Khái niệm tranh chấp đất đai trong luật đất đai năm 2013

Tranh chấp đất đai hiện nay diễn ra rất phổ biến, có nhiều yếu tố phức tạp, phát sinh trong

nhiều quan hệ pháp luật có liên quan như thừa kế, ly hôn, hợp đồng nhưng trình tự, thủ

tục giải quyết còn chưa thống nhất, do có nhiều quan điểm về khái niệm tranh chấp đất đai.

Vì vậy, việc làm rõ nội hàm của khái niệm này cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, có

tính quyết định trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết,

tránh tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn

xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình thụ lý và giải quyết tranh chấp đất đai

những năm gần đây, quy định pháp luật qua các thời kỳ cũng như quan điểm của nhiều nhà

khoa học về khái niệm tranh chấp đất đai, tranh chấp quyền sử dụng đất chúng tôi đưa

ra quan điểm cá nhân về các khái niệm này.

pdf 12 trang kimcuc 8240
Bạn đang xem tài liệu "Khái niệm tranh chấp đất đai trong luật đất đai năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khái niệm tranh chấp đất đai trong luật đất đai năm 2013

Khái niệm tranh chấp đất đai trong luật đất đai năm 2013
542 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 7, Số 4, 2017 542–553 
KHÁI NIỆM TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI 
TRONG LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013 
Lê Thị Bích Chia* 
aKhoa Luật, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam 
Lịch sử bài báo 
Nhận ngày 31 tháng 10 năm 2014 
Chỉnh sửa ngày 14 tháng 05 năm 2016 | Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 10 năm 2017 
Tóm tắt 
Tranh chấp đất đai hiện nay diễn ra rất phổ biến, có nhiều yếu tố phức tạp, phát sinh trong 
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan như thừa kế, ly hôn, hợp đồng nhưng trình tự, thủ 
tục giải quyết còn chưa thống nhất, do có nhiều quan điểm về khái niệm tranh chấp đất đai. 
Vì vậy, việc làm rõ nội hàm của khái niệm này cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, có 
tính quyết định trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết, 
tránh tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn 
xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình thụ lý và giải quyết tranh chấp đất đai 
những năm gần đây, quy định pháp luật qua các thời kỳ cũng như quan điểm của nhiều nhà 
khoa học về khái niệm tranh chấp đất đai, tranh chấp quyền sử dụng đất chúng tôi đưa 
ra quan điểm cá nhân về các khái niệm này. 
Từ khoá: Khái niệm tranh chấp đất đai; Tranh chấp quyền sử dụng đất; Tranh chấp tài sản 
gắn liền với đất. 
1. TÌNH HÌNH THỤ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI 
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 
Luật Đất đai năm 2013 (Luật số 45/2013/QH13) được Quốc hội nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu 
lực thi hành từ ngày 01/7/2014, thay thế Luật Đất đai năm 2003 (Luật số 
13/2003/QH11). Thực hiện công tác rà soát tình hình thi hành Luật Đất đai năm 2003, 
chuẩn bị cho việc ban hành Dự án Luật Đất đai năm 2013. 
Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, từ 01/7/2004 đến 30/8/2010, Tòa án 
các cấp đã thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm 307.912 vụ việc dân sự, trong 
đó số vụ việc tranh chấp liên quan đến đất đai là 69.806 vụ việc (chiếm 22.70%). 
Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết 
*Tác giả liên hệ: Email: chiltb@dlu.edu.vn 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 543 
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai của 
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đến tháng 11/2012, trong 528 vụ việc tồn đọng 
kéo dài có 509 vụ khiếu nại, 19 vụ tố cáo. Khiếu nại về đất đai là 422 vụ việc 
(chiếm 79.9%), trong đó bồi thường giải phóng mặt bằng, dự án thu hồi đất là 
217 vụ việc (chiếm 51%); Tranh chấp đất đai 115 vụ việc (chiếm 27%); Đòi lại 
đất cũ 78 vụ việc (chiếm 18%) và các khiếu nại khác có liên quan về đất đai như 
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Thu hồi giấy phép 12 vụ việc; Khiếu 
nại về nhà ở 42 vụ việc (chiếm 7.9%). Có những vụ việc kéo dài trên 20 năm, đã 
qua nhiều cấp, nhiều ngành và hầu hết đều có tới 03 đến 04 quyết định giải 
quyết hành chính nhưng do không thỏa mãn với quyết định nên người dân tiếp 
tục khiếu kiện lên cấp cao hơn. Nội dung khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý 
đất đai chủ yếu tập trung vào các quyết định hành chính về thu hồi đất, bồi 
thường, hỗ trợ, tái định cư (chiếm 70%); Về giao đất, cho thuê đất, cho phép 
chuyển mục đích sử dụng đất (chiếm 20%); Về cấp, thu hồi Giấy chứng nhận 
quyền sử dụng đất (chiếm 10%). Trong tổng số quyết định hành chính về đất đai 
bị khiếu nại, tố cáo thì tỷ lệ khiếu nại, tố cáo đúng và có đúng, có sai chiếm 
47.8%. Trong số các vụ được đưa ra xét xử tại Tòa án thì tỷ lệ khởi kiện đúng và 
đúng một phần chiếm 19.5%. (Nguyêñ & Thảo, 2014, đ. 2). 
Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, từ ngày 01/10/2010 đến ngày 30/9/2014, tình hình 
thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự sơ thẩm như trong Bảng 1. 
Bảng 1. Bảng thống kê các vu ̣viêc̣ dân sư ̣sơ thẩm từ năm 2011 đến năm 2014 
Thời gian 
Tổng số vụ việc dân sự phải giải quyết 
Các vu ̣án tồn 
đoṇg năm trước Tỷ lệ 
việc 
đất đai 
(%) 
Các vu ̣án mới thụ 
lý 
Tỷ lệ 
việc 
đất 
đai 
(%) 
Tổng số Tỷ lệ 
việc 
đất 
đai 
(%) 
 Tổng 
số án 
dân sự 
Loại 
việc đất 
đai 
 Tổng 
số án 
dân sự 
Loại 
việc đất 
đai 
 Tổng 
số án 
dân sự 
Loại 
việc đất 
đai 
Năm 2011 475 193 40.63 1569 246 15.68 2044 439 21.48 
Năm 2012 465 212 45.59 1573 199 12.65 2038 411 20.17 
Năm 2013 532 237 44.55 1553 240 15.45 2085 477 22.88 
Năm 2014 459 238 51.85 1622 220 13.56 2081 458 22.01 
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2011, 2012, 2013, 2014) 
544 Lê Thị Bích Chi 
Qua các số liệu trên cho thấy, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai là một vấn đề 
phức tạp, chiếm một tỷ lệ rất lớn so với các tranh chấp khác phát sinh trong công tác 
quản lý nhà nước về mọi mặt, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước, ổn định xã 
hội. 
Dưới góc độ pháp lý, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn 
không thể có hiệu quả nếu không có định nghĩa chính xác, khoa học về khái niệm tranh 
chấp vì khi đó không thể xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như xây dựng 
trình tự, thủ tục, cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp. Vì vậy việc làm rõ nội hàm của 
khái niệm tranh chấp đất đai là cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, hạn chế tình trạng 
khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. 
2. KHÁI NIÊṂ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO QUY ĐIṆH CỦA PHÁP 
LUÂṬ ĐẤT ĐAI QUA CÁC THỜI KỲ 
Thực tiễn cuộc sống tồn tại nhiều loaị tranh chấp khác nhau, tùy theo lĩnh vực 
phát sinh mà nó có thể được gọi là tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại hay tranh 
chấp hành chính Trong quan hệ quản lý nhà nước về đất đai có thể phát sinh tranh 
chấp đất đai, đó có thể là tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước về đất đai với người 
sử dụng đất hoặc có thể là tranh chấp giữa những người sử dụng đất với nhau. 
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, “tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý 
kiến bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa 2 bên” (Viện Ngôn ngữ học, 2002). 
Vậy, tranh chấp đất đai là gì? Thuật ngữ tranh chấp đất đai đã được sử dụng theo Luật 
Đất đai năm 1987 (tại các điều luật là Điều 9, Điều 21, Điều 22), Luật Đất đai năm 1993 
(Điều 38, Điều 40) nhưng chưa được giải thích chính thức, mà chủ yếu là chỉ được hiểu 
ngầm qua các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và các tranh chấp 
khác có liên quan đến quyền sử dụng đất (Lưu, 2006). Ví dụ, Điều 38 Luật Đất đai năm 
1993 quy định: 
2-Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có giấy 
chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì do Uỷ ban nhân dân giải 
quyết theo quy định sau đây: 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 545 
• Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết các 
tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân, hộ gia đình với 
tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nếu các tổ chức đó thuộc quyền quản lý 
của mình; 
• Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết các tranh 
chấp giữa tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức với hộ gia đình, cá nhân nếu tổ 
chức đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc của Trung ương; 
• Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân đã 
giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính 
Nhà nước cấp trên. Quyết định của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên 
trực tiếp có hiệu lực thi hành. 
3-Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng 
nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với 
việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết (Quốc hội, 1993, tr. 536). 
Luật Đất đai năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 
01/7/2004 (thay thế Luật Đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật 
Đất đai năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001) lần 
đầu tiên tại Khoản 26, Điều 4 đã định nghĩa: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền 
và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. 
Khái niệm này đã được đón nhận với nhiều nhận thức và cảm xúc khác nhau, 
bởi đây là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng và cũng không mấy rõ ràng. 
Theo khái niệm này, đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai là quyền và 
nghĩa vụ của người sử dụng đất. Nhưng, đây là tranh chấp tổng thể các quyền và 
nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ “đơn lẻ” của người sử 
dụng đất do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền 
và nghĩa vụ mà người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ pháp 
luật khác cho đến nay vẫn chưa được chính thức xác định. Bên cạnh đó, chủ thể 
546 Lê Thị Bích Chi 
tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được định danh về 
loại chủ thể: Chỉ là người sử dụng đất hay tất cả các chủ thể có liên quan đến 
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan hệ tranh chấp đất đai? 
(Lưu, 2006, tr. 3). 
Theo giáo trình của Trường Đaị hoc̣ Luâṭ Hà Nôị (2008, tr. 455) thì: 
Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền 
và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai các 
chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền 
sở hữu đối với đất đai. 
Một quan điểm khác cho rằng: 
Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa các chủ thể (sử dụng đất) 
trong việc xác định ai là người có quyền sử dụng đối với một (hoặc những) thửa 
đất nhất địnhtranh chấp đất đai có thể bao hàm cả các tranh chấp về địa giới 
giữa các đơn vị hành chính. (Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2012, tr. 
357-358). 
Hoăc̣: 
Tranh chấp đất đai là mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm 
tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh 
chấp liên quan đến địa giới hành chính Quan điểm này được nhiều cơ quan có 
thẩm quyền giải quyết chấp nhận, vì Điều 136 Luật Đất đai năm 2003... 
(Trương, 2013, đ. 3). 
Tuy định nghĩa tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2003 gây ra nhiều rối 
rắm trong cách hiểu và áp dụng pháp luật trên thực tế nhưng Khoản 24, Điều 3, Luật 
Đất đai năm 2013 lại tiếp tục giữ nguyên cách quy định như trên, chỉ có sự thay đổi về 
cách sử dụng thuật ngữ: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của 
người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Có thể nói, cách định 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 547 
nghĩa này không mang tính khoa học vì dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chủ thể, 
đối tươṇg và muc̣ đích giải quyết tranh chấp. 
Bên caṇh Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 có một số quy định khác 
liên quan đến nội hàm của khái niệm tranh chấp đất đai như Khoản 14, Điều 22 quy 
định một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai là “Giải quyết tranh chấp về 
đất đai; Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai”; Điều 203 quy 
định Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (có thể thuộc về Tòa án nhân dân hoặc 
Ủy ban nhân dân). Theo các quy định này, có thể khẳng định, các chủ thể tham gia 
tranh chấp đất đai chỉ bao gồm những người sử dụng đất và như vậy, chúng tôi cho 
rằng, tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính không phải là loại tranh chấp 
đất đai được đề cập tại Khoản 26, Điều 4, Luật Đất đai năm 2003 cũng như Khoản 24, 
Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 vì những lý do sau đây: 
Thứ nhất, chủ thể tranh chấp đất đai theo Khoản 24, Điều 3 và Điều 203, Luật 
Đất đai năm 2013 phải là người sử dụng đất nhưng các chủ thể tranh chấp địa giới hành 
chính không phải là người sử dụng đất; 
Thứ hai, đây không phải là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng 
đất mà là tranh chấp về phân định địa giới hành chính giữa các địa phương trong hoạt 
động quản lý nhà nước về đất đai; 
Thứ ba, Luật Đất đai năm 2013 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp đất đai liên 
quan đến địa giới hành chính” như Luật Đất đai năm 2003 mà sử dụng thuật ngữ “tranh 
chấp địa giới hành chính”, việc sử dụng thuật ngữ này là hợp lý hơn. Vì vậy, luật mới 
không quy định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp địa giới hành chính trong 
Chương 13 về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai mà quy định ở Chương Địa giới 
hành chính và điều tra cơ bản về đất đai (Chương 3, Khoản 4, Điều 29). 
Nếu như Luật Đất đai năm 2003 (Điều 135 và Điều 136) sử dụng cả hai khái 
niệm “tranh chấp đất đai” và “tranh chấp về quyền sử dụng đất” thì Luật Đất đai năm 
2013 sử dụng khái niệm “tranh chấp đất đai” và “tranh chấp về tài sản gắn liền với đất”. 
Chúng tôi đồng ý với quan điểm về tranh chấp đất đai ở nước ta theo quy định của pháp 
548 Lê Thị Bích Chi 
luật chỉ có thể hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đất của Lưu (2006), có đối tượng tranh 
chấp là quyền sử dụng đất và có mục đích là xác định phần diện tích đất tranh chấp 
thuộc quyền sử dụng của ai (Trần, 2009) vì những lý do sau đây: 
Thứ nhất, ở nước ta, “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ 
sở hữu và thống nhất quản lý” và “Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng 
đất” (Điều 4, Luật Đất đai năm 2013). Nói cách khác, người sử dụng đất hợp pháp ở 
nước ta chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu đất đai; 
Thứ hai, theo quan điểm của Trần (2009) thì nếu suy luận theo Điều 136 của 
Luật Đất đai năm 2003, chúng ta thấy có một sự tương đồng giữa hai thuật ngữ “tranh 
chấp đất đai” và “tranh chấp về quyền sử dụng đất”; 
Thứ ba, nhìn tổng thể các quy định của pháp luật đất đai kể từ Luật Đất đai năm 
1987 đến Luật Đất đai năm 2003, theo Lưu (2006) thì các thuật ngữ tranh chấp đất đai 
và tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế nhau, 
cụ thể như sau: 
Điều 21, Luật Đất đai năm 1987 quy định: “Các tranh chấp về quyền sử dụng 
đất đai do Uỷ ban nhân nơi có đất đai bị tranh chấp giải quyết theo quy định dưới đây: 
1- Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn giải quyết các tranh chấp đất đai giữa cá nhân 
với cá nhân”. 
Hoặc Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 quy định: “1- Nhà nước khuyến khích việc 
hoà giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân 2- Các tranh chấp về quyền sử dụng 
đất mà người sử dụng đất không có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm 
quyền ”. 
Hoặc Điều 136, Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Thẩm quyền giải quyết tranh 
chấp đất đai: Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị 
trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau: 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 549 
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất ...; 
2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận 
quyền sử dụng đất...” 
Đồng thời, Công văn số 116/2004/KHXX ngày 22/7/2004 của Tòa án nhân dân 
tối cao về việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Đất 
đai năm 2003 đã sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất” 06 lần, “tranh 
chấp quyền sử dụng đất” 02 lần, “tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” 01 lần 
Thứ tư, Khoản 1, Điều 2, Dự thảo 1.2, Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân 
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp năm 
2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 về thẩm quyền, 
thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai cũng quy định: “Tranh chấp đất đai phải hòa giải tại 
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quy định tại Khoản 2, Điều 202, Luật Đất đai năm 
2013 là tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất”. 
Như vậy, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất nhưng không 
phải là tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. 
Khoa học pháp lý nói chung không có định nghĩa về quyền sử dụng đất mà chỉ 
thừa nhận quyền sử dụng đất là quyền của người sử dụng đất được Nhà nước trao quyền 
thực hiện các quyền sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất và thực 
hiện các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất đó phù hợp với các hình thức sử 
dụng đất theo quy định của pháp luật. Về thực tế, quyền sử dụng đất hợp pháp của bất 
kỳ một chủ thể nào được Nhà nước ghi nhận thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền 
sử dụng đất cho chủ thể đó, nó là chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa 
Nhà nước với người sử dụng đất trong việc sử dụng đất. Bộ luật Dân sự năm 2005 thừa 
nhận quyền sử dụng đất là một quyền tài sản, vì vậy nó là một loại tài sản nhưng nó 
không phải là “tài sản gắn liền với đất” (Bô ̣ luâṭ Dân sư,̣ 2005). Điều này có nghĩa, 
“tranh chấp về quyền sử dụng đất” và “tranh chấp về tài sản gắn liền với đất” là hai khái 
niệm không giống nhau về nội hàm vì mục đích giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất 
550 Lê Thị Bích Chi 
là xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai còn mục đích giải quyết tranh chấp tài sản 
gắn liền với đất là xác định tài sản tranh chấp thuộc về ai. 
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, tài sản gắn liền với đất bao gồm: Nhà, công 
trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây 
dựng đó; và Các tài sản khác gắn liền với đất đai. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số 
điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản (Luật số 38/2009/QH12) chia tài 
sản gắn liền với đất thành 2 loại là: Nhà ở và Tài sản khác gắn liền với đất. 
Khoản 1, Điều 3, Dự thảo 1.2, Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp năm 2014 
hướng dẫn thi hành một số quy định của luật đất đai về thẩm quyền, thủ tục giải quyết 
tranh chấp đất đai quy định mang tính liệt kê cụ thể hơn:“Tài sản gắn liền với đất” quy 
định tại khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 bao gồm các tài sản sau đây: nhà ở, 
vật kiến trúc khác gắn liền với đất đó như: Nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, 
nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình trên đất 
được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ 
thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các 
tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu 
năm khác.... Và như vậy, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất có đối tượng tranh chấp 
là các tài sản nói trên mà không phải là quyền sử dụng đất, chỉ có điều các tài sản này 
tồn tại gắn liền với đất còn “tranh chấp về quyền sử dụng đất” có thể là tranh chấp 
không có các tài sản gắn liền với đất. 
3. KIẾN NGHI ̣
Theo tất cả những quan điểm mà chúng tôi phân tích, các khái niệm “tranh chấp 
đất đai”, “tranh chấp quyền sử dụng đất” (“tranh chấp về quyền sử dụng đất”) là tương 
đồng và vì vâỵ, theo chúng tôi, để áp dụng pháp luật một cách thống nhất khi giải quyết 
những tranh chấp đất đai phát sinh trong thực tế, có thể đưa ra khái niệm tranh chấp đất 
đai như sau: 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 551 
 Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của những người sử dụng 
đất trong việc xác định chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện tích đất tranh chấp. 
Theo khái niệm này, tranh chấp đất đai có một số đặc điểm như sau: 
Thứ nhất, đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất; 
Thứ hai, chủ thể tranh chấp là những người sử dụng đất, các chủ thể này không 
có quyền sở hữu đất đai; 
Thứ ba, mục đích của việc giải quyết tranh chấp là xác định chủ thể có quyền sử 
dụng đất hợp pháp đối với đối tượng tranh chấp. 
Đồng thời, theo tinh thần của Dự thảo 1.2, Thông tư liên tịch của Tòa án nhân 
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp 
năm 2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật đất đai về thẩm quyền, thủ tục 
giải quyết tranh chấp đất đai là “Để áp dụng đúng và thống nhất” quy định của Luật Đất 
đai năm 2013 “về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai”, Chánh án Tòa án 
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, 
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cần sớm thông qua Thông tư liên tịch này để 
những nội dung hướng dẫn về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai được áp 
dụng hiệu quả trong thực tiễn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Lưu, Q. T. (2006). Bàn về khái niệm “tranh chấp đất đai” trong Luật Đất đai năm 2003. 
Tạp chí Khoa học pháp lý, 2(33), 3-6. 
Nguyễn, T. H. & Thảo, T. (2014). Một số vấn đề về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu 
nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ 
cuu-trao-doi/201404/mot-so-van-de-ve-khieu-nai-to-cao-va-giai-quyet-khieu-
nai-to-cao-trong-linh-vuc-dat-dai-294276. 
Quốc hội. (1987). Luật Đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Bat-dong-san/Luat-Dat-dai-1987-3-LCT-HDNN8-37467.aspx. 
Quốc hội. (1993). Luật Đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Bat-dong-san/Luat-Dat-dai-1993-24-L-CTN-38481.aspx. 
Quốc hội. (1998). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ 
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Luat-dat-dai-1998-sua-doi-10-
552 Lê Thị Bích Chi 
1998-QH10-44855.aspx. 
Quốc hội. (2001). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ 
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Luat-dat-dai-2001-sua-doi-25-
2001-QH10-47927.aspx. 
Quốc hội. (2003). Luâṭ Đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/ 
Bat-dong-san/Luat-Dat-dai-2003-13-2003-QH11-51685.aspx. 
Quốc hội. (2005). Bộ luật Dân sự. Đươc̣ truy luc̣ từ https://thuvienphapluat.vn/ van-
ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-Dan-su-2005-33-2005-QH11-2463.aspx. 
Quốc hội. (2013) Luâṭ Đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Bat-dong-san/Luat-dat-dai-2013-215836.aspx. 
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. (2011). Báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và 
phương hướng nhiệm vụ năm 2012. [Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng], Lâm 
Đồng, Viêṭ Nam. 
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. (2012). Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và 
phương hướng nhiệm vụ năm 2013. [Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng], Lâm 
Đồng, Viêṭ Nam. 
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. (2013). Báo cáo tổng kết công tác năm 2013 và 
phương hướng nhiệm vụ năm 2014. [Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng], Lâm 
Đồng, Viêṭ Nam. 
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. (2014). Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 và 
phương hướng nhiệm vụ năm 2015. [Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng], Lâm 
Đồng, Viêṭ Nam. 
Trần, A. T. (2009). Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp về 
quyền sử dụng đất. Đươc̣ truy luc̣ từ https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/ 
2009/04/24/2741. 
Trương, T. C. (2013). Những bất cập trong quy định của pháp luật về tranh chấp và 
giải quyết tranh chấp đất đai. Đươc̣ truy luc̣ từ  
tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=21 
Trường Đaị hoc̣ Luâṭ Hà Nôị. (2008). Giáo trình Luâṭ Đất đai. Hà Nôị, Viêṭ Nam: 
NXB. Công an Nhân dân. 
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. (2012). Giáo trình Luật Đất đai. Hà Nôị, Viêṭ 
Nam: NXB. Hồng Đức. 
Viện Ngôn ngữ học. (2002). Từ điển tiếng Việt phổ thông. TP. Hồ Chí Minh, Viêṭ Nam: 
NXB. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 553 
THE CONCEPT OF LAND DISPUTES IN LAND LAW 2013 
Le Thi Bich Chia* 
aThe Faculty of Law, Dalat University, Lamdong, Vietnam 
*Corresponding author: Email: chiltb@dlu.edu.vn 
Article history 
Received: October 31st, 2014 
Received in revised form: May 14th, 2016 | Accepted: October 18th, 2017 
Abstract 
Land disputes are now very common with complicated factors, arising in many relevant 
legislation relationships such as inheritance, divorce, contracts, etc. The land law at 
present, however, has an inconsistent resolution process, due to controversial ideas of the 
concept of a land dispute. In order to identify exact authorities and resolution procedures, 
it is significant to clarify the meaning and scope of this term. As a result, this will avoid 
crowded and persistent complaints or litigation with incoresponding steps, which has been 
harmful to society’s safety and common order. Based on researching the practical 
resolution of land disputes in recent years, current relating regulations, and scholars’ 
opinion on the concept of land disputes and disputes over a land use right, we will provide 
our points of view on these notions. 
Keywords: Dispute over a land use right; Dispute over land-attached assets; Land dispute. 

File đính kèm:

  • pdfkhai_niem_tranh_chap_dat_dai_trong_luat_dat_dai_nam_2013.pdf