Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật trong trường Đại học

Giáo dục pháp luật (GDPL) có vai trò đặc biệt quan trọng trong công

tác giáo dục và đào tạo. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đưa

GDPL vào nhà trường, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới giáo dục đại học

(GDĐH) hiện nay. Bài viết này giúp người đọc hiểu rõ hơn về chủ trương,

quan điểm quan trọng của đảng và pháp luật (PL) của nhà nước về GDPL và

GDPL trong nhà trường; khái niệm, đặc điểm của GDPL trong trường đại học

(ĐH). Từ đó, công chức, viên chức (CCVC) trong nhà trường, đặc biệt là giảng

viên (với vai trò là một chuyên gia, nhà thiết kế, người tư vấn, người quản lý

quá trình học tập và đánh giá giáo dục) tự trả lời được câu hỏi: Mình phải làm

gì để góp phần GDPL cho HSSV? Mình có cần được GDPL không?

pdf 8 trang kimcuc 8100
Bạn đang xem tài liệu "Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật trong trường Đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật trong trường Đại học

Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật trong trường Đại học
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 24 
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 
TRONG TRƢỜNG ĐẠI HỌC 
ThS. Vũ Thị Phƣơng Thảo 
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Giáo dục pháp luật (GDPL) có vai trò đặc biệt quan trọng trong công 
tác giáo dục và đào tạo. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đưa 
GDPL vào nhà trường, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới giáo dục đại học 
(GDĐH) hiện nay. Bài viết này giúp người đọc hiểu rõ hơn về chủ trương, 
quan điểm quan trọng của đảng và pháp luật (PL) của nhà nước về GDPL và 
GDPL trong nhà trường; khái niệm, đặc điểm của GDPL trong trường đại học 
(ĐH). Từ đó, công chức, viên chức (CCVC) trong nhà trường, đặc biệt là giảng 
viên (với vai trò là một chuyên gia, nhà thiết kế, người tư vấn, người quản lý 
quá trình học tập và đánh giá giáo dục) tự trả lời được câu hỏi: Mình phải làm 
gì để góp phần GDPL cho HSSV? Mình có cần được GDPL không?. 
Từ khóa: Giáo dục pháp luật trong trường đại học. 
1. Chủ trƣơng, quan điểm quan trọng 
của đảng và PL của nhà nƣớc về 
GDPL và GDPL trong nhà trƣờng 
 Kế thừa các chủ trương của Đảng 
từ Đại hội Đảng V đến nay, Ban Bí thư 
Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 32-
CT/TW của ngày 09/12/2003 về tăng 
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công 
tác phổ biến, giáo dục pháp luật 
(PBGDPL), nâng cao ý thức chấp hành 
PL của cán bộ, nhân dân. 
Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg 
ngày 12/3/2008 Thủ tướng Chính phủ 
phê duyệt Chương trình PBGDPL từ 
năm 2008 đến năm 2012. Trong 04 đề 
án của Chương trình, đề án quan trọng 
đối với hoạt động GPPL trong nhà 
trường là Đề án “ Nâng cao chất lượng 
công tác PBGDPL trong nhà trường” 
(Đề án 1928). Ngày 09/8/2013, Bộ 
Giáo dục & Đào tạo đã tổ chức Hội 
nghị tổng kết Đề án này.Tại Hội nghị, 
để tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-
CT/TW, Bộ Tư pháp đã đề xuất tiếp 
tục kéo dài thời gian thực hiện các Đề 
án này đến năm 2016. Điều đó thể hiện 
sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến 
công tác PBGDPL, đặc biệt là trong 
nhà trường. 
Nhận thức được sự cần thiết phải 
ban hành Luật PBGDPL- cầu nối giữa 
hoạt động xây dựng và thực hiện PL, 
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt 
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 đã thông 
qua Luật phổ biến, giáo dục pháp 
luậtngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành 
từ ngày 01/01/2013;Ngày 04/4/2013, 
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 
số 28/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một 
số điều và biện pháp thi hành Luật 
PBGDPL thể hiện rõ chính sách của Nhà 
nước về công tác PBGDPL. 
Kết luận số 04-KL/TW của Ban Bí 
thư Ban chấp hành trung ương Đảng 
ngày19/4/2011 tổng kết 6 năm thực hiện 
Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư 
Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng 
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công 
tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành 
PL của cán bộ, nhân dân đã chỉ ra những 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 25 
hạn chế trong công tác này, những hạn 
chế cơ bản có thể kể đến là: vẫn còn một 
số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm 
đúng mức đến việc chỉ đạo triển khai công 
tác PBGDPL; chưa coi công tác này là 
một bộ phận của công tác giáo dục chính 
trị, tư tưởng; tổ chức bộ máy, cơ chế thực 
hiện và trách nhiệm của các cơ quan, tổ 
chức và cá nhân tham gia hoạt động này 
và các cơ chế, chính sách có liên quan 
chưa được quy định rõ ràng ... 
Vì vậy, chúng ta vẫn cần phải tiếp 
tục lựa chọn, vận dụng các hình thức, 
phương pháp GDPL cho phù hợp với 
từng nội dung GDPL cho từng đối tượng 
GDPL cụ thể nhằm đạt được những mục 
tiêu GDPL đặt ra, tạo mọi điều kiện bảm 
đảm để nâng cao chất lượng GDPL, nhất 
là GDPL trong trường đại học - cái nôi 
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao 
cho đất nước. 
2. Khái niệm, đặc điểm của GDPL 
trong trƣờng đại học 
2.1. Khái niệm, đặc điểm của GDPL 
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác 
nhau về PL. Theo quan điểm Mác - 
Lênin về nhà nước và PL, PL được hiểu 
là “hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt 
buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc 
thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan 
hệ xã hội theo mục tiêu và định hướng 
cụ thể” [3, tr.98].Để xây dựng khái niệm 
GDPL, phần lớn các nhà nghiên cứu về 
pháp luật đứng ở góc độ nhìn nhận khái 
niệm giáo dục theo nghĩa hẹp, theo đó, 
giáo dục được hiểu là “quá trình tác 
động định hướng của nhân tố chủ quan 
lên khách thể giáo dục” [1, tr.9]và phần 
lớn cùng thống nhất nhìn nhận hoạt động 
GDPL là sự tác động của nhân tố chủ 
quan, trong đó yếu tố tiên quyết là hoạt 
động giáo dục định hướng, có tổ chức, 
có chủ định của nhiều chủ thể lên ý thức 
của con người. GDPL lúc này được xem 
là yếu tố quan trọng nhất và giữ vai trò 
chủ đạo trong quá trình hình thành ý 
thức PL của con người. 
Từ những khái niệm công cụ cơ 
bản và quan điểm nêu trên, hiện nay đã 
có sự thống nhất trong cách hiểu về 
GDPL, đó là “giáo dục pháp luật là quá 
trình tác động một cách có hệ thống, 
mục đích và thường xuyên tới nhận thức 
của con người nhằm trang bị cho mỗi 
người trình độ pháp lý nhất định để từ 
đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn 
trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của 
pháp luật” [3, tr.179]. 
Tùy thuộc vào đối tượng giáo dục, 
mức độ cần được giáo dục, hình thức 
giáo dục mà xác định mục đích cụ thể 
của GDPL. Tuy nhiên, mục đích chung 
của hoạt động GDPL hướng đến là mục 
đích nhận thức, mục đích cảm xúc và 
mục đích hành vi. 
Thứ nhất là mục đích nhận thức: 
Mục đích nhận thức của GDPL là nhằm 
nâng cao khả năng nhận thức, hiểu biết 
PL, hình thành tri thức PL cần thiết cho 
đối tượng GDPL. Một khi đối tượng 
GDPL đã có tri thức PL đúng đắn thì sẽ 
tạo lòng tin vào PL, để từ đó giúp đối 
tượng GDPL thực hiện hành vi của mình 
một cách có ý thức và có khả năng tự 
đánh giá hành vi của mình là trái pháp luật 
hay không. Đây là mục đích quan trọng 
hàng đầu của GDPL. 
Thứ hai là mục đích cảm xúc: Mục 
đích cảm xúc mà hoạt động GDPL 
hướng tới là khơi dậy tình cảm, lòng tin 
và thái độ đúng đắn của đối tượng 
GDPL đối với PL. Muốn đạt được mục 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 26 
đích này, một mặt, đối tượng GDPL phải 
có kiến thức PL; mặt khác, bản thân hệ 
thống PL phải chuẩn hóa; chủ thể triển 
khai thi hành các quy định PL phải làm 
hết chức năng, nhiệm vụ của mình, có 
đạo đức công vụ thì mới tạo được sự 
công bằng. Không có “thước đo” chuẩn, 
không có sự công bằng trước PL thì 
không thể có công lý, do vậy đối tượng 
GDPL không thể có lòng tin vào PL. 
Thứ ba là mục đích hành vi: Mục 
đích hành vi của GDPL là nhằm chuyển 
hóa nhận thức, tri thức PL của đối tượng 
GDPL thành thói quen với động cơ tích 
cực. Hoạt động GDPL cho các đối tượng 
không phải chỉ dừng lại ở việc cung cấp 
tri thức PL, từ đó họ có tình cảm và lòng 
tin đối với PL mà phải đạt được mục tiêu 
cuối cùng là điều chỉnh được hành vi của 
các đối tượng GDPL theo hướng tích cực, 
đó là các thói quen xử sự theo PL, để 
“sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp 
luật” không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu. 
2.2. Khái niệm, đặc điểm GDPL trong 
trƣờng đại học 
Trong cơ sở GDĐH, đối tượng 
GDPL là công chức, viên chức và học 
sinh, sinh viên (HSSV). Trong trường 
ĐH, viên chức, nhất là viên chức là 
giảng viên vừa là đối tượng GDPL 
nhưng cũng vừa là chủ thể GDPL cho 
viên chức khác và HSSV. 
Nếu chất lượng đội ngũ CCVC, 
giảng viên, HSSV trong các trường ĐH 
được nâng cao, theo đó văn hóa PL tỷ lệ 
thuận với trình độ học vấn và ngày càng 
được nâng lên theo các bậc học sẽ tạo 
được một nguồn nhân lực có chất lượng 
chuyên môn cao, ý thức pháp luật tốt, 
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước, góp phần tăng cường 
pháp chế XHCN và xây dựng nhà nước 
pháp quyền XHCN ở Việt Nam. 
Dựa vào cách hiểu về GDPL được 
phần lớn các nhà nghiên cứu PLthống 
nhấtvà đối tượng GDPL trong cơ sở 
GDĐH, tác giả mạnh dạn đưa ra khái 
niệm GDPL trong trường ĐH như sau: 
GDPL trong trường ĐH là quá trình 
tác động có hệ thống, mục đích, 
thường xuyên của các chủ thể GDPL 
trong và ngoài trường lên CCVC, 
HSSV trong nhà trường nhằm trang bị 
cho họ trình độ văn hóa pháp luật nhất 
định để từ đó họ có kiến thức pháp 
luật, có lòng tin, sự tôn trọng đối với 
pháp luật và tự giác thực hiện hành vi 
hợp pháp. 
Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các 
đặc điểm cơ bản của GDPL trong trường 
ĐH như sau: 
a) Về mục tiêu GDPL trong trường ĐH 
Mục đích của giáo dục nói chung 
theo quan điểm của Ủy ban Quốc tế về 
Giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO là 
“học để biết, học để làm, học để cùng 
chung sống và học cách sống”, điều đó 
có nghĩa là mục đích của hoạt động 
GDPL trong trường ĐH nói riêng là 
trang bị cho đối tượng GDPL các kiến 
thức PL cơ bản để nâng cao khả năng 
hiểu biết PL, để làm việc theo quy định 
PL, để vận dụng các kiến thức ấy vào 
quá trình học tập và rèn luyện trong 
trường, thực tiễn công vụ, nhiệm vụ khi 
đi làm việc. 
Mục tiêu chung của hoạt động 
GDPL trong trường học mà Đề án 
1928 đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng 
và hiệu quả công tác PBGDPL trong 
nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh 
mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng PL 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 27 
và hành vi chấp hành PL của nhà giáo, 
cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và người 
học, góp phần ổn định môi trường giáo 
dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn 
diện” [2, tr 1]. 
GDPL là một bộ phận của công 
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là 
nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị 
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục 
tiêu của hoạt động GDPL trong trường 
ĐH là nhằm: một là, trang bị cho các 
đối tượng GDPL những tri thức PL cần 
thiết, xây dựng lòng tin đối với PL, 
hình thành những động cơ tích cực và 
thói quen xử sự phù hợp với yêu cầu 
của PL; hai là, xây dựng ý thức PL, 
nâng cao trình độ văn hóa PL, từng 
bước hình thành phẩm chất công dân 
cho các thế hệ HSSV với mục tiêu đào 
tạo con người Việt Nam phát triển toàn 
diện; ba là, định hướng cho người học 
có sự hiểu biết cơ bản nhất về nhà 
nước, PL, quyền và nghĩa vụ cơ bản 
cũng như trách nhiệm của công dân 
trong giai đoạn xây dựng nhà nước 
pháp quyền XHCN Việt Nam. 
b) Về chủ thể, đối tƣợng GDPL trong 
trƣờng đại học 
Căn cứ vào nghề nghiệp, có thể 
phân loại đối tượng GDPL trong trường 
ĐH là các đơn vị sự nghiệp công lập 
(sau đây gọi tắt là trường ĐH) thành hai 
nhóm chính là CCVC và người học. 
CCVC trong trường ĐH vừa là đối 
tượng GDPL nhưng đồng thời cũng là 
chủ thể GDPL cho đối tượng GDPL là 
HSSV. 
* Công chức, viên chức vừa là đối 
tƣợng, vừa là chủ thể GDPL trong 
trƣờng đại học 
Căn cứ vào khái niệm cán bộ, 
CCVC trong Luật cán bộ, công chức năm 
2008, Luật viên chức năm 2010 và các 
văn bản hướng dẫn thi hành luật, có thể 
phân loại những người làm việc trong các 
trường ĐH gồm những loại sau: 
- Công chức: Công chức là công dân 
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm 
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong bộ 
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự 
nghiệp công lập, trong biên chế, hưởng 
lương từ quỹ lương của đơn vị theo quy 
định của PL. Trong đơn vị sự nghiệp công 
lập, người đứng đầu, cấp phó của người 
đứng đầu, cấp trưởng, cấp phó tổ chức cấu 
thành đơn vị sự nghiệp công lập được quy 
định là công chức. Như vậy, trong trường 
ĐH loại này, công chức là Hiệu trưởng, 
Phó Hiệu trưởng nhà trường. 
- Viên chức: Viên chức là công dân 
Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc 
làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập 
theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng 
lương từ quỹ lương của đơn vị theo quy 
định của PL. Như vậy, đội ngũ giáo viên, 
giảng viên (gọi chung là giảng viên), người 
không làm công tác giảng dạy nhưng được 
tuyển dụng theo chế độ hợp đồng làm việc, 
hưởng lương từ quỹ lương trong trường 
ĐH này là viên chức nhà nước. 
Viên chức được nêu trên có thể 
chia làm 03 nhóm sau: một là, viên chức 
là giảng viên; hai là, viên chức quản lý; 
ba là, viên chức còn lại không phải là 
viên chức quản lý, cũng không phải là 
giảng viên, do vậy có thể gọi đây là viên 
chức phục vụ công tác đào tạo. 
Theo quy định của Luật Giáo dục 
năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) 
và Luật GDĐH năm 2012 thì giảng viên 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 28 
trong cơ sở GDĐH là người có nhân thân 
rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có 
sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt 
trình độchuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ 
như sau: có bằng tốt nghiệp ĐH trở lên 
và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư 
phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao 
đẳng, ĐH; có bằng thạc sĩ trở lên đối với 
giảng viên giảng dạy chuyên đề, hướng 
dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng tiến sĩ đối 
với giảng viên giảng dạy chuyên đề, 
hướng dẫn luận án tiến sĩ. 
Viên chức quản lý trong trường 
ĐH là những người được bổ nhiệm giữ 
chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách 
nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện 
một hoặc một số công việc trong đơn 
vị sự nghiệp công lập nhưng không 
phải là công chức và được hưởng phụ 
cấp chức vụ quản lý. Vì vậy, trong 
trường ĐH, Trưởng, Phó các phòng, 
khoa, bộ môn; Giám đốc, Phó Giám 
đốc các trung tâm và các chức danh 
tương đương ở các đơn vị tương đương 
với Phòng, Khoa, Trung tâm được gọi 
là viên chức quản lý. 
CCVC trong trường ĐH là đối 
tượng quan trọng của hoạt động GDPL, 
đặc biệt viên chức là giảng viên. Đây là 
đối tượng có trình độ chuyên môn cao, 
đồng đều. Vì vậy, họ đã có những kiến 
thức PL được đào tạo cơ bản trong các 
chương trình học cao đẳng, ĐH và sau 
ĐH. Mặt khác, do đặc thù nghề nghiệp 
nên họ luôn có nhu cầu nâng cao và cập 
nhật kiến thức chuyên môn, trong đó có 
cả kiến thức về PL. 
Tuy nhiên, thường thì các trường 
ĐH chưa chú trọng đến hoạt động GDPL 
cho đội ngũ này một cách thường xuyên, 
có kế hoạch. Các nội dung GDPL cho 
công chức, viên chức thường được trang 
bị trong quá trình triển khai công tác, 
nhiệm vụ của cấp ủy Đảng, Công đoàn, 
Đoàn thanh niên, Nữ công theo nội 
dung của cơ quan, tổ chức cấp trên. Các 
văn bản PL trong ngành giáo dục, tư 
pháp, tài chính, khoa học và công nghệ 
 liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ 
của CCVC thường được các phòng chức 
năng như phòng tổ chức hành chính, tài 
chính kế toán, quản lý đào tạo, khoa học 
và quan hệ quốc tế, khảo thí và đảm bảo 
chất lượng áp dụng các văn bản quy 
phạm pháp luật để thực hiện. Công tác 
giải thích, phổ biến PL chỉ diễn ra sau 
khi có những khúc mắc, kiến nghị về 
việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ từ 
phía viên chức. 
Trên thực tế, GDPL cho đội ngũ 
CCVC là một hoạt động có vai trò quan 
trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu 
quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực 
giáo dục; góp phần trực tiếp vào việc 
nâng cao chất lượng giáo dục trong 
trường ĐH. Nếu hoạt động GDPL cho 
CCVC được triển khai có kế hoạch, 
thường xuyên, có sự phân công, phối 
hợp và kiểm soát của nhiều chủ thể 
GDPL khác thì sẽ tạo được không khí 
dân chủ, đoàn kết nội bộ tốt, tránh được 
tình trạng khiếu nại, tố cáo cũng như 
những hành vi VPPL khác như tham 
nhũng và những hệ lụy từ việc thương 
mại hóa giáo dục - một vấn đề nhạy cảm 
luôn được xã hội đặc biệt quan tâm. 
Riêng đội ngũ giảng viên là những 
người giữ vai trò quyết định trong việc 
bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó có 
GDPL. Muốn vậy, đội ngũ này cần nắm 
vững đặc điểm của đối tượng HSSV, có 
kiến thức pháp luật vững vàng, có đạo 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 29 
đức nghề nghiệp. Để tăng cường GDPL 
trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn 
diện GDĐH, điều kiện tiên quyết là 
trường ĐH là phải có đội ngũ giảng viên 
PL được đào tạo đạt chuẩn, có trình độ sư 
phạm tốt, đủ về số lượng và có kỹ năng 
thực hiện hoạt động GDPL một cách 
chuyên nghiệp, có như vậy mới đề xuất 
được những giải pháp phù hợp, tổ chức 
được các hoạt động GDPL trong trường 
ĐH đạt hiệu quả cao. 
* Học sinh, sinh viên - đối tƣợng 
GDPL chủ yếu trong trƣờng ĐH 
Người học trong trường ĐH là 
những HSSV có năng lực hành vi đầy đủ 
trong các lĩnh vực phổ biến như hình sự, 
hành chính, dân sự... ; đang trong giai 
đoạn dần dần hoàn thiện một số nét cơ 
bản về nhân cách nhưng lại chưa ổn định; 
đã phần lớn vươn ra khỏi vòng tay chăm 
lo của gia đình, bắt đầu học cách sống tự 
lập và phải chịu sự điều chỉnh của PL, tự 
chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi 
tham gia vào các quan hệ PL. 
HSSV là đối tượng đang tiếp thu 
những kiến thức, kỹ năng chuyên môn 
ở trƣờng ĐH để chuẩn bị cho hoạt 
động nghề nghiệp sau khi ra trƣờng, 
cónhững nét tâm lý điển hình như: tính tự 
ý thức cao; có tình cảm nghề nghiệp; có 
khát vọng thành đạt với nhiều mơ 
ước...Vì vậy, HSSV có thể xác định được 
các mục tiêu học tập, rèn luyện và thể 
hiện bằng hành động học tập, rèn luyện 
trong suốt thời gian học tại trường ĐH. 
Tuy nhiên, HSSV không tránh khỏi 
những hạn chế chung của lứa tuổi thanh 
niên đó là sự thiếu chín chắn trong suy 
nghĩ, hành động, nhất là trong việc tiếp 
thu, học hỏi những cái mới. Vì thế, 
HSSV dễ nảy sinh sự phát triển tâm sinh 
lý lệch lạc, hành vi trái PL dẫn đến thực 
hiện những hành vi trái với chuẩn mực 
xã hội, vi phạm PL do thiếu hiểu biết về 
kiến thức xã hội và kiến thức PL nói 
riêng. Ngược lại, nếu có một nền tảng 
giáo dục tốt và được giáo dục kịp thời 
với những nội dung, hình thức, phương 
pháp phù hợp thì cũng HSSV cũng dễ 
uốn nắn, dễ tiếp thu các điều hay lẽ phải 
khi được định hướng, điều chỉnh khi còn 
đang ngồi trên giảng đường ĐH. 
Với quan điểm GDPL cho HSSV 
trong nhà trường là giáo dục đạo đức, 
lối sống, giáo dục ý thức công dân, ý 
thức làm người nên cần phải đưa nhiều 
nội dung GDPL vào chương trình học 
tập, sinh hoạt của HSSV trường ĐH. 
Điều này sẽ có tác động lớn trong việc 
định hướng, phát triển hình thành tư 
cách công dân, góp phần điều chỉnh 
hành vi, nâng cao nhận thức, xây dựng 
nhân cách, xây dựng tính hướng thiện, 
đảm bảo tính liên tục trong nhận thức; 
hình thành trong các em hành vi, thói 
quen tự giác xử sự đúng PL và có ý 
thức tuân thủ PL. 
c) Đặc điểm về nội dung GDPL trong 
trƣờng ĐH 
* Nội dung GDPL cho CCVC 
trong trƣờng ĐH 
Nội dung GDPL được xác định 
trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu công việc, 
trình độ nhận thức, yêu cầu về quản lý 
nhà nước, quản lý xã hội của từng 
nhóm đối tượng. Trong hoạt động phổ 
cập kiến thức pháp luật, cần xác định rõ 
mức độ trong nội dung GDPL, đó là 
trang bị các kiến thức pháp luật: phổ 
biến, cần thiết, phù hợp cho mọi đối 
tượng GDPL; theo nhu cầu ngành nghề 
để đáp ứng các yêu cầu của công việc; 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 30 
theochuyên ngành cho những chủ thể 
GDPL chuyên nghiệp. Vì vậy, nội dung 
GDPL có phạm vi rộng. 
Nội dung GDPL được truyền đạt từ 
nhiều chủ thể GDPL khác nhau ở trong 
và ngoài trường, cụ thể là: 
Một là, những nội dung GDPL cần 
thiết, phổ biến được nêu tại Điều 10 của 
Luật PBGDPL năm 2012; 
Hai là, các kiến thức PL liên quan 
đến công tác giáo dục và đào tạo như: 
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính 
phủ ngày 02/11/2011 về đổi mới cơ bản 
và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 
2006 - 2020; Luật Giáo dục 2005; Luật 
GDĐH năm 2012; Luật Cán bộ, công 
chức năm 2008; Luật Viên chức năm 
2010; Luật Khoa học và Công nghệ năm 
2013; Bộ luật lao động năm 2012 
Ba là, các kiến thức theo chuyên 
ngành cho những chủ thể GDPL 
chuyên nghiệp. Đối với CCVC đang 
được đặt ở vị trí là đối tượng GDPL 
nhưng đồng thời họ cũng là chủ thể 
GDPL chính cho đối tượng GDPL là 
người học. Do vậy họ được trang bị 
các kiến thức PL chuyên ngành từ các 
cơ sở đào tạo trong quá trình họ học 
tập nâng cao trình độ chuyên môn; 
trong quá trình lãnh đạo trường ĐH 
triển khai các nhiệm vụ của nhà 
trường; Đảng ủy, Công đoàn, Đoàn 
thanh niên triển khai công tác; đặc biệt 
là họ có khả năng tự cập nhật và tự 
trang bị các kiến thức PL thông qua 
nhiều hình thức GDPL từ các chủ thể 
GDPL khác trong và ngoài trường. 
* Nội dung GDPL cho HSSV trong 
trƣờng ĐH 
Đưa GDPL vào trường ĐH là việc 
sử dụng các thiết chế bộ máy, các cơ sở 
vất chất của nhà trường, thông qua chức 
năng giáo dục của nhà trường, truyền đạt 
được những nội dung GDPL nhằm trang 
bị cho HSSV những tri thức PL cần 
thiết, bồi dưỡng tình cảm, xây dựng, 
hình thành ý thức PL làm cơ sở cho sự 
hình thành hành vi và thói quen xử sự có 
các hành vi phù hợp PL. 
Trường ĐH là môi trường GDPL 
cho HSSV trực tiếp, thường xuyên nhất, 
dễ đạt hiệu quả cao và là con đường 
ngắn nhất góp phần đưa PL đến với đội 
ngũ tri thức chất lượng cao trong tương 
lai bởi lẽ GDPL trong trường ĐH là sự 
tác động có định hướng, nội dung kiến 
thức được sắp xếp khoa học, có tính kế 
thừa và liên thông. Nhờ vậy, dần dần 
hình thành trong HSSV những hành vi 
tự giác ứng xử theo chuẩn mực xã hội, 
chuẩn mực PL; biết đề phòng, biết đấu 
tranh và khắc phục những sai lệch so với 
các chuẩn mực đã được quy định; đồng 
thời biết tự điều chỉnh hành vi của mình 
theo khuôn khổ của PL một cách tự giác. 
Từ đó, trường ĐH có cơ sở để lựa 
chọn nội dung GDPL phù hợp với mục 
tiêu GDPL, cụ thể như sau: 
Một là, các kiến thức PL phổ thông 
cho mọi HSSV thông qua chương trình 
đào tạo học phần pháp luật đại cương. 
Hai là, các kiến thức PL chuyên 
ngành cho HSSV thuộc các ngành đào 
tạo ở các trình độ đào tạo khác nhau 
như học phần PL kinh tế, soạn thảo văn 
bản, nhập môn hành chính nhà nước, 
PL xây dựng 
Ba là, các kiến thức PL khác chưa 
được đưa vào nội dung dạy và học chính 
khóa như các quy định của Bộ Giáo dục 
và Đào tạo và của nhà trường liên quan 
đến quyền và nghĩa vụ của HSSV. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 31 
d) Đặc điểm về hình thức, phƣơng 
pháp GDPL trong trƣờng đại học 
* Về hình thức GDPL trong trƣờng 
đại học 
Hình thức GDPL trong trường ĐH 
là cách thức tiến hành các hoạt động tổ 
chức quá trình GDPL để thể hiện, truyền 
đạt các nội dung GDPL đến đối tượng 
GDPL. 
Tùy vào đối tượng GDPL, ưu điểm 
và nhược điểm của từng hình thức mà 
chủ thể GDPL có thể lựa chọn và kết 
hợpcác hình thức GDPL phù hợp. Các 
trường ĐH đều có website riêng. Đây là 
điều kiện thuận lợi để xây dựng chuyên 
mục PBGDPL trên website này nhằm 
cập nhật thông tin PL, nhất là các văn 
bản PL, thông tin có liên quan đến quyền 
lợi của viên chức, giảng viên, HSSV. 
Tuy nhiên, theo tác giả, đối với đối 
tượng GDPL có trình độ học vấn cao như 
CCVC trong trường ĐH, đặc biệt là đối 
với viên chức là giảng viên thìhình thức 
tự GDPL là một hình thức chưa được các 
nhà nghiên cứu PL đề cập đến nhưng 
theo tác giả thì đây là hình thức GDPL 
tiên quyết quyết định chất lượng GDPL 
cho chính đối tượng này vì họ là đối 
tượng có khả năng tự nghiên cứu để tự 
đáp ứng nhu cầu hiểu biết PLcủa mình. 
Còn đối với HSSV, hình thức 
GDPL mang lại hiệu quả caonhất chính 
là giảng dạy PL trong chương trình đào 
tạo chính khóa. Do vậy chất lượng đội 
ngũ giảng viên giảng dạy PL chính là 
chìa khóa của chất lượng GDPL cho 
HSSV trong nhà trường. 
* Phương pháp GDPL trong trường ĐH 
Phương pháp GDPL là tổng thể cách 
thức, biện pháp mà các chủ thể GDPL 
dùng để tác động vào đối tượng GDPL để 
truyền đạt các nội dung GDPL nhằm đạt 
được các mục tiêu GDPL đặt ra. 
Chủ thể GDPL là những người có 
kiến thức PLvà kinh nghiêm thực tiễn 
nhất định. Để truyền đạt được các nội 
dung GDPL một cách dễ hiểu, thuyết 
phục, đạt được mục tiêu đặt ra, họ phải 
đặt mình ở vị thế của người giảng viên 
 nên họ sử dụng PPGDPL chủ yếu là 
các phương pháp sư phạm. 
Ngoài ra, các chủ thể GDPL còn 
thường phối hợp với các tổ chức đoàn 
thể, bộ phận thanh tra - pháp chế và các 
chủ thể khác ngoài trường như cơ quan 
công an, tòa án, các hội nghề nghiệp  
để xây dựng chương trình, kế hoạch 
GDPL; phối hợp biên soạn chương trình, 
giáo trình, tài liệu, sách giáo khoa về 
GDPL; xây dựng danh mục các thiết bị 
phục vụ công tác GDPL; phối hợp xây 
dựng tủ sách PL; xây dựng các đơn vị 
nghiên cứu, tư vấn về công tác thanh tra, 
pháp chế  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Trần Thị Tuyết Oanh. 2009. Giáo trình Giáo dục học tập 1 (dành cho sinh viên đại 
học sư phạm), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[2] Thủ tướng Chính phủ. 2008. Quyết định số: 37/2008/QĐ-TTgngày 12/03/2008 ban 
hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012. 
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội. 2010. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp 
luật, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfkhai_niem_dac_diem_giao_duc_phap_luat_trong_truong_dai_hoc.pdf