Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành và định hướng tiếp tục hoàn thiện trong tương lai (kỳ 1)

Bài viết đề cập đến việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận 03 nhóm

vấn đề xung quanh khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành:

I) Nhận thức khoa học về khái niệm và nội hàm của các đặc điểm (dấu hiệu)

của tội phạm; II) Trên cơ sở 08P tiêu chí so sánh cơ bản, phân tích và chỉ ra

những điểm khác nhau và giống nhau chủ yếu của tội phạm với 02 loại hành

vi (vi phạm pháp luật khác và hành vi trái đạo đức); và III) Định hướng tiếp

tục hoàn thiện khái niệm tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách

nhiệm hình sự (TNHS).

pdf 8 trang kimcuc 3160
Bạn đang xem tài liệu "Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành và định hướng tiếp tục hoàn thiện trong tương lai (kỳ 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành và định hướng tiếp tục hoàn thiện trong tương lai (kỳ 1)

Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành và định hướng tiếp tục hoàn thiện trong tương lai (kỳ 1)
3Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Lê Cảm
I. Khái niệm và các đặc điểm (dấu hiệu) 
của tội phạm
1. Khái niệm tội phạm
Cùng với ba chế định lớn và chủ yếu 
khác của Phần chung pháp luật hình sự 
(PLHS) - đạo luật hình sự (1), trách nhiệm hình 
sự (TNHS) (2) và các biện pháp cưỡng chế hình 
sự (3) (bao gồm hai chế định nhỏ là hình phạt 
và biện pháp tư pháp hình sự), tội phạm cũng 
là một chế định lớn chủ yếu và quan trọng, 
đồng thời là một trong những phạm trù cơ 
bản của PLHS. Chính vì lẽ đó, từ trước đến 
nay (đặc biệt là từ sau khi PLHS nước ta 
được pháp điển hóa) các nhà hình sự học 
đã quan tâm nghiên cứu những vấn đề về 
tội phạm. Vì vậy, đúng như 01 trong vài luật 
gia - hình sự học hàng đầu của Việt Nam, 
PgS. TS. Trần Văn Độ đã viết, “nghiên cứu 
khái niệm tội phạm luôn luôn là chủ đề nóng hổi 
trong khoa học pháp lý hình sự trên thế giới nói 
chung và ở nước ta nói riêng”1.
Tuy nhiên, từ trước đến nay xung 
quanh khái niệm tội phạm trong giới hình 
sự học vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. 
Chẳng hạn như: 
1) Việc phân tích sách báo pháp lý hình 
sự đã cho thấy, trong khoa học luật hình sự 
(LHS) của Liên Xô trước đây và Liên bang 
Nga hiện nay có một số các quan điểm chủ 
yếu của các nhà hình sự học coi khái niệm 
tội phạm là hành vi: a) có 02 dấu hiệu - tính 
nguy hiểm cho xã hội và tính trái PLHS, đồng 
1 Trần Văn Độ. Tội phạm và cấu thành tội phạm. 
Chương V. Trong sách: Tội phạm học, luật hình sự 
và Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Tập thể tác giả 
do gS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên). NXB. Chính trị 
Quốc gia. Hà Nội, tr.158.
KHÁI NIỆM TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 
VÀ ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN TRONG TƯƠNG LAI (Kỳ 1) 
lê cảM*
* Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Giám đốc Trung tâm 
Luật hình sự & Tội phạm học thuộc Khoa Luật, Đại 
học Quốc gia Hà Nội 
Bài viết đề cập đến việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận 03 nhóm 
vấn đề xung quanh khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành: 
I) Nhận thức khoa học về khái niệm và nội hàm của các đặc điểm (dấu hiệu) 
của tội phạm; II) Trên cơ sở 08P tiêu chí so sánh cơ bản, phân tích và chỉ ra 
những điểm khác nhau và giống nhau chủ yếu của tội phạm với 02 loại hành 
vi (vi phạm pháp luật khác và hành vi trái đạo đức); và III) Định hướng tiếp 
tục hoàn thiện khái niệm tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách 
nhiệm hình sự (TNHS).
Từ khóa: 1) Khái niệm tội phạm; 2) Các đặc điểm (dấu hiệu); 3) Hành vi 
phạm tội; 4) Hành vi vi phạm pháp luật khác; 5) Hành vi trái đạo đức; 6) Phân 
loại tội phạm.
The paper studies to shed light on theories of 3 problems related to crime 
definition under Vietnamese criminal law currently: I) Scientific cognition about 
definition and connotation of crime’s characteristics; II) Based on 08P basic 
comparison criteria, analyzing the main differences and similarities between 
crime and 2 behaviors (other law violations and immoral acts); and III) Orientations 
to continously complete crime definition on coporate criminal liability.
Keywords: 1) crime definition; 2) characteristics (signals); 3) Offense; 
4) Other law violations; 5) Immoral acts; 6) crime classification.
4Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt nam hiện hành... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
thời dấu hiệu sau (thứ hai) này chứa đựng 
trong mình cả tính chất lỗi2; b) có 03 dấu hiệu 
- ngoài 02 dấu hiệu đầu tiên đã nêu còn có 
thêm một dấu hiệu thứ 03 nữa - tính chất lỗi3 
hoặc tội phạm là hành vi có lỗi4; c) có 04 dấu 
hiệu - ngoài ba dấu hiệu đã nêu còn có thêm 
một dấu hiệu thứ 04 nữa - tính phải chịu hình 
phạt5; d) có 05 dấu hiệu - ngoài 04 dấu hiệu 
đã nêu còn có thêm một dấu hiệu thứ 05 
nữa - tính trái đạo đức6 hoặc tội phạm là “sự 
xâm hại” nguy hiểm cho xã hội (chứ không 
phải là hành vi, vì “người không có năng lực 
trách nhiệm hình sự hay trẻ em cũng có thể 
thực hiện hành vi”) mà ngoài ba dấu hiệu 
đầu tiên đã nêu còn có thêm hai dấu hiệu 
2 Xem: 1) Đurmanôv N.Đ. Khái niệm tội phạm. 
NXB Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Maxcơva- 
Lêningrad 1948, tr. 202 (Tiếng Nga); 2) giáo trình 
luật hình sự Xô Viết (Phần chung). Tập 1. NXB 
Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Lêningrađ, 
1968, tr.164 (Tiếng Nga).
3 Xem: Kuđriavtxev V.N. Lý luận chung về định 
tội danh. NXB Sách pháp lý. Maxcơva, 1972, tr.112 
(Tiếng Nga).
4 Xem: 1) Kuznhetxôva N.F. Tội phạm và tình trạng 
phạm tội. NXB Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia 
Maxcơva, 1969, tr. 90 (Tiếng Nga); 2) Kuđriavtxev 
V.N (Chủ biên). Đạo luật hình sự. Kinh nghiệm 
của việc mẫu hóa về lý luận. NXB Khoa học, 
1987, tr.45 (Tiếng Nga); 3) Kelina X.G. Luật hình 
sự Liên bang Nga. Phần chung. Các hướng dẫn 
về phương pháp học tập. Khoa Luật-Trường Đại 
học Tổng hợp (ĐHTH) quốc tế xuất bản.Maxcơva, 
1996, tr.10 (Tiếng Nga).
5 Xem: 1) Piôntkôvxki A.A. Lý luận về tội phạm 
theo luật hình sự Xô Viết. NXB Pháp lý Quốc 
gia. Maxcơva, 1961, tr. 29-30 (Tiếng Nga); 2) giáo 
trình luật hình sự Xô Viết Phần chung.Tập ii (Tội 
phạm). NXB Khoa học. Maxcơva, 1970, tr.25 (Tiếng 
Nga); 3) Sivsôv O.F. Tội phạm và hành vi hành 
chính. Trường đại học pháp lý tại chức toàn Liên 
bang xuất bản. Maxcơva, 1967, tr.16 (Tiếng Nga); 
4) Kôrnheeva A.V. Chương iV “Tội phạm” Trong 
sách: Luật hình sự. Phần chung. NXB Sách pháp 
lý. Maxcơva, 1994, tr.74 (Tiếng Nga).
6 Xem: 1) Gertxenzôn A.A. Khái niệm tội phạm theo 
luật hình sự Xô Viết. NXB Pháp lý quốc gia. Maxcơva, 
1955, tr.52 (Tiếng Nga); 2) Đaghel P.X., Kôtôv Đ.P. 
Mặt chủ quan của tội phạm và việc xác định nó. NXB 
Trường ĐHTH Vôrônhez, 1974, tr.38 (Tiếng Nga).
nữa được thực hiện bởi người có năng lực 
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm 
hình sự7; đ) có 06 dấu hiệu ngoài 04 dấu hiệu 
đầu tiên đã nêu còn có thêm 02 dấu hiệu 
nữa - hành vi được thực hiện bởi người có 
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS8.
2) Còn trong khoa học luật hình sự Việt 
Nam hiện nay, mặc dù đa số các nhà hình sự 
học nước ta đồng nhất với quan điểm coi 
tội phạm là hành vi có 04 dấu hiệu (như đã 
nêu ở trên); nhưng riêng PgS.TS. Trần Văn 
Độ không coi tính phải chịu hình phạt là một 
đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm, mà quan 
niệm đặc điểm thứ 04 của tội phạm “là hành 
vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự 
thực hiện”9; còn theo PgS.TS. Kiều Đình 
Thụ, thì ngoài bốn dấu hiệu truyền thống 
trên đã coi dấu hiệu thứ 05 của tội phạm là 
“tính có năng lực trách nhiệm hình sự”10. Đây 
cũng chính là dấu hiệu được ghi nhận về 
mặt lập pháp bởi định nghĩa pháp lý của 
khái niệm tội phạm trong PLHS của nước 
ta (khoản 1 Điều 8 của BLHS năm 1985 và 
BLHS năm 1999, cũng như BLHS năm 2015 
hiện hành). 
3) Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng 
tôi, định nghĩa khoa học (ĐNKH) của bất kỳ 
một khái niệm, phạm trù hoặc hiện tượng 
pháp luật nào nói chung (và PLHS nói riêng) 
cần phải đáp ứng được 04 tiêu chí (đòi hỏi) 
chủ yếu là: a) Chặt chẽ về mặt lôgic; b) Chính 
xác về mặt ngôn ngữ; c) Ngắn gọn về mặt 
hình thức (cấu trúc) và; d) Đầy đủ về mặt 
nội dung. Từ đây cho thấy, đối với ĐNKH 
7 Xem: Karpusin M.P., Kurlianđxki V.i. Trách 
nhiệm hình sự và cấu thành tội phạm. NXB Sách 
pháp lý. Maxcơva, 1974, tr.89 (Tiếng Nga). 
8 Xem: Martxev A.I. Tội phạm: bản chất và nội 
dung. NXB Trường ĐHTH Ômxk, 1986, tr.24-28 
(Tiếng Nga).
9 Trần Văn Độ. Tlđd, tr.171.
10 Kiều Đình Thụ. Một số vấn đề lý luận về khái niệm 
tội phạm trong luật hình sự. Bài 1. Trong sách: Luật 
hình sự Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực 
tiễn. NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 1997, tr.6.
5Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Lê Cảm
(ở đây chưa bàn đến định nghĩa pháp lý) của 
khái niệm tội phạm, thì tiêu chí thứ 04 là cần 
phải bao hàm đầy đủ tất cả các đặc điểm 
(dấu hiệu) trên cả 03 bình diện hay còn gọi 
là dưới 03 góc độ (khía cạnh) - khách quan, 
pháp lý (hình thức) và chủ quan. Vì vậy, tổng 
kết tất cả các quan điểm đã được liệt kê trên 
đây và xuất phát từ định nghĩa pháp lý của 
khái niệm tội phạm đã được nhà làm luật 
ghi nhận về mặt lập pháp trong PLHS Việt 
Nam hiện hành (khoản 1 Điều 8 BLHS năm 
2015), chúng ta có thể đưa ra ĐNKH ngắn 
gọn của khái niệm tội phạm như sau: Tội 
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy 
định trong PLHS (hay còn gọi là «trái PLHS» 
hoặc «bị PLHS cấm»), do cá nhân (người) có 
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực 
hiện một cách có lỗi (cố ý hoặc vô ý). 
2. các đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm
ĐNKH của khái niệm tội phạm được đưa 
ra trên đây chính là định nghĩa có tính tổng 
thể phản ánh được đầy đủ nội hàm của khái 
niệm tội phạm về mặt nội dung (vật chất) vì 
nó chỉ ra được bản chất xã hội (xâm hại đến 
các khách thể được Nhà nước bảo vệ bằng 
PLHS), cũng như về mặt hình thức khi chỉ ra 
được bản chất pháp lý (được quy định trong 
PLHS). Vì khái niệm tội phạm nêu trên đã 
thể hiện được đầy đủ trên cả 03 bình diện 
(khía cạnh) tương ứng với 05 đặc điểm (dấu 
hiệu) của tội phạm là:
2.1. Trên bình diện khách quan (nội dung) 
- tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. 
2.2. Trên bình diện pháp lý (hình thức) - 
tội phạm là hành vi do PLHS quy định (còn 
gọi là tính trái PLHS hay tính bị PLHS cấm 
của tội phạm).
2.3. Trên bình diện chủ quan - tội phạm là 
hành vi do người có năng lực TNHS (3) và đủ 
tuổi chịu TNHS (4) thực hiện một cách có lỗi 
(5). Đặc biệt, với việc thông qua BLHS năm 
2015 thì khi bàn về bình diện chủ quan cần 
lưu ý rằng, vì lần đầu tiên trong PLHS Việt 
Nam hiện hành có ghi nhận vấn đề TNHS 
của pháp nhân nên cần có nhận thức khoa 
học thống nhất để phân biệt rõ như sau: 1) 
Đối với đa số cấu thành tội phạm (CTTP) 
thì chủ thể của tội phạm và đồng thời là chủ 
thể của TNHS chỉ có thể là cá nhân người 
phạm tội; 2) Còn đối với riêng 33 CTTP 
riêng biệt được liệt kê tại Điều 76, thì chủ 
thể của tội phạm cũng chỉ có 01 loại là cá nhân 
người phạm tội (với đầy đủ 04 dấu điều 
kiện được quy định tại Điều 75), nhưng lại 
có 02 loại chủ thể của TNHS vì ngoài loại 
chủ thể thứ 01 của TNHS là người phạm tội 
đó ra còn có thêm loại chủ thể thứ 02 nữa - 
pháp nhân thương mại (PNTM) (nếu cơ quan 
tiến hành tố tụng chứng minh được có sự 
liên đới của PNTM đó trong thiệt hại đã xảy 
ra bởi hành vi khách quan mà cá nhân đã 
thực hiện. Nói một cách khác, ở đây hoàn 
toàn đúng đắn như 01 trong vài nhà hình 
sự học hàng đầu của Việt Nam đương đại, 
gS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa đã khẳng định: 
“Pháp nhân thương mại không thể là chủ thể 
của thực hiện tội phạm mà chỉ có thể là chủ thể 
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do cá 
nhân (người) thực hiện. Do vậy, chỉ có thể có 
pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm 
hình sự mà không có pháp nhân thương mại 
phạm tội theo đúng nghĩa”11 . 
II. Nội hàm của từng đặc điểm (dấu 
hiệu) của tội phạm
Như vậy, ngoài việc phân tích bản chất 
xã hội - pháp lý ra, để góp phần làm sáng tỏ 
một cách sâu sắc hơn nữa về mặt lý luận 
khái niệm tội phạm trong khoa học luật 
hình sự, thì dưới đây chúng ta cũng cần 
phải lần lượt xem xét những nét chủ yếu 
của 05 đặc điểm nêu trên của tội phạm mà 
thông qua đó có thể nhận thấy nội hàm của 
từng đặc điểm. 
1. Nội hàm của đặc điểm thứ nhất - tội 
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (hay 
còn gọi là «tính nguy hiểm cho xã hội» của tội 
11 GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên). Bình luận 
khoa học Bộ luật hình sự năm 2015. Được sửa đổi, 
bổ sung năm 2017 (Phần chung). NXB Tư pháp. 
Hà Nội, 2017, tr.17-18. 
6Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt nam hiện hành... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
phạm) - có những nét chủ yếu như sau: 
1.1. Đây là đặc điểm khách quan mà nhà 
làm luật chính thức ghi nhận trong định 
nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm theo 
PLHS Việt Nam (khoản 1 Điều 8 của cả 03 
BLHS các năm 1985, 1999, 2015). Vì bất kỳ 
một tội phạm nào đều là hành vi nguy hiểm 
cho xã hội, nên tính nguy hiểm cho xã hội 
phản ánh nội dung xã hội (vật chất) của tội 
phạm mà không hề phụ thuộc vào ý chí chủ 
quan của nhà làm luật. Việc nhận thức rõ 
điều này cho phép lý giải rằng: tại sao cùng 
một hành vi nhưng trong nhà nước này thì 
nó bị tuyên bố là tội phạm, còn trong nhà 
nước kia - chỉ bị coi là vi phạm pháp luật 
(VPPL) hành chính hoặc pháp luật dân sự, 
và trong nhà nước thứ ba - chỉ là vi phạm kỷ 
luật hoặc đạo đức. Nói một cách khác, đây 
là đặc điểm thể hiện bản chất xã hội và thuộc 
tính khách quan của tội phạm.
1.2. Khi một hành vi nguy hiểm cho 
xã hội gây nên (hoặc có khả năng thực tế 
gây nên) thiệt hại đáng kể cho các lợi ích 
của con người, của xã hội và của Nhà nước 
với tính chất là các khách thể được bảo vệ 
bằng PLHS, thì hành vi đó bị LHS cấm - 
bị nhà làm luật tội phạm hóa, vì nếu như 
xét về toàn bộ bản chất bên trong thì hành 
vi đó mâu thuẫn với những điều kiện tồn 
tại bình thường của xã hội. Như vậy, trong 
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền 
(NNPQ) ở Việt Nam hiện nay, tính nguy 
hiểm cho xã hội của các hành vi khách quan 
là tiêu chí cơ bản để nhà làm luật tiến hành 
phân chia chúng thành các loại khác nhau - 
tội phạm, VPPL hành chính, VPPL dân sự, 
VPPL lao động, v.v...
1.3. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội 
phạm có sự thể hiện về chất và về lượng, 
mà cụ thể là: a) tính chất nguy hiểm cho xã 
hội - sự thể hiện về chất và là đại lượng để 
so sánh tính nguy hiểm cho xã hội của các 
nhóm tội phạm khác nhau về khách thể loại, 
thông thường nó được xác định bằng ý 
nghĩa và tầm quan trọng của các nhóm khách 
thể (loại) tương ứng bị tội phạm xâm hại 
và; b) mức độ nguy hiểm cho xã hội - sự thể 
hiện về lượng và là đại lượng để so sánh 
tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm 
cụ thể cùng khách thể loại, thông thường nó 
được xác định bằng thiệt hại do chính mỗi 
tội phạm tương ứng được thực hiện gây 
nên hoặc có thể gây nên.
1.4. Khi xác định tính nguy hiểm cho 
xã hội như là đặc điểm khách quan của tội 
phạm cần phải chú ý là: 1) hành vi bị coi 
là nguy hiểm cho xã hội dưới góc độ luật 
hình sự nhất thiết phải là hành vi gây nên 
(hoặc có khả năng thực tế gây nên) thiệt hại 
đáng kể cho các quan hệ xã hội được bảo vệ 
bằng PLHS; 2) tuy nhiên, có loại hành vi bị 
luật hình sự cấm trở thành nguy hiểm cho 
xã hội ngay từ thời điểm thực hiện (bằng hành 
động hoặc không hành động) mà không cần 
kéo theo hậu quả nguy hại xảy ra và thông 
thường đây là tội phạm có cấu thành hình 
thức; 3) nhưng cũng có loại hành vi bị luật 
hình sự cấm trở thành nguy hiểm cho xã 
hội chỉ khi nào hậu quả nguy hại được quy 
định trong luật xảy ra và thông thường đây 
là tội phạm có cấu thành vật chất.
2. Nội hàm của đặc điểm thứ hai - tội 
phạm là hành vi do PlHS quy định (hay 
còn gọi là hành vi «bị PLHS cấm» hoặc «tính 
trái PLHS» của tội phạm) - có những nét chủ 
yếu sau: 
2.1. Đây chính là đặc điểm pháp lý (hình 
thức) của tội phạm được ghi nhận chính 
thức trong ĐNPL của khái niệm tội phạm 
theo PLHS Việt Nam (khoản 1 Điều 8 BLHS 
của cả 03 BLHS các năm 1985, 1999 và 2015). 
gọi là đặc điểm pháp lý là vì nó phản ánh 
trực tiếp nội dung của nguyên tắc được thừa 
nhận chung quan trọng nhất của PLHS quốc 
tế và PLHS trong NNPQ - nguyên tắc pháp 
chế - trong việc tội phạm hóa những hành vi 
nguy hiểm cho xã hội. Hơn nữa, dưới góc 
độ NNPQ thì tính do quy định tro ... ắc tương ứng khác 
(như: pháp luật dân sự, pháp luật lao động 
hoặc pháp luật hành chính, v.v...) vẫn không 
thể ngăn chặn được, nên đã đến mức phải 
áp dụng chế tài (biện pháp tác động về mặt 
pháp lý) của một ngành luật khác nghiêm 
khắc hơn chúng - PLHS.
2.3. Nội dung đặc điểm thứ 02 này của 
tội phạm được thể hiện trong việc: nhà làm 
luật khi quy định điều cấm trong Phần riêng 
BLHS (tội phạm) bao giờ cũng quy định 
chế tài pháp lý cụ thể tương ứng đối với việc 
vi phạm điều cấm đó (hình phạt) và ngoài 
hình phạt ra, thì trong Phần chung BLHS 
còn quy định cả các biện pháp cưỡng chế 
về hình sự khác nữa. Có nghĩa là, tính trái 
PLHS của một tội phạm bao giờ cũng bao 
gồm cả tính phải chịu hình phạt của nó (mà 
chính xác hơn phải gọi là “tính bị đe dọa áp 
dụng hình phạt”, “tính cần phải bị áp dụng 
hình phạt” hoặc “tính phải bị xử lý về hình 
sự ”). Hơn nữa, việc nghiên cứu thực tiễn 
áp dụng PLHS từ sau khi PLHS đã được 
pháp điển hóa đến nay cho thấy một thực 
tế là: không phải tất cả những người phạm tội 
bị Tòa án xét xử là đều bị áp dụng một biện 
pháp cưỡng chế hình sự duy nhất - hình phạt. 
2.4. Chính vì vậy, mặc dù hiện nay trong 
sách báo pháp lý hình sự Việt Nam có quan 
điểm truyền thống coi “tính phải chịu hình 
phạt” như là một trong các dấu hiệu cơ bản và 
bắt buộc của tội phạm, nhưng suy cho cùng, 
xuất phát từ một số các nguyên tắc tiến bộ 
của PLHS (nhân đạo, pháp chế, cá thể hóa 
và phân hóa TNHS), chúng tôi cho rằng: 
không thể coi tính phải chịu hình phạt như là 
một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, bắt buộc và 
độc lập của tội phạm được bởi các lý do xác 
đáng như sau: 
1) Một là, về mặt lập pháp, trong PLHS 
nước ta (từ BLHS năm 1985 trước đây, qua 
BLHS năm 1999 và đến nay là BLHS năm 
2015 hiện hành), nhà làm luật quy định 
nhiều biện pháp xử lý về hình sự khác nhau - 
không chỉ có các loại hình phạt, vì nhà làm 
luật Việt Nam còn quy định cả các biện pháp 
cưỡng chế về hình sự khác nữa mà không đưa 
đến hậu quả pháp lý giống hình phạt (án tích). 
Đó là các biện pháp tư pháp (BPTP) được 
quy định trong BLHS năm 2015 hiện hành 
như: tịch thu vật, tiền bạc trực tiếp liên 
quan đến tội phạm (Điều 47); trả lại tài sản, 
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc 
công khai xin lỗi (Điều 48); v.v - được áp 
dụng đối với người đã thành niên bị kết án 
(các điều 46, 48 BLHS năm 2015; cũng như 
các BPTP riêng được áp dụng chỉ đối với 
người chưa thành niên (NCTN) bị kết án 
được quy định tại như: hòa giải tại cộng 
đồng (Điều 94); giáo dục tại xã, phường, 
thị trấn (Điều 95); giáo dục tại trường giáo 
dưỡng (Điều 96); v.v...;
2) Hai là, về mặt lý luận, hình phạt 
không phải là dạng duy nhất của TNHS và 
cũng không phải là hình thức duy nhất thực 
hiện TNHS, vì ngoài hình phạt ra còn có các 
dạng (hình thức) TNHS khác và các hình 
thức thực hiện TNHS khác cũng được áp 
dụng trong thực tiễn12;
3) Và ba là, về mặt thực tiễn, khi có đầy 
đủ các căn cứ do BLHS (hoặc Bộ luật tố tụng 
12 Xem cụ thể hơn: Lê Cảm. Các nghiên cứu chuyên 
khảo về Phần chung luật hình sự (Tập iii). NXB 
Công an nhân dân. Hà Nội, 2000, tr.58-59.
8Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt nam hiện hành... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
hình sự) quy định, thì rõ ràng là hình phạt 
trên thực tế vẫn không được Tòa án áp dụng đối 
với người phạm tội trong một loạt những 
trường hợp do luật định. 
3. Nội hàm của đặc điểm thứ ba - tội 
phạm là hành vi được thực hiện một cách 
có lỗi (hay còn gọi là «tính chất lỗi» của tội 
phạm) - có những nét chủ yếu như sau: 
3.1. Đây là đặc điểm chủ quan của tội 
phạm được ghi nhận chính thức trong định 
nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm theo 
PLHS Việt Nam hiện hành (khoản 1 Điều 8 
BLHS). Tuy nhiên, vì tội phạm bao giờ cũng 
là hành vi khách quan bị luật hình sự cấm, 
nên để đảm bảo sự chặt chẽ về mặt lôgic 
pháp lý và tính chính xác về mặt khoa học, 
chúng ta không thể nói: nó (tội phạm) là 
hành vi “có lỗi”, vì lỗi là thái độ tâm lý của 
người phạm tội thể hiện dưới hình thức cố ý 
hoặc vô ý - một phạm trù chủ quan. Trong 
khi đó hành vi khách quan bị luật hình sự 
cấm không phải và không thể là con người 
phạm tội và chính vì vậy, nó (hành vi) không 
thể có lỗi - có thái độ tâm lý chủ quan (lý trí, 
ý chí, suy nghĩ, dự định, tính toán, mong 
muốn, v.v...) của một con người được, nên 
nhất thiết tự bản thân hành vi cũng không 
thể “có lỗi” được (!). Ví dụ, thông thường 
người ta chỉ hỏi rằng: “Ai là người (chứ 
không hỏi “Cái gì”) có lỗi trong việc thực 
hiện tội phạm” (?) và lẽ đương nhiên, câu 
trả lời sẽ là: “Anh a (hoặc chị B) là người có 
lỗi”, chứ không bao giờ lại trả lời là: “Lỗi 
của tội phạm” hoặc “Tội phạm có lỗi” cả (!).
3.2. Như vậy, việc phân biệt rõ sự khác 
nhau giữa hai phạm trù “tính chất lỗi” và 
“lỗi” khi nghiên cứu khái niệm tội phạm là 
vấn đề quan trọng và cần thiết, vì nó cho 
phép khẳng định một cách rõ ràng và dứt 
khoát ý nghĩa nhận thức lý luận thống nhất 
và đúng đắn ở chỗ: a) Cùng với 02 đặc điểm 
đã phân tích trên đây - tính nguy hiểm cho 
xã hội và tính trái PLHS, tính chất lỗi (chứ 
không phải là lỗi) của hành vi là đặc điểm 
cơ bản thứ ba của tội phạm; b) Khi có sự 
kiện tội phạm được thực hiện một cách có lỗi, 
thì tính chất lỗi là phạm trù liên quan đến 
hành vi, còn lỗi lại là phạm trù liên quan đến 
người phạm tội - người có thái độ tâm lý đối 
với hành vi phạm tội do mình thực hiện và 
đối với hậu quả của hành vi ấy được thể 
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. 
3.3. Mối quan hệ biện chứng về mặt triết 
học giữa tội phạm và tính chất lỗi (hoặc tính 
chất không có lỗi) của tội phạm được diễn 
ra theo một trình tự có tính lôgic chặt chẽ 
trong 02 trường hợp như sau: 
1) Khi hành vi khách quan nguy hiểm cho 
xã hội bị LHS cấm được con người thực 
hiện một cách có lỗi dưới hình thức cố ý 
hay vô ý - tác động đến bằng hành động 
(hoặc không hành động) thông qua yếu tố 
chủ quan (lỗi), thì hành vi đó mang tính chất 
lỗi - trở thành hành vi phạm tội và chính 
vì vậy, dẫn đến hậu quả pháp lý - người có 
lỗi trong việc thực hiện tội phạm phải chịu 
TNHS theo quy định của PLHS; 
2) Còn ngược lại, nếu như hành vi nguy 
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm tuy được 
thực hiện trong thực tế khách quan, nhưng 
người thực hiện hành vi đó lại không có lỗi 
- đã tác động đến hành vi bằng hành động 
(hoặc không hành động) do sự kiện bất ngờ 
chứ không phải do ý chí chủ quan của người 
ấy (tức là người ấy không cố ý hoặc không 
vô ý thực hiện), thì hành vi đó mang tính 
chất không có lỗi - không thể bị coi là hành 
vi phạm tội và chính vì vậy, người không có 
lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, thì không 
phải chịu TNHS theo quy định của PLHS. 
4. Nội hàm của đặc điểm thứ tư - tội 
phạm là hành vi do người có năng lực 
TNHS thực hiện (hay còn gọi là “được thực 
hiện bởi người có năng lực TNHS”) - có những 
nét chủ yếu như sau: 
4.1. Mặc dù đây là một trong 03 đặc 
điểm thuộc bình diện chủ quan của tội 
phạm và về mặt lập pháp được quy định 
trong ĐNPL của khái niệm tội phạm theo 
PLHS Việt Nam (khoản 1 Điều 8 BLHS năm 
2015), nhưng khái niệm “người có năng lực 
9Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Lê Cảm
TNHS ” là người như thế nào (?) - phải có 
những tiêu chí (đòi hỏi) gì (?), thì vẫn chưa 
có sự ghi nhận chính thức trong luật. Vì 
vậy, dưới góc độ khoa học LHS có thể hiểu: 
Người có năng lực TNHS là người mà tại thời 
điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị 
luật hình sự cấm ở trong trạng thái bình thường 
và hoàn toàn có khả năng nhận thức được đầy 
đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của 
hành vi do mình thực hiện, cũng như khả năng 
điều khiển được đầy đủ hành vi đó13. 
4.2. Như vậy, phân tích khái niệm này 
chúng ta có thể nhận thấy, năng lực TNHS 
có mối liên quan chặt chẽ trực tiếp với lỗi ở 
chỗ - có năng lực TNHS là cơ sở cần và đủ để 
có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Vì để 
coi một người là có lỗi trong việc thực hiện 
tội phạm - có thái độ tâm lý đối với hành vi 
bị luật hình sự cấm do mình thực hiện và 
đối với hậu quả của hành vi đó được thể 
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, thì chủ 
thể của hành vi đó (tội phạm) nhất thiết 
phải là người có năng lực TNHS, tức là người 
mà tại thời điểm thực hiện tội phạm có đầy 
đủ hai tiêu chí cơ bản và bắt buộc như sau: 
a) Tiêu chí y học - trạng thái bình thường 
(không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác 
làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức 
được hoặc khả năng điều khiển được hành 
vi của mình) và; b) Tiêu chí tâm lý (pháp lý) 
- có khả năng nhận thức được đầy đủ tính 
nguy hiểm cho xã hội và tính chất trái PLHS 
của hành vi do mình thực hiện (về lý trí), 
cũng như khả năng điều khiển được đầy đủ 
hành vi đó (về ý chí).
4.3. Do vậy, hành vi nguy hiểm cho xã 
hội bị luật hình sự cấm chỉ có tính chất lỗi - 
khi chủ thể của hành vi đó tại thời điểm thực 
hiện nó (hành vi) là người có năng lực TNHS. 
Và ngược lại, hành vi nguy hiểm cho xã hội 
bị luật hình sự cấm không có tính chất lỗi và 
13 Xem thêm: Lê Cảm. Hoàn thiện pháp luật hình sự 
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp 
quyền (Một số vấn đề cơ bản của Phần chung). 
NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 1999, tr.77-78.
vì thế, cũng không phải là tội phạm - khi chủ 
thể của hành vi đó tại thời điểm thực hiện nó 
(hành vi) là người không có năng lực TNHS 
(ví dụ: người đang bị bệnh tâm thần hoặc 
là người có nhược điểm nào đó về thể chất 
hoặc tinh thần mà hoàn toàn không có khả 
năng nhận thức được đầy đủ hoặc khả năng 
điều khiển được đầy đủ hành vi của mình). 
5. Và cuối cùng, nội hàm của đặc điểm 
thứ năm - tội phạm là hành vi do người đủ 
tuổi chịu TNHS thực hiện (hay còn gọi là 
“được thực hiện bởi người có năng lực TNHS”) 
- có những nét chủ yếu như sau: 
5.1. Mặc dù đây cũng là 01 trong 03 
đặc điểm thuộc bình diện chủ quan của tội 
phạm, nhưng rất tiếc là nó vẫn chưa được 
chính thức ghi nhận trong định nghĩa pháp lý 
(ĐNPL) của khái niệm tội phạm theo PLHS 
Việt Nam trong hơn 03 thập kỷ qua (khoản 
1 Điều 8 của cả 03 BLHS các năm 1985, 1999 
và cả 2015). Đồng thời, cho đến nay khái 
niệm “người đủ tuổi chịu TNHS” là người 
như thế nào (?) - phải có những tiêu chí (đòi 
hỏi) gì (?), cũng vẫn chưa được làm sáng tỏ 
về mặt lý luận. Vì vậy, dưới góc độ khoa học 
LHS có thể hiểu: Người đủ tuổi chịu TNHS 
là người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến 
độ tuổi do luật hình sự quy định để có thể có 
khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực 
tế (tính chất nguy hiểm cho xã hội) và tính 
chất pháp lý (tính chất trái PLHS) của hành vi 
do mình thực hiện, cũng như có khả năng điều 
khiển được đầy đủ hành vi đó. 
5.2. Như vậy, phân tích khái niệm này 
chúng ta có thể nhận thấy, tuổi chịu TNHS có 
mối liên quan trực tiếp với năng lực TNHS 
và gián tiếp với lỗi rất chặt chẽ ở chỗ - khi đủ 
tuổi chịu TNHS theo luật định, thì đó chính 
là một trong những cơ sở cần thiết để có thể 
có (chứ không nhất thiết là sẽ có) năng lực 
TNHS. Vì thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy, 
vẫn có những người tuy đủ tuổi chịu TNHS 
- xét về mặt tâm lý (tiêu chí thứ hai của năng 
lực TNHS), thì với độ tuổi được quy định 
trong PLHS họ có thể có khả năng nhận thức 
được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội và 
10
Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt nam hiện hành... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
tính chất trái PLHS của hành vi do mình 
thực hiện (về lý trí), cũng như điều khiển được 
đầy đủ hành vi đó (về ý chí), nhưng điều “có 
thể” ấy trong thực tế đã không tồn tại, vì 
thực sự là họ không có năng lực TNHS - xét 
về mặt y học (tiêu chí thứ nhất của năng lực 
TNHS), họ lại ở trong trạng thái không bình 
thường (bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh 
lý khác đến mức hoàn toàn không thể nhận 
thức được và điều khiển được hành vi của 
mình). Từ đây, chúng ta có thể khẳng định 
một cách có căn cứ và đảm bảo sức thuyết 
phục rằng, chỉ khi nào có năng lực TNHS 
với sự đầy đủ hai tiêu chí đã nêu của nó (y 
học - liên quan đến bệnh tâm thần và, tâm lý 
- liên quan đến độ tuổi chịu TNHS), thì mới 
là cơ sở cần và đủ để có lỗi trong việc thực 
hiện tội phạm.
5.3. Do vậy, hành vi nguy hiểm cho xã 
hội bị LHS cấm có tính chất lỗi và vì thế, 
là tội phạm - khi chủ thể của hành vi đó tại 
thời điểm thực hiện nó (hành vi) là người 
không những chỉ có năng lực TNHS, mà 
còn phải đủ tuổi chịu TNHS theo luật định. 
Ngược lại, hành vi nguy hiểm cho xã hội 
bị luật hình sự cấm không phải là tội phạm 
- khi chủ thể của hành vi đó tại thời điểm 
thực hiện nó (hành vi) là người chưa đủ tuổi 
chịu TNHS, hoặc là người không có năng lực 
TNHS (như đã xem xét ở trên). 
6. Vấn đề chủ thể của tội phạm (Hay là 
cần phải thừa nhận nguyên tắc quy tội khách 
quan đối với pháp nhân). 
Từ 03 đặc điểm (dấu hiệu) đã được 
phân tích tại các tiết cuối cùng (3. đến 5.) trên 
đây đã cho phép khẳng định rằng các luận 
điểm khoa học hoàn toàn xác đáng và bảo đảm 
sức thuyết phục liên quan đến vấn đề chủ thể 
phạm tội như sau: 
6.1. Theo PLHS Việt Nam hiện hành 
(mặc dù đã ghi nhận về mặt lập pháp TNHS 
của PNTM trong BLHS năm 2015) nói riêng 
và PLHS của bất kỳ quốc gia nào nói chung 
thì chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân, 
tức chỉ có thể là con người cụ thể. Tại sao 
vậy (?), bởi vì:
6.2. Chỉ có cá nhân (thực thể sinh học) 
và là con người cụ thể thì mới có bộ não để 
suy nghĩ, tính toán và có tay, chân khi thực 
hiện hành vi phạm tội (bằng hành động hoặc 
không hành động) và tiếp theo theo logic này.
6.3. Mà pháp nhân nói chung (như cơ 
quan, tổ chức, doanh nghiệp) và PNTM nói 
riêng (như doanh nghiệp, tập đoàn, công ty) 
theo PLHS Việt Nam là do con người lập ra 
và mặc dù là sự liên kết lại của nhiều cá nhân 
trong 01 tổ chức (như công ty, doanh nghiệp, 
v.v... có đăng ký kinh doanh và có ban lãnh 
đạo) thì sự “trừu tượng về mặt pháp lý” như 
vậy đương nhiên là không thể có bộ não để suy 
nghĩ, tính toán và có tay, chân khi thực hiện 
hành vi phạm tội (bằng hành động hoặc 
không hành động) được (!!!).
6.4. Hơn nữa, mệnh đề “hành vi phạm tội 
được thực hiện nhân danh pháp nhân thương 
mại” (khoản a Điều 75 BLHS năm 2015) tự nó 
đã nói lên tất cả là: tội phạm ấy nhất thiết phải 
do 01 chủ thể thứ 2 khác nào đó thực hiện thì 
mới có thể “nhân danh PNTM” để thực hiện 
(chứ không thể có việc PNTM lại tự nhân 
danh chính mình được) và phạm trù này 
cũng chính là sự khẳng định gián tiếp rằng, 
chủ thể thứ 02 đã phạm tội đó chính là cá 
nhân (con người) cụ thể nên mới có thể nhân 
danh PNTM, chứ không thể là pháp nhân 
thứ hai nào khác đã nhân danh pháp nhân 
thứ nhất phạm tội được. Vì đã là pháp nhân 
thì ngoài việc không có bộ não để suy nghĩ 
cũng không có chân tay để có thể thực hiện 
hành vi được (chẳng hạn như: cầm vô lăng 
lái xe đổ chất thải xuống sông, cầm dao chặt 
cây rừng hay cầm súng bắn người, v.v...).
6.5. Và chính vì vậy, nếu căn cứ vào Điều 
75 BLHS năm 2015 thì chủ thể thứ nhất 
(PNTM) dù không trực tiếp thực hiện tội 
phạm nhưng vẫn phải liên đới chịu TNHS cùng 
với chủ thể thứ hai (người phạm tội) vì đã để 
cho người này (với đầy đủ 03 điều kiện khác 
nữa nêu tại các điểm từ “b” đến “d” khoản 1 
Điều 75 BLHS năm 2015) phạm tội (!!!). 
(Còn tiếp)

File đính kèm:

  • pdfkhai_niem_toi_pham_theo_luat_hinh_su_viet_nam_hien_hanh_va_d.pdf