Khái niệm, tiêu chuẩn kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn áp dụng

Trên cơ sở quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về khái niệm

và một số tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên và thực tiễn áp dụng, bài viết

chỉ ra một số bất cập và nhận thức chưa thống nhất trong áp dụng pháp luật,

từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

Kiểm sát viên.

Từ khóa: Kiểm sát viên, thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp, tiêu chuẩn, thời gian công tác pháp luật.

pdf 7 trang kimcuc 7380
Bạn đang xem tài liệu "Khái niệm, tiêu chuẩn kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn áp dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khái niệm, tiêu chuẩn kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn áp dụng

Khái niệm, tiêu chuẩn kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn áp dụng
62
KHÁI NIỆM, TIÊU CHUẨN KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
1. Đặt vấn đề
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức 
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định 
cụ thể nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân 
dân. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, 
Viện kiểm sát thông qua đội ngũ cán bộ, 
công chức mà chủ yếu là đội ngũ Kiểm sát 
viên. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 
là một chức danh tư pháp giữ vị trí trung 
tâm trong hoạt động của Viện kiểm sát. Tuy 
nhiên, quy định pháp luật và thực tiễn thi 
hành cho thấy xung quanh khái niệm Kiểm 
sát viên; một số tiêu chuẩn Kiểm sát viên 
vẫn chưa được nhận thức và áp dụng thống 
nhất cần có giải pháp nhằm hoàn thiện quy 
định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm 
sát nhân dân.
2. Khái niệm “Kiểm sát viên”
Kiểm sát viên - một chức danh tư pháp 
quan trọng trong ngành Kiểm sát nhân dân. 
Tuy nhiên, khi bàn về khái niệm này vẫn 
còn nhiều quan điểm khác nhau:
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam do 
Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa phát hành 
năm 2002, định nghĩa Kiểm sát viên là “cán 
bộ của cơ quan kiểm sát được bổ nhiệm 
theo quy định của pháp luật, có thẩm quyền 
và nghĩa vụ luật định thực hiện chức năng 
kiểm tra, giám sát việc chấp hành triệt để 
và nghiêm minh pháp luật của cơ quan nhà 
nước, tổ chức xã hội và công dân, đảm bảo 
pháp chế”1.
Theo định nghĩa trên có thể thấy Kiểm 
sát viên được xác định là cán bộ của cơ quan 
kiểm sát - những công chức công tác trong 
cơ quan của ngành Kiểm sát chứ không 
phải là cán bộ theo quy định của Luật cán 
bộ công chức. Công chức công tác trong cơ 
quan Kiểm sát chỉ trở thành và giữ chức 
danh Kiểm sát viên khi được bổ nhiệm 
theo đúng trình tự luật định. Đồng thời Từ 
điển Bách khoa Việt Nam cũng cho rằng 
Kiểm sát viên có chức năng kiểm tra, giám 
1 Xem, Từ điển Bách khoa Việt Nam 2 (2000), Nxb 
Từ điển Bách khoa, Hà Nội, trang 563.
KHÁI NIỆM, TIÊU CHUẨN KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN - 
TỪ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐẾN THỰC TIỄN ÁP DỤNG
DƯƠNG ĐÌNH CÔNG*
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại học 
Kiểm sát Hà Nội
Trên cơ sở quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về khái niệm 
và một số tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên và thực tiễn áp dụng, bài viết 
chỉ ra một số bất cập và nhận thức chưa thống nhất trong áp dụng pháp luật, 
từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về 
Kiểm sát viên.
Từ khóa: Kiểm sát viên, thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư 
pháp, tiêu chuẩn, thời gian công tác pháp luật.
Based on regulations of Law on Organization of People’s Procuracies on 
definition, criteria for appointment of Procurators and applied practice, the 
paper sheds light on several inadequacies and inconsistent perceptions in 
legal application. Hence, some recomendations and suggestions to perfect 
legal provisions on Prosecutors are pointed out.
Keywords: Prosecutors, exercising the power to prosecute, supervising 
judicial activities, criteria, legal working time.
63Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
DƯƠNG ĐÌNH CÔNG
sát việc chấp hành pháp luật của cơ quan 
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân một 
cách triệt để, nghiêm minh, đảm bảo pháp 
luật được chấp hành thống nhất. Việc thực 
hiện chức năng của Kiểm sát viên hướng 
đến mục đích đảm bảo quy định pháp luật 
do Nhà nước ban hành phải được tuân thủ 
triệt để, nghiêm minh và đảm bảo pháp chế. 
Như vậy, trong định nghĩa này chủ yếu đề 
cập đến chức năng kiểm sát việc chấp hành 
pháp luật mà không đề cập đến chức năng 
công tố của Kiểm sát viên. 
Theo Từ điển Luật học của Bộ Tư pháp 
do Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 
2006, định nghĩa Kiểm sát viên là người 
“được bổ nhiệm theo quy định của pháp 
luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công 
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”2. Theo 
định nghĩa này đã có sự khái quát cao hơn 
về chức danh Kiểm sát viên. Tất cả những 
người được bổ nhiệm theo đúng quy định 
pháp luật và thực hiện nhiệm vụ thực hành 
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư 
pháp đều được gọi là Kiểm sát viên. 
Thuật ngữ “Kiểm sát viên” đôi khi còn 
được sử dụng với tên gọi khác là “Công tố 
viên” hay “Ủy viên Công tố”. Ở các quốc 
gia không theo truyền thống pháp luật 
Xã hội chủ nghĩa trước đây đều sử dụng 
thuật ngữ “Công tố viên” (tiếng Anh là 
Prosecutor) để chỉ những con người làm 
việc trong cơ quan Viện Công tố với hoạt 
động chủ yếu là buộc tội những người 
thực hiện hành vi phạm tội theo luật hình 
sự quốc gia. Ở Hoa Kỳ và một số tiểu 
bang, thuật ngữ “Prosecutor” còn có tên 
gọi khác là “attorney” dùng để chỉ một 
viên chức công quyền trong một địa hạt 
tư pháp được chỉ định để tiến hành tố 
tụng hình sự (theo đuổi vụ kiện chống lại 
2 Xem thêm, Bộ tư pháp, Từ điển Luật học (2006), 
NXB Tư pháp, Hà Nội, trang 443.
bị cáo) nhân danh nhà nước và nhân dân3. 
Ở Cộng hòa Pháp trong hệ thống Tòa án 
tồn tại cơ quan “Công tố viện”. Ở lĩnh vực 
dân sự các Công tố viên giữ một nhiệm 
vụ quan trọng mặc dù có thể tùy theo tính 
chất của vụ việc để xác định Công tố viên 
giữ vai trò chính yếu hay là thứ yếu. Trong 
lĩnh vực hình sự, Công tố viên giữ vị trí 
đặc biệt quan trọng. Từ điển Luật học của 
Bộ Tư pháp định nghĩa Công tố viên dùng 
để chỉ một “viên chức nhà nước có chức 
năng làm nhiệm vụ nhân danh Nhà nước 
buộc tội bị cáo trong phiên tòa hình sự”. 
Như vậy, từ định nghĩa trên cho thấy khi 
sử dụng thuật ngữ “Công tố viên” thường 
chủ yếu đề cập đến vai trò công tố của 
những viên chức công quyền này. 
Trong pháp luật Việt Nam, quy định về 
Kiểm sát viên được ghi nhận lần đầu tiên 
trong Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức 
Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Hiến 
pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm 
sát nhân dân năm 1960 quy định Viện kiểm 
sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức 
năng giám sát việc tuân thủ pháp luật trong 
tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước 
(trừ hoạt động lập pháp của Quốc hội và 
hoạt động hành pháp của Chính phủ) và 
thực hành quyền công tố. Mô hình này tiếp 
tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 
1980, năm 1992. Hiến pháp năm 1992 (được 
sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thu hẹp 
phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát, Viện 
kiểm sát thôi không thực hiện chức năng 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong 
các lĩnh vực hành chính - kinh tế - xã hội, 
3 Nguyên bản tiếng Anh: “prosecuting attorney (n): 
(Law) law US (in some states) an officer in a judicial 
district appointed to conduct criminal prosecutions 
on behalf of the state and people” và “A public 
officer empowered to pursue cases against criminal 
defendants. Also called prosecution, prosecutor, 
public prosecutor.” tại trang website: https://www.
thefreedictionary.com/prosecuting+attorney tham 
khảo ngày 24/11/2018.
64
KHÁI NIỆM, TIÊU CHUẨN KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
tập trung thực hiện chức năng thực hành 
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư 
pháp4. Hiến pháp năm 2013 quy định Viện 
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công 
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. 
Trên cơ sở pháp điển hóa Điều 42 và 
Điều 44 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân 
dân năm 2002; Điều 1 và Điều 4 Pháp lệnh 
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 
2002; Điều 44 Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm 
sát quân sự năm 2002, Điều 74, Luật Tổ chức 
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định 
“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy 
định của pháp luật để thực hiện chức năng thực 
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. 
Từ quan niệm và quy định pháp luật 
về Kiểm sát viên trên đây có thể hiểu: Kiểm 
sát viên là một chức danh tư pháp được bổ 
nhiệm theo quy định pháp luật để thực hiện 
chức năng thực hành quyền cống tố, kiểm 
sát hoạt động tư pháp.
Từ khái niệm về Kiểm sát viên, cần lưu 
ý các nội dung sau:
Thứ nhất, Kiểm sát viên là công chức 
ngành Kiểm sát. Trong hệ thống cơ cấu, tổ 
chức của ngành Kiểm sát bao gồm cán bộ, 
công chức, viên chức và người lao động 
khác. Kiểm sát viên là công dân Việt Nam, 
được tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch và 
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 
Kiểm sát viên có thể đồng thời giữ chức vụ 
hoặc không giữ chức vụ5. Trong các điều 
kiện để được bổ nhiệm giữ chức danh Kiểm 
sát viên không quy định về điều kiện công 
chức như chức danh Kiểm tra viên nhưng 
cần khẳng định rằng để giữ chức danh này 
thì bắt buộc người đó phải là công chức 
4 Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách 
tư pháp, tại website 
khoa-hoc/chi-tiet/79/87
5 Xem thêm, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 
Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính 
trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2014, trang 117.
trong Ngành.
Thứ hai, Kiểm sát viên là một chức danh 
tư pháp và được sắp xếp theo ngạch. Trong 
hệ thống cơ quan tư pháp ở Việt Nam, ở 
mỗi cơ quan khác nhau lại có các chức danh 
tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của cơ 
quan đó6. Kiểm sát viên là một chức danh tư 
pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân bên 
cạnh Viện trưởng, Phó Viện trưởng; Thủ 
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và 
Điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân. 
Kiểm sát viên được sắp xếp theo các 
ngạch khác nhau, bao gồm: Kiểm sát viên 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát 
viên cao cấp; Kiểm sát viên trung cấp; Kiểm 
sát viên sơ cấp. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối 
cao có thể được bố trí bốn ngạch Kiểm sát 
viên; ở Viện kiểm sát quân sự trung ương 
có Viện trưởng là Kiểm sát viên Viện kiểm 
sát nhân dân tối cao và có thể được bố trí các 
ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ 
cấp; các Viện kiểm sát khác có thể được bố 
trí các ngạch từ cao cấp trở xuống.
 Trước khi ban hành Luật Tổ chức Viện 
kiểm sát nhân dân năm 2014, ngạch Kiểm 
sát viên Viện kiểm sát nhân dân ở nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm 
có: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 
tối cao; Kiểm sát viên trung cấp; Kiểm sát 
viên sơ cấp. Kiểm sát viên Viện kiểm sát 
quân sự các cấp bao gồm Kiểm sát viên Viện 
kiểm sát quân sự Trung ương đồng thời là 
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối 
cao, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên 
sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự. Quy định 
này cho thấy còn nhiều tồn tại, bất cập trong 
quá trình thực hiện. Do đó, quy định của 
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 
2014 về ngạch Kiểm sát viên có rất nhiều ý 
6 Ví dụ, Người giữ chức danh tư pháp trong Tòa 
án nhân dân bao gồm: Chánh án, Phó Chánh án, 
Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án.
65Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
DƯƠNG ĐÌNH CÔNG
nghĩa7: Một là, phù hợp với tính chất nhiệm 
vụ của từng cấp Viện kiểm sát. Theo quy 
định của pháp luật về tố tụng hình sự, dân 
sự, hành chính hiện hành cũng như thực 
tiễn thực hiện nhiệm vụ, Viện kiểm sát cấp 
trên luôn phải thực hiện các nhiệm vụ phức 
tạp hơn Viện kiểm sát cấp dưới hoặc kiểm 
tra, hướng dẫn công việc của Viện kiểm sát 
cấp dưới. Vì vậy, việc phân định các ngạch 
Kiểm sát viên như trên sẽ bảo đảm phân hóa 
đội ngũ Kiểm sát viên về năng lực, trình độ 
chuyên môn, có thể bố trí đội ngũ Kiểm sát 
viên ở Viện kiểm sát cấp trên có trình độ, 
kinh nghiệm cao hơn đội ngũ Kiểm sát viên 
ở Viện kiểm sát cấp dưới, vừa bảo đảm thực 
hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát cấp mình, 
vừa bảo đảm khả năng hướng dẫn nghiệp 
vụ cho Viện kiểm sát cấp dưới. Hai là, bảo 
đảm cho việc điều động, luân chuyển Kiểm 
sát viên giữa các cấp kiểm sát được thông 
suốt; tạo cơ sở pháp lý thuận lợi, bảo đảm 
tính liên tục trong việc giải quyết án của 
Kiểm sát viên ngay từ đầu đến khi kết thúc, 
góp phần nâng cao chất lượng giải quyết 
các vụ án. Ba là, đáp ứng được yêu cầu xây 
dựng, tăng cường, phát triển đội ngũ Kiểm 
sát viên ngành Kiểm sát cả về số lượng, chất 
lượng, hiệu quả công việc. Cuối cùng, việc 
quy định các ngạch Kiểm sát viên nhằm phù 
hợp với tổng thể ngạch bậc công chức trong 
bộ máy nhà nước.
Thứ ba, Kiểm sát viên là một chức danh 
tư pháp được bổ nhiệm có thời hạn theo 
quy định của pháp luật. Hay nói cách khác, 
người giữ chức danh Kiểm sát viên không 
phải là trọn đời mà theo nhiệm kỳ. Nhiệm 
kỳ Kiểm sát viên có hai khả năng: trường 
hợp thứ nhất, nếu được bổ nhiệm lần đầu 
thì thời hạn giữ chức danh này là 05 năm; 
bổ nhiệm lần tiếp theo là 10 năm. Trường 
7 Xem thêm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 
914/VKSTC-V8, Bản thuyết minh chi tiết về dự 
thảo Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (sửa 
đổi) ngày 7/4/2014.
hợp thứ hai, nếu được bổ nhiệm lần đầu 
thì nhiệm kỳ là 05 năm nhưng nếu sau đó 
người này thi nâng ngạch thì nhiệm kỳ của 
những lần tiếp theo là 10 năm. 
Quy định này có ý nghĩa quan trọng 
vừa đảm bảo cơ chế kiểm soát đối với tất cả 
các Kiểm sát viên; vừa tạo động lực để Kiểm 
sát viên phấn đấu, nỗ lực trong công tác và 
giải quyết được những vướng mắc thực tiễn 
về quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại trong 
thời gian qua.
Trong quá trình xây dựng Luật Tổ chức 
Viện kiểm sát nhân dân, ngành Kiểm sát 
nhận được nhiều đóng góp về quy định 
nhiệm kỳ Kiểm sát viên. Có ý kiến cho 
rằng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 
tối cao được bổ nhiệm không thời hạn; các 
Kiểm sát viên khác được bổ nhiệm lần đầu 
có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ 
nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 
năm. Ý kiến khác lại đề nghị tất cả các Kiểm 
sát viên được bổ nhiệm lần đầu đều có thời 
hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm 
lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm. 
Thậm chí, có ý kiến cho rằng Kiểm sát viên 
là chức danh tố tụng, gắn với hoạt động 
nghề nghiệp nên cần được bổ nhiệm không 
thời hạn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các 
chức danh tư pháp nên bổ theo nhiệm kỳ. 
Việc xác định nhiệm kỳ phụ thuộc vào nhiều 
yếu tố nhưng phải xuất phát từ những cơ sở 
khoa học và thực tiễn.
Thứ tư, Kiểm sát viên thực hiện chức 
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát 
hoạt động tư pháp. Thực hành quyền công 
tố là một trong những nhiệm vụ quan trọng 
nhất của Kiểm sát viên và là chức năng lâu 
đời nhất của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên 
thực hành quyền công tố trong tố tụng hình 
sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước 
đối với người phạm tội. Nhiệm vụ này được 
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin 
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong 
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét 
66
KHÁI NIỆM, TIÊU CHUẨN KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
xử vụ án hình sự.
Cùng với nhiệm vụ thực hành quyền 
công tố, Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm 
sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên kiểm 
sát hoạt động tư pháp nhằm kiểm sát tính 
hợp pháp của các hành vi, quyết định của 
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư 
pháp. Nhiệm vụ này được thực hiện ngay 
từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo 
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt 
quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong 
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc 
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, 
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc 
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động 
tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo 
quy định của pháp luật.
Thứ năm, khi thực hiện chức năng thực 
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động 
tư pháp, Kiểm sát viên phải tuân theo các 
nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm 
sát: Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh 
đạo trong ngành; Nguyên tắc kết hợp vai trò 
lãnh đạo của Viện trưởng với vai trò thảo 
luận, quyết định một số vấn đề quan trọng 
về tổ chức và hoạt động của Ủy ban kiểm 
sát; Nguyên tắc khi thực hành quyền công 
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát 
viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo 
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
3. Tiêu chuẩn Kiểm sát viên - quy định 
pháp luật và vướng mắc từ thực tiễn thi hành
Như trên đã phân tích, Kiểm sát viên là 
một chức danh tư pháp thực hiện chức năng 
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt 
động tư pháp. Việc thực hiện chức năng 
này nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả 
nhiệm vụ của Viện kiểm sát. Do đó, pháp 
luật quy định rất cụ thể các tiêu chuẩn để bổ 
nhiệm cho từng ngạch.
Theo quy định của luật Tổ chức Viện 
kiểm sát nhân dân năm 2014, để được bổ 
nhiệm Kiểm sát viên bắt buộc ứng viên phải 
thỏa mãn các điều kiện về phẩm chất chính 
trị, đạo đức, về trình độ, sức khỏe và đã 
được đào tạo nghiệp vụ kiểm sát. Tùy từng 
ngạch Kiểm sát viên mà yêu cầu tiêu chuẩn 
cũng khác nhau. Trong các tiêu chuẩn này 
thì tiêu chuẩn về thời gian công tác thực tiễn 
và tiêu chuẩn về năng lực có nhiều quan 
điểm khác nhau.
Thứ nhất, tiêu chuẩn về thời gian công 
tác thực tiễn: theo quy định hiện hành để 
được bổ nhiệm Kiểm sát viên sơ cấp thì thời 
gian công tác pháp luật phải từ 04 năm trở 
lên. Ở các ngạch Kiểm sát viên tiếp theo thì 
bắt buộc người đó phải giữ ngạch ít nhất 
được một nhiệm kỳ 05 năm (trừ các trường 
hợp đặc biệt được quy định tại khoản 2 các 
điều từ Điều 77 đến Điều 80 và Điều 81 Luật 
Tổ chức VKSND năm 2014). Tuy nhiên nhận 
thức và thực tiễn áp dụng điều kiện này 
vẫn chưa thống nhất ở các cấp Viện kiểm 
sát. Có địa phương tính thời gian công tác 
pháp luật kể từ thời điểm người đó được 
tuyển dụng vào ngành; có địa phương tính 
từ thời điểm được bổ nhiệm vào một ngạch 
công chức sau khi hoàn thành 12 tháng tập 
sự8. Do đó thời gian công tác pháp luật cần 
được hiểu thống nhất nhằm đảm bảo quyền 
lợi cho công chức trong Ngành. Bên cạnh 
đó, thời gian công tác thực tiễn có thể vận 
dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 
01/TTLT/2011/TANDTC-BQP-BNV ngày 
20/10/2011 về việc hướng dẫn thi hành một 
số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và 
Hội thẩm Tòa án nhân dân; Pháp lệnh sửa 
đổi, bổ sung môt số điều của Pháp lệnh 
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân: 
“Thời gian làm công tác pháp luật” là thời 
gian công tác liên tục kể từ khi được xếp 
vào một ngạch công chức theo quy định của 
pháp luật, bao gồm: Thư ký Tòa án, Thẩm 
tra viên ngành Tòa án; Trinh sát viên trung 
cấp trở lên, Cảnh sát viên trung cấp trở lên 
của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Trinh sát 
8 Thông tin được sử dụng thông qua quá trình trao 
đổi với học viên các lớp Đào tạo Nghiệp vụ Kiểm sát.
67Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
DƯƠNG ĐÌNH CÔNG
viên trung cấp trở lên của lực lượng An ninh 
nhân dân và Điều tra viên trong lực lượng 
Công an nhân dân; cán bộ điều tra, bảo vệ 
an ninh trong Quân đội; Chuyên viên, Chấp 
hành viên, Công chứng viên, Thanh tra 
viên, cán bộ pháp chế, giảng viên về chuyên 
ngành luật; thời gian được bầu hoặc cử làm 
Hội thẩm, thời gian làm luật sư cũng được 
coi là “thời gian làm công tác pháp luật”.
Thứ hai, về năng lực: các ngạch Kiểm 
sát viên sơ, trung và cao cấp đều yêu cầu 
người được bổ nhiệm phải có năng lực thực 
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư 
pháp (tùy từng ngạch mà luật yêu cầu có 
thêm năng lực hướng dẫn nghiệp vụ; năng 
lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành 
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp 
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; năng lực 
giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc 
thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối 
cao). Cần khẳng định rằng thực hành quyền 
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp là năng 
lực xuyên suốt, có ý nghĩa quyết định đến 
hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của 
Kiểm sát viên. Tuy nhiên nhận thức và đánh 
giá như thế nào về những năng lực này 
cũng không đơn giản vì thiếu các cơ sở định 
lượng. Thông thường một người thực hiện 
tốt các nhiệm vụ của mình và vượt qua kì thi 
giữ ngạch thì cơ bản đáp ứng năng lực này.
Trong quá trình triển khai thi hành luật 
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 
về năng lực thực hành quyền công tố, kiểm 
sát hoạt động tư pháp được vận dụng chưa 
thống nhất. Theo báo cáo thẩm tra của Ủy 
ban Tư pháp của Quốc hội, vẫn còn một số 
lượng chỉ tiêu Kiểm sát viên được bổ nhiệm 
nhưng không trực tiếp thực hiện công tác 
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt 
động tư pháp điều này ảnh hưởng đến tổng 
chỉ tiêu Kiểm sát viên của toàn Ngành9. 
9 Xem, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Báo cáo số 
1490/BC-UBTP14 ngày 12/9/2018 trang 26.
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên 
nhân trong đó có hoàn cảnh lịch sử cụ thể 
khi triển khai luật Tổ chức Viện kiểm sát 
nhân dân năm 2014. Đồng thời cũng không 
loại trừ ý kiến mà theo chúng tôi không phải 
là không có cơ sở khi xây dựng luật Tổ chức 
Viện kiểm sát nhân dân là “ngoài các công tác 
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, 
kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên còn 
được bổ nhiệm để thực hiện các nhiệm vụ đặc 
thù theo sự phân công của Viện trưởng”10. 
4. Một số kiến nghị hoàn thiện quy 
định pháp luật về Kiểm sát viên
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi 
cho rằng ngành Kiểm sát nhân dân cần sớm 
có công tác tổng kết thực tiễn thi hành Luật 
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 
để có những sửa đổi phù hợp.
Về chế định Kiểm sát viên, theo chúng tôi 
có thể sửa đổi theo những định hướng sau:
Một là, Điều 74 quy định “Kiểm sát viên 
là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp 
luật để thực hiện chức năng thực hành quyền 
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Theo quy 
định này cho phép định danh được Kiểm sát 
viên là tất cả những người được bổ nhiệm 
để thực hiện 2 chức năng của Viện kiểm sát 
nhưng lại làm nảy sinh những vướng mắc 
trong quá trình triển khai. Trong thời gian 
qua, để khắc phục tình trạng Kiểm sát viên 
được bổ nhiệm nhưng không trực tiếp thực 
hiện chức năng thực hành quyền công tố, 
kiểm sát hoạt động tư pháp, ngành Kiểm 
sát đã đẩy mạnh công tác biệt phái. Đây có 
thể coi là một giải pháp tình thế nhằm giải 
quyết bài toán khó giữa quy định pháp luật 
và thực tiễn thực hiện. Tuy nhiên về dài hạn, 
công tác biệt phái này tỏ ra kém hiệu quả. 
Do đó, các nhà lập pháp có thể sửa đổi quy 
10 Xem thêm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 
914/VKSTC-V8, Bản thuyết minh chi tiết về dự 
thảo Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (sửa 
đổi) ngày 7/4/2014.
68
KHÁI NIỆM, TIÊU CHUẨN KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
định trên theo hướng:
Phương án 1: “Điều  Kiểm sát viên là 
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp 
luật để thực hiện chức năng thực hành quyền 
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện 
các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công 
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.”
Phương án 2: “Điều Kiểm sát viên là 
người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định 
của Luật này được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ 
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động 
tư pháp”.
Như vậy, khi thiết kế theo những 
phương án trên, nhiệm vụ của Kiểm sát viên 
không chỉ là những hoạt động trực tiếp liên 
quan đến thực hành quyền công tố, kiểm sát 
hoạt động tư pháp mà còn có thể là những 
hoạt động khác góp phần hỗ trợ cho việc 
thực hiện chức năng của Viện kiểm sát.
Hai là, về thời gian công tác pháp luật. 
Như trên đã đề cập, thời gian công tác pháp 
luật được áp dụng không thống nhất giữa 
các Viện kiểm sát ở địa phương. Theo chúng 
tôi, thời gian công tác pháp luật được tính 
từ thời điểm được bổ nhiệm chính thức vào 
một ngạch công chức phù hợp với vị trí việc 
làm được tuyển dụng. Trong thực tiễn, có 
một số công chức được tuyển dụng với vị 
trí việc làm không liên quan đến công tác 
pháp luật như kế toán, công nghệ thông tin, 
sau đó học tập và nhận bằng tốt nghiệp cử 
nhân Luật thì thời gian công tác pháp luật 
phải tính từ thời điểm có văn bằng và được 
xếp chuyển ngạch hoặc thay đổi ngạch công 
chức. Cùng với đó, thời gian hành nghề luật 
sư, công chứng viên, giảng viên giảng dạy 
có trình độ chuyên môn từ cử nhân Luật trở 
lên đều được tính vào thời gian công tác 
pháp luật.
5. Kết luận
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
luôn quan tâm tới xây dựng đội ngũ cán bộ, 
công chức ngành Kiểm sát. Người căn dặn 
cán bộ Kiểm sát phải “Công minh, chính 
trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. 
Nhà nước cũng đã sớm ban hành các quy 
định pháp luật về chức danh Kiểm sát viên 
Viện kiểm sát nhân dân. Những quy định đó 
góp phần vào việc xây dựng đội ngũ Kiểm 
sát viên “vững về chính trị, giỏi về nghiệp 
vụ, tinh thông về pháp luât, công tâm và bản 
lĩnh, kĩ cương và trách nhiệm”. Tuy nhiên, 
từ quy định đến thực tiễn thi hành vẫn cho 
thấy những khó khăn nhất định. Do đó, 
trong thời gian tới cùng với quá trình hoàn 
thiện pháp luật về Kiểm sát viên thì việc ban 
hành các văn bản hướng dẫn thi hành cũng 
là hoạt động có nhiều ý nghĩa./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tư pháp, Từ điển Luật học (2006), NXB Tư 
pháp, Hà Nội, 
2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 
năm 2014.
3. Thông tư liên tịch số 01/TTLT/2011/ TANDTC-
BQP-BNV ngày 20/10/2011 về việc hưỡng dẫn 
thi hành một số quy định của pháp lệnh thẩm 
phán và hội thẩm tòa án nhân dân; Pháp lệnh 
sửa đổi, bổ sung môt số điều của Pháp lệnh 
thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân
4. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình 
Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính trị 
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2014.
5. Từ điển Bách khoa Việt Nam 2 (2000), Nxb Từ 
điển Bách khoa, Hà Nội.
6. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Báo cáo số 1490/
BC-UBTP14 ngày 12/9/2018.
7. Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải 
cách tư pháp, tại website 
thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/87.
8. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 914/VK-
STC-V8, Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo 
Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) 
ngày 7/4/2014.
9. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 914/VK-
STC-V8, Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo 
Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) 
ngày 7/4/2014.
10. https://www.thefreedictionary.com/prosecut-
ing+attorney tham khảo ngày 24/11/2018.

File đính kèm:

  • pdfkhai_niem_tieu_chuan_kiem_sat_vien_vien_kiem_sat_nhan_dan_tu.pdf