăng nhanh ngay sau 5 ngày ủ (68,82 0C). Nhiệt 
độ tăng mạnh như vậy khiến cho trứng giun T. suis bị phá hủy nhiều (74,92 %). Đỉnh nhiệt của 
hố ủ đạt 71,56 0C vào ngày thứ 2 và giữ ở mức trên 70 0C trong khoảng 2 ngày sau ủ. Đến ngày 
thứ 6, nhiệt độ trung bình của phân ủ là 66,00 0C, kiểm tra thấy trứng giun T. suis đã bị chết hoàn 
toàn. Qua theo dõi chúng tôi thấy, nhiệt độ của hố ủ dao động trong khoảng 61 - 68 0C trong thời 
gian 7 ngày; 51 - 59 
0C trong 19 ngày. Nhiệt độ của phân ủ cao trong thời gian dài như vậy đã 
làm cho trứng giun T. suis bị phá hủy mạnh và lớp vỏ dày của trứng cũng không còn. Từ ngày 
Nguyễn Thị Kim Lan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 134(04): 193 - 198 
197 
thứ 35 trở đi, chúng tôi không còn quan sát thấy xác trứng giun T. suis dưới kính hiển vi. Từ kết 
quả ở bảng 1, 2, 3 và 4, chúng tôi đã tổng hợp để đánh giá khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt 
trứng giun T. suis của 4 công thức ủ. Kết quả được trình bày ở bảng 5. 
Bảng 5: Tổng hợp khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của 4 công thức ủ 
Công 
thức ủ 
Thời gian 
sinh nhiệt 
cao nhất 
(ngày) 
Nhiệt độ trung bình 
đạt mức cao nhất 
( X ± m x ) (
0
C) 
Thời gian tồn tại 
mức nhiệt độ cao (> 
53
0
C) 
(ngày) 
Ngày trứng giun 
T. suis chết hoàn 
toàn 
(ngày) 
I 30 53,02 ± 0,35 5 37 
II 32 58,50 ± 0,04 17 32 
III 30 59,70 ± 0,21 20 26 
IV 5 68,82 ± 1,26 31 6 
Đồ thị: Khả năng sinh nhiệt của các công thức ủ 
Kết quả bảng 5 và đồ thị cho thấy: 
Về khả năng sinh nhiệt: Công thức IV có thời 
gian sinh nhiệt cao nhất sau 5 ngày ủ, nhanh 
hơn rất nhiều so với công thức I, II và III (30 
- 32 ngày). Nhiệt độ trung bình cao nhất của 
công thức IV là 68,82 0C cao hơn nhiều so với 
công thức I (53,02 0C), công thức II (58,50 
0C) và công thức III (59,70 0C). Thời gian duy 
trì mức nhiệt độ cao trên 53 0C củ công thức I 
là 5 ngày, của công thức II là 17 ngày, của 
công thức III là 20 ngày và công thức IV là 31 
ngày. Như vậy, thời gian duy trì mức nhiệt độ 
cao (> 53 
0C) của công thức IV là dài nhất so 
với các công thức còn lại. 
Về khả năng diệt trứng giun T. suis của 4 
công thức ủ: Với công thức IV, trứng giun T. 
suis chết hoàn toàn ở ngày thứ 6, ngắn hơn rất 
nhiều so với công thức I (37 ngày), công thức 
II (32 ngày) và công thức III (26 ngày). Kết 
quả ở bảng 5 và đồ thị trên cho phép chúng 
tôi có nhận xét như sau: Công thức IV có khả 
năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. 
suis tốt nhất, sau đó đến công thức III, tiếp 
theo là công thức II và I. Từ kết quả trên 
chúng tôi nhận thấy: Người chăn nuôi lợn cần 
thu gom phân và chất độn chuồng để ủ theo 
phương pháp nhiệt sinh học. Đây là biện pháp 
hữu hiệu để diệt trứng giun T. suis ở ngoại 
cảnh, góp phần giảm sự ô nhiễm môi trường. 
Phương pháp này có tính khả thi cao, dễ áp 
dụng trong điều kiện thực tế ở các địa 
phương. Khi ủ phân nên ủ theo tỷ lệ các 
nguyên liệu của công thức IV để vừa cho kết 
quả diệt trứng giun T. suis tốt, vừa có một 
lượng phân lớn cho trồng trọt vì tận dụng 
được phân chuồng, các chất thải trong chăn 
nuôi và các loại cây cỏ khác của địa phương, 
đồng thời làm quang bờ bụi để diệt trừ các 
côn trùng gây hại cho chăn nuôi và trồng trọt. 
Nguyễn Thị Kim Lan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 134(04): 193 - 198 
198 
KẾT LUẬN 
Ủ phân bằng các công thức ủ nói trên đều cho 
khả năng sinh nhiệt và diệt trứng giun T. suis. 
Trong đó, ủ bằng công thức IV (phương pháp 
ủ compost) có khả năng sinh nhiệt và diệt 
trứng giun T. suis tốt nhất trong 4 công thức 
đã trình bày ở trên (100 % số trứng giun T. 
suis chết ở ngày thứ 6 sau ủ). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng (1986), 
Bệnh gia súc non, Tập II, Nxb Nông nghiệp, Hà 
Nội, tr. 132 - 133. 
2. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Lê, Phạm Sỹ 
Lăng, Nguyễn Văn Quang (2008), Ký sinh trùng 
học thú y (giáo trình dùng cho bậc cao học), Nxb 
Nông nghiệp - Hà Nội. 
3. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Ký sinh trùng và 
bệnh ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp - Hà 
Nội, tr. 48 - 49. 
4. Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ, 
Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Thị Minh (1996), Giun 
sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nxb Khoa học - Kỹ 
thuật, tr. 157 - 158. 
5. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê 
(1977), Giun sán ký sinh ở động vật Việt Nam, 
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 256 - 260. 
6. Nejsum P., Betson M., Bendall R. P., Thamsborg 
S. M., Stothard J. R. (2012), Assessing the zoonotic 
potential of Ascaris suum and Trichuris suis: looking 
to the future from an analysis of the past, J. 
Helminthol. 
7. Roepstorff A., Mejer H., Nejsum P., Thamsborg 
S. M. (2011), “Helminth parasites in pigs: new 
challenges in pig production and current research 
highlights”, Vet. Parasitol. pp. 72 – 81.
SUMMARY 
A SURVEY OF ABILITY TO HEAT AND DESTROY TRICHOCEPHALUS SUIS 
EGGS OF COMPOSTING METHODS 
Nguyen Thi Kim Lan
2
, Nguyen Thi Bich Nga
1*
, Ha Thuy Hanh
3
, 
Trương Thi Tinh1, Vu Minh Duc1, Nguyen Dinh Hai2 
1 Thai Nguyen College of Economics and Technology, 
2 Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 
 3National Agricultural extension center 
Examination on ability to heat and destroy eggs composting methods to limit the spread of T. suis 
eggs and their capability to cause disease and reduce environment pollution. The results showed 
that: All of composting formulas (but difference on materials and proportions) were capable of 
heat and kill T. suis eggs. However, formula IV created higest heat and shortest time (compare 
with formula I, II and III) in order to kill all of T. suis eggs on the sixth days after composting. 
Key words: Manure, composting, Trichocephalus suis, heat, eggs 
Ngày nhận bài:15/12/2014; Ngày phản biện:29/12/2014; Ngày duyệt đăng: 08/5/2015 
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Ngân – Trường Đại học Nông Lâm - ĐHTN
*
 Tel: 0976 238295;Email:nguyennga160182@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_kha_nang_sinh_nhiet_va_tac_dung_diet_trung_giun_tri.pdf