Khả năng sử dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế dưới khuôn khổ hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

Thương mại hàng hoá trong Hiệp định TPP được xem là WTO bỏ phần lớn và trong thời gian ngắn các rào cản thuế quan và phi thuế quan tiến tới hoàn toàn tự do hoá thương mại. Kịch bản chắc chắn xảy ra sẽ là + vì nó sẽ dỡ

dòng thương mại hàng hoá khổng lồ di chuyển qua biên giới, bao gồm các sản phẩm

cạnh tranh trực tiếp hoặc gián tiếp với sản phẩm nội địa. Trong bối cảnh đó, các quốc

gia có kinh nghiệm và chuyên sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại sẽ có những đối

sách để bảo vệ ngành sản xuất nước sở tại. VN có khả năng lâm vào tình huống “gọng

kìm”: Thị trường trong nước bị cạnh tranh khốc liệt trong khi xuất khẩu vào thị trường

nội khối TPP cũng sẽ gặp không ít những khó khăn. Bài báo tập trung phân tích một số

khía cạnh của vấn đề khả năng sử dụng biện pháp tự vệ thương mại trong khuôn khổ TPP

và nghiên cứu lịch sử áp dụng biện pháp tự vệ thương mại của các quốc gia thành viên

TPP; từ đó đưa ra một số lưu ý đối với VN.

pdf 5 trang kimcuc 4480
Bạn đang xem tài liệu "Khả năng sử dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế dưới khuôn khổ hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng sử dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế dưới khuôn khổ hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

Khả năng sử dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế dưới khuôn khổ hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
VN Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
1. Tổng quan về Hiệp định TPP
Hiệp định Đối tác chiến lược 
xuyên Thái Bình Dương (TPP) 
là một hiệp định thương mại đa 
phương, hiện tại đang đi vào 
những vòng đàm phán cuối cùng 
bởi 12 quốc gia thành viên. Với 
sự góp mặt của những nền kinh 
tế lớn của thế giới như Mỹ, Nhật, 
Australia,, TPP nếu được kí kết 
sẽ hình thành một khu vực tự do 
mậu dịch khổng lồ với quy mô thị 
trường hơn 790 triệu dân, bao trùm 
xấp xỉ 40% GDP thế giới và chiếm 
lĩnh 30% tổng giá trị thương mại 
toàn cầu. Với phạm vi điều chỉnh 
rất rộng, bao quát gần như tất cả các 
vấn đề thương mại có tính truyền 
thống, TPP được các chuyên gia 
đánh giá như là một trong những 
“siêu FTA” và là hình mẫu liên kết 
kinh tế kiểu mới của thế kỉ 21. 
TPP đến thời điểm hiện tại trải 
qua 20 vòng đàm phán chính thức, 
gồm hơn 20 nhóm thảo luận gần 
30 lĩnh vực. Hội nghị Bộ trưởng tại 
Singapore kéo dài bốn ngày từ 22/2 
đến 25/2/2014 vừa qua được kì 
vọng sẽ kết thúc Hiệp định nhưng 
đã không thành công do các bên 
vẫn chưa vượt qua trở ngại lớn nhất 
chính là vấn đề tiếp cận thị trường, 
trong đó đụng chạm đến các lĩnh 
vực mang tính cốt lõi của các quốc 
gia thành viên. Tuy nhiên, theo 
Thông cáo chung ngày 25/2/2014 
(USTR, 2014), bộ trưởng các nước 
đã đạt được những đường hướng 
quan trọng để giải quyết các điểm 
khác biệt trong bối cảnh một kết 
quả công bằng và thống nhất. 
Theo dự đoán của các chuyên 
gia, hiệp định sẽ kết thúc đàm phán 
trong tháng 5 và tiến hành kí kết 
trong quý III năm 2014. Vướng 
mắc lớn nhất tại thời điểm này 
chính là bất đồng giữa Mỹ và Nhật 
về việc mở cửa thị trường một số 
mặt hàng đặc thù của hai nước và 
hiện tại vẫn chưa được giải quyết 
triệt để sau các cuộc đàm phán 
song phương diễn ra tại Mỹ vào 
đầu tháng 4/2014. Do đó, chuyến 
công du của Tổng thống Mỹ đến 
Nhật cuối tháng 4/2014 được kì 
vọng là sẽ phá băng đàm phán và 
nhanh chóng thúc đẩy TPP đi vào 
kí kết (USTR, 2014). Ngoài ra, 
các lực lượng ủng hộ TPP ở Mỹ 
cũng đang nỗ lực marathon trong 
Khả năng sử dụng các biện pháp tự vệ 
trong thương mại quốc tế dưới
 khuôn khổ Hiệp định Đối tác 
xuyên Thái Bình Dương (TPP)
PGS. TS. VÕ KHẮC THƯỜNG & VÕ THÀNH VINH
Thương mại hàng hoá trong Hiệp định TPP được xem là WTO+ vì nó sẽ dỡ bỏ phần lớn và trong thời gian ngắn các rào cản thuế quan và phi thuế quan tiến tới hoàn toàn tự do hoá thương mại. Kịch bản chắc chắn xảy ra sẽ là 
dòng thương mại hàng hoá khổng lồ di chuyển qua biên giới, bao gồm các sản phẩm 
cạnh tranh trực tiếp hoặc gián tiếp với sản phẩm nội địa. Trong bối cảnh đó, các quốc 
gia có kinh nghiệm và chuyên sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại sẽ có những đối 
sách để bảo vệ ngành sản xuất nước sở tại. VN có khả năng lâm vào tình huống “gọng 
kìm”: Thị trường trong nước bị cạnh tranh khốc liệt trong khi xuất khẩu vào thị trường 
nội khối TPP cũng sẽ gặp không ít những khó khăn. Bài báo tập trung phân tích một số 
khía cạnh của vấn đề khả năng sử dụng biện pháp tự vệ thương mại trong khuôn khổ TPP 
và nghiên cứu lịch sử áp dụng biện pháp tự vệ thương mại của các quốc gia thành viên 
TPP; từ đó đưa ra một số lưu ý đối với VN. 
Từ khoá: Biện pháp tự vệ thương mại, Hiệp định TPP, VN.
3
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014
VN Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
việc vận động hành lang Quốc hội 
Mỹ trao TPA (Trade Promotion 
Authority) cho chính phủ Mỹ – 
nhân tố được cho là có vai trò tiên 
quyết trong việc thoả thuận thành 
công các vấn đề nhạy cảm trên bàn 
đàm phán.
Phần lớn các nghiên cứu trong 
và ngoài nước đều thống nhất 
khẳng định VN là thành viên được 
hưởng lợi nhiều nhất sau khi hiệp 
định được thực thi. Petri A. Peter 
(2012) tính toán rằng xuất khẩu 
và GDP của VN có thể tăng thêm 
tương ứng 68 tỷ USD (tương ứng 
28,4%) và 36 tỷ USD (tương ứng 
10,5%) vào năm 2025 đặt trong 
tương quan với kịch bản không 
tham gia vào TPP (tính toán giả lập 
dựa theo mức giá cả năm 2007). 
Tuy nhiên, để đạt được thành tựu 
ấy (hoặc có thể tiến xa hơn), VN 
phải đón nhận và sử dụng một cách 
hiệu quả nhất các cơ hội cũng như 
khắc phục, ứng phó tốt nhất với cả 
những rủi ro, thách thức không hề 
nhỏ. Một trong những vấn đề quan 
trọng của thời hậu TPP mà bài báo 
này muốn bàn luận xuất phát từ 
trụ cột thương mại hàng hoá: Việc 
sử dụng các biện pháp tự vệ trong 
thương mại quốc tế trong khu vực 
TPP. Đây cũng là một trong những 
vấn đề thuộc nhóm chính sách “sau 
đường biên giới” của từng quốc gia 
thành viên mà TPP đang cố gắng 
đàm phán nhằm đưa ra những 
chuẩn mực kiểm soát cân bằng, 
đảm bảo chính sách thương mại 
của từng nước sở tại minh bạch và 
có khả năng tiên liệu được. 
2. Biện pháp tự vệ thương mại 
trong TPP
Ở thời điểm hiện tại tất cả các 
nội dung của TPP vẫn được giữ bí 
mật theo nguyên tắc đàm phán các 
hiệp định thương mại quốc tế. Mặc 
dù vậy, theo Thứ trưởng Bộ Công 
thương Trần Quốc Khánh – Trưởng 
đoàn VN đàm phán TPP, các quốc 
gia nhất trí về một số nội dung then 
chốt, trong đó có lĩnh vực thương 
mại hàng hoá. Thương mại hàng 
hoá trong TPP được xem như là 
WTO+ vì được đàm phán dựa trên 
cơ sở của trụ cột thương mại hàng 
hoá trong WTO nhưng bên cạnh đó 
có những nội dung cam kết ở mức 
cao hơn cùng với những chế tài 
giám sát thực thi mạnh. Trong khi 
WTO duy trì mức thuế quan bình 
quân MFN là 13,4% và có lộ trình 
cắt giảm các dòng thuế dài ngắn 
khác nhau thì TPP hướng đến tự 
do hoá thương mại toàn diện tức là 
xoá bỏ 100% thuế nhập khẩu trong 
đó 90% là xoá bỏ ngay lập tức khi 
Hiệp định có hiệu lực. Đồng thời 
TPP cũng tập trung xử lí các vấn đề 
lớn khác như: Thuế nhập khẩu đối 
với hàng hoá đã qua sử dụng, thuế 
xuất khẩu, đề xuất mở cửa cho một 
số chủng loại hàng hoá tân trang, 
thiết lập các quy định chặt chẽ 
hơn về cấp phép nhập khẩu, xuất 
khẩu; doanh nghiệp độc quyền, đặc 
quyền xuất nhập khẩu (đầu mối), 
quá cảnh hàng hoá,Song song 
đó, về các biện pháp tự vệ thương 
mại, cơ bản các quốc gia nhất trí 
như theo quy định của WTO trong 
Hiệp định Safe Guard (SG) rằng 
nếu có hiện tượng hàng hoá nhập 
khẩu tăng lên một cách bất thường 
gây ra hoặc đe doạ tổn thất nghiêm 
trọng (Serious Injury) đến các nhà 
sản xuất nội địa các sản phẩm tương 
tự thì các quốc gia thành viên được 
quyền sử dụng một số biện pháp tự 
vệ trong thương mại nhằm bảo vệ 
nền sản xuất của mình. Tuy nhiên 
Mỹ và một số nước khác trong 
TPP đưa ra một số đề xuất nới lỏng 
việc thực hiện các biện pháp tự vệ 
trong thương mại để các quốc gia 
thành viên có thể phản ứng nhanh 
hơn trong trường hợp các luồng 
hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột 
biến. Trong WTO, điều kiện để áp 
dụng các biện pháp tự vệ thương 
mại là khá chặt chẽ (chặt hơn so 
với biện pháp chống bán phá giá 
và chống trợ cấp), quốc gia thực thi 
biện pháp cần chứng minh được 
mình bị thiệt hại một cách “nghiêm 
trọng” tức là sự suy giảm phải ở 
mức toàn diện đáng kể gây ra hoặc 
đe doạ gây ra tổn thất lớn đến vị 
trí của ngành công nghiệp nội địa. 
Giờ đây, trong khuôn khổ TPP, các 
tiêu chuẩn chặt chẽ ấy trong Hiệp 
định SG sẽ được quy định thoáng 
hơn, linh hoạt hơn, đồng nghĩa với 
khả năng số lượng các biện pháp 
tự vệ thương mại sẽ tăng lên đáng 
kể, các nước thành viên sẽ tích cực 
tận dụng tự vệ thương mại như là 
một công cụ hiệu quả, kịp thời để 
bảo vệ nền sản xuất trong nước. 
Có thể nói mục đích cuối cùng của 
các biện pháp tự vệ không phải là 
nhằm đưa cạnh tranh trở lại vị trí 
cân bằng như trong trường hợp 
của chống bán phá giá và chống 
trợ cấp, mà là nhằm để bảo vệ nền 
sản xuất nội địa khi bị đe doạ bởi 
bởi hàng hoá nhập khẩu tăng lên 
đột biến. Ý nghĩa của biện pháp tự 
vệ trong thương mại chính là muốn 
khắc phục sự chênh lệch trình độ 
của các nền kinh tế khi tham gia 
vào sân chơi thương mại quốc tế, 
giúp cho các nền kinh tế tự điều 
chỉnh cơ cấu, các ngành sản xuất 
dần được thích nghi với nền kinh tế 
trong khu vực, từ đó tạo điều kiện 
tốt hơn để các nước tham gia vào 
quá trình phân công lao động quốc 
tế, góp phần đảm bảo lợi ích cho 
tất cả các quốc gia khi hội nhập vào 
nền kinh tế khu vực. Nếu xét trên 
khía cạnh công bằng thì nếu các 
biện pháp phòng vệ thương mại 
khác có vai trò đảm bảo tính công 
4
Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
VN Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
bằng theo chiều ngang, thì các biện 
pháp tự vệ thương mại có ý nghĩa 
nhằm đảm bảo tính công bằng theo 
chiều dọc tức là các ngành sản xuất 
có trình độ khác nhau thì cần phải 
được đối xử khác nhau, đảm bảo 
lợi ích được phân chia một cách 
hợp lí giữa các nền kinh tế. 
Vậy có thể thấy TPP một mặt 
mong muốn tự do hoá thương mại 
hàng hoá giữa các nước thành viên 
được diễn ra mạnh mẽ và toàn diện 
hơn nhưng mặt khác, bằng cách 
nới lỏng một số quy định trong 
nội dung các biện pháp tự vệ đã 
trao cho mỗi thành viên quyền 
kiểm soát, ở mức độ nào đó, luồng 
thương mại hàng hoá đi qua quốc 
gia mình, nghĩa là TPP cân nhắc 
rất cẩn trọng đến việc có được một 
kết quả phát triển tổng thể cân bằng 
cho tất cả các quốc gia thành viên, 
chứ không phải là tự do thương 
mại hàng hoá toàn diện bằng mọi 
giá. 
3. Lịch sử áp dụng các biện pháp 
tự vệ trong thương mại của các 
quốc gia thành viên TPP
Tác giả xem xét các vụ việc khởi 
xướng điều tra tự vệ của các nước 
trong thời gian vừa qua dưới Hiệp 
định SG của WTO để góp phần dự 
đoán xu hướng và xác suất sử dụng 
biện pháp tự vệ thương mại của các 
quốc gia này. Bảng dưới đây tổng 
hợp tất cả số vụ việc khởi xướng 
điều tra tự vệ của các nước có báo 
cáo về WTO trong giai đoạn 1995-
2013.
Trong 12 nước thành viên TPP, 
tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có 4 
nước Singapore, Malaysia, Brunei, 
và New Zealand là chưa từng khởi 
xướng điều tra tự vệ thương mại. 
Nhưng thực tế này chỉ xét trong 
khuôn khổ Hiệp định SG của 
WTO. Khi TPP có hiệu lực, với 
dòng thương mại hàng hoá khổng 
lồ dịch chuyển qua biên giới hải 
quan với tốc độ nhanh, cường độ 
mạnh (do những thoả thuận tạo 
thuận lợi thương mại nội khối như 
hợp tác hải quan riêng biệt,) cộng 
với quy định có thể sẽ nới lỏng tiêu 
chuẩn áp dụng trong các biện pháp 
tự vệ, không loại trừ khả năng 4 
quốc gia này sẽ khởi xướng các vụ 
điều tra tự vệ thương mại để bảo vệ 
nền sản xuất nội địa. Xác suất cao 
nhất vẫn rơi vào Malaysia khi mà 
trình độ sản xuất của một số ngành 
công nghiệp nội địa của quốc gia 
này vẫn còn tương đối thấp trong 
tương quan với Singapore và New 
Zealand (Brunei không tập trung 
mũi nhọn vào các ngành công 
nghiệp sản xuất hàng hoá). 
8 quốc gia thành viên còn lại 
của TPP đã từng hơn một lần sử 
dụng công cụ tự vệ thương mại 
dưới khuôn khổ của SG. Trong đó 
nhóm dẫn đầu là Chile và Mỹ. Đây 
là hai quốc gia có truyền thống sử 
dụng các công cụ phòng vệ thương 
mại nói chung và tự vệ thương 
mại nói riêng để bảo hộ nền sản 
xuất nội địa. Tuy nhiên, họ không 
tiến hành tự vệ tràn lan mà chỉ tập 
trung vào các ngành công nghiệp 
chế biến sản phẩm từ động vật, rau 
củ quả (Chile) và sản phẩm luyện 
kim, nông sản (Mỹ). Là các thành 
viên kì cựu của WTO, có thể nói 
hai quốc gia gần như xem việc tích 
cực sử dụng các công cụ tự vệ trong 
thương mại như một việc làm bình 
thường, một biện pháp sẵn sàng 
tiến hành (dĩ nhiên dưới các quy 
định của SG) để bảo vệ các ngành 
sản xuất. Bên cạnh đó, sự liên kết 
cũng như việc vận động hành lang 
của nhà sản xuất tại các quốc gia 
này rất tốt để ảnh hưởng đến các 
cơ quan hoạch định chính sách liên 
quan. Cộng đồng các doanh nghiệp 
ở đây ý thức việc sử dụng công cụ 
tự vệ như một thói quen để ứng 
phó với áp lực hàng nhập khẩu có 
năng lực cạnh tranh tốt hơn hàng 
của họ. Tiếp sau Mỹ và Chile, bốn 
quốc gia Canada (03 vụ), Mexico, 
Australia và Peru (mỗi nước 02 vụ) 
thuộc nhóm các nước có ý thức sử 
dụng công cụ tự vệ thương mại. 
Tuy số vụ việc không nhiều bằng 
Mỹ và Chile, nhưng ở các quốc 
gia này, từ chính quyền và cộng 
đồng các nhà sản xuất nội địa luôn 
ở vị trí sẵn sàng khởi xướng điều 
tra và áp dụng các biện pháp tự vệ 
nếu thực sự cần thiết. Họ tập trung 
bảo hộ các ngành hàng như: thiết 
bị lắp ráp phương tiện giao thông 
(Canada), các sản phẩm chế biến từ 
động vật (Australia), sản phẩm gỗ 
(Mexico), sản phẩm điện tử (Peru). 
Riêng VN đến thời điểm hiện 
tại chúng ta chỉ mới thực hiện 
khởi xướng điều tra tự vệ thương 
mại trong 02 vụ việc: Một vụ có bị 
bác bỏ và một vụ có kết quả cuối 
cùng là áp dụng biện pháp tự vệ. 
Ngày 5/5/2009, Tổng công ty Thủy 
tinh và Gốm xây dựng đã nộp đơn 
đến Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ 
Quốc gia Chile Mỹ Canada Australia Mexico Peru Nhật VN Tổng số 
Số vụ việc 13 10 3 2 2 2 1 1 34
Bảng 1. Tổng hợp số liệu các vụ khởi xướng điều tra tự vệ thương mại của một số quốc gia 
thành viên TPP trong giai đoạn 1995-2013
Nguồn: WTO, 2014
5
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014
VN Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Công thương) yêu cầu điều tra 
và áp dụng biện pháp tự vệ đối 
với các sản phẩm kính nổi nhập 
khẩu. Ngày 23/2/2010, Cục quyết 
định chấm dứt điều tra và không 
áp đặt biện pháp tự vệ đối với 
mặt hàng trên. Vụ việc số 2, ngày 
30/11/2012: Tổng công ty Công 
nghiệp Dầu thực vật VN gửi đơn 
đến Cục Quản lý cạnh tranh yêu 
cầu áp dụng biện pháp tự vệ đối 
với mặt hàng dầu đậu nành và dầu 
cọ nhập khẩu. Tháng 4/2013, Bộ 
Công thương quyết định áp dụng 
thuế nhập khẩu tạm thời 5% đối 
với dầu nành và dầu cọ nhập khẩu 
từ ngày 7/5/2013, thời hạn không 
quá 200 ngày. Như vậy trong thời 
gian vừa qua, VN đã bắt đầu ý thức 
được việc sử dụng các công cụ 
tự vệ trong thương mại để bảo vệ 
nền sản xuất nội địa tại một số mặt 
hàng chúng ta chưa có năng lực 
cạnh tranh cao hoặc mới đi vào quá 
trình phát triển. Các doanh nghiệp 
bắt đầu quan tâm đến việc tận dụng 
các quy định của pháp luật trong 
nước và quốc tế cho phép để bảo 
vệ lợi ích của mình. 
Tuy nhiên, tầm quan trọng của 
việc sử dụng các công cụ tự vệ 
trong thương mại vẫn chưa được 
nhận thức đầy đủ trong cộng đồng 
các nhà sản xuất và tình hình áp 
dụng những công cụ như vậy vẫn 
chưa đủ mạnh và triệt để. Khảo 
sát của VCCI cho thấy chỉ 66% 
doanh nghiệp hiểu các nội dung 
cơ bản trong các hiệp định của 
WTO, trong đó chưa đầy 35% 
hiểu các cam kết gia nhập WTO 
của VN liên quan đến ngành và 
lĩnh vực của chính mình. Bên cạnh 
đó, nhiều doanh nghiệp chỉ chú ý 
đến hàng xuất khẩu mà bỏ quên thị 
trường nội địa. Trong khi đến thời 
điểm hiện tại đã và đang phải gánh 
chịu khoảng 70 vụ kiện phòng 
vệ thương mại thì những loại sản 
phẩm VN đang nhập khẩu như hoá 
chất, nhựa, kim loại, điện tử, đồ gia 
dụng, lại là đối tượng bị áp dụng 
các biện pháp tự vệ thương mại ở 
nước ngoài nhưng hầu như không 
bị đụng đến khi nhập khẩu vào thị 
trường Việt. Kinh nghiệm và thực 
tiễn áp dụng chúng ta đã yếu trong 
khi năng lực cạnh tranh của một số 
ngành nghề sản xuất lại kém xa so 
với Malaysia, Chile, Peru chưa nói 
đến Mỹ, Nhật hay Autralia: Năng 
suất thấp hơn trong tương quan so 
sánh, chủ yếu dựa vào thâm dụng 
vốn và lao động, dựa vào khai thác 
lợi thế tĩnh mà bỏ qua việc đầu tư, 
phát triển để tạo ra lợi thế động. 
Tới đây khi TPP đi vào hiện 
thực, dòng thương mại hàng hoá 
khổng lồ di chuyển qua biên giới, 
sẽ có những mặt hàng cạnh tranh 
trực tiếp hoặc gián tiếp với các sản 
phẩm nội địa. Các quốc gia có kinh 
nghiệm và chuyên sử dụng tự vệ 
thương mại chắc chắn sẽ có những 
đối sách để bảo vệ ngành sản xuất 
nước sở tại. VN có khả năng lâm 
vào tình huống “gọng kìm”: Thị 
trường trong nước bị cạnh tranh 
khốc liệt trong khi xuất khẩu vào 
thị trường nội khối TPP cũng sẽ gặp 
không ít những khó khăn. Lường 
trước một kịch bản tổng quát như 
vậy, VN từ giới doanh nghiệp đến 
các nhà hoạch định chính sách phải 
có được những sách lược và chiến 
lược phù hợp để ứng phó với các 
tình huống khác nhau. 
4. Một số lưu ý đối với VN
4.1. Đối với các doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần ý thức toàn 
diện và sâu sắc về việc bảo vệ 
quyền lợi của mình trong sân chơi 
thương mại thông qua việc am hiểu 
các quy định của pháp luật trong 
nước và quốc tế. Hiện tại, chúng 
ta đã có đầy đủ các quy định pháp 
luật phù hợp với thông lệ quốc tế để 
tiến hành khởi xướng điều tra tự vệ 
thương mại. Sắp tới để đáp ứng các 
quy định mới trong TPP, sẽ có một 
số những thay đổi bổ sung cho phù 
hợp nhưng về cơ bản là vẫn tương 
tự như các nguyên tắc như trong 
khuôn khổ WTO trước đây. Vậy 
có thể nói hành lang pháp lí chúng 
ta không thiếu, cái thiếu chính là 
ý thức và quyết tâm của doanh 
nghiệp trong việc sử dụng các 
biện pháp tự vệ thương mại để bảo 
vệ lợi ích thiết thân của mình. Vì 
theo nguyên tắc, doanh nghiệp có 
nộp đơn yêu cầu khởi xướng điều 
tra tự vệ thì các cơ quan hữu quan 
mới vào cuộc được; nên dù cho 
Nhà nước có mong muốn bảo vệ 
sản xuất trong nước đến bao nhiêu 
nhưng nếu doanh nghiệp không 
hợp tác tốt thì khó mà thực hiện 
được. Muốn như vậy, các doanh 
nghiệp nên từ bỏ tâm lí e ngại kiện 
tụng, tốn kém chi phí và phải liên 
kết, hợp tác chặt chẽ với nhau trong 
việc vận động hành lang, thu thập 
các bằng chứng hợp pháp, tham 
vấn hiệu quả, khi theo đuổi các 
vụ kiện để đáp ứng được các tiêu 
chuẩn cần thiết cho việc thực thi 
các biện pháp tự vệ. Thực tế trong 
hai vụ khởi xướng điều tra tự vệ 
vừa qua, chỉ có 1 đến 2 doanh 
nghiệp lớn trong ngành là đi đầu 
và theo đuổi vụ kiện đến cùng. Bài 
học kinh nghiệm từ các nước thành 
viên khác cho thấy chúng ta cần có 
một sự hợp tác mạnh mẽ, toàn diện 
và chuyên nghiệp hơn nữa từ chính 
những doanh nghiệp cầm đơn đi 
kiện này. 
Sẽ là thiếu sót lớn nếu không 
nhắc tới vai trò của các tổ chức, hiệp 
hội các ngành nghề. Đơn cử như vai 
trò của VASEP (The Vietnamese 
Association of Seafood Exporters 
and Producers) và VCCI được thể 
6
Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
VN Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
hiện rất rõ trong vụ kiện phòng vệ 
đầu tiên của VN tại WTO. Dù đây 
là chiến thắng đầu tiên của một vụ 
kiện liên quan đến chống bán phá 
giá nhưng đã chỉ rõ được vai trò to 
lớn của các hiệp hội ngành nghề 
trong việc vận động hành lang, tư 
vấn pháp lí thậm chí đi cùng doanh 
nghiệp theo đuổi vụ việc. Kinh 
nghiệm này cần được áp dụng mở 
rộng sang các vụ khởi xướng điều 
tra tự vệ trong thương mại ngay từ 
trên chính “sân nhà”. 
4.2. Đối với các nhà hoạch định 
chính sách
Tuy được thừa nhận rộng rãi 
trong thương mại quốc tế nhưng 
khác với các công cụ phòng vệ 
khác, biện pháp tự vệ trong thương 
mại không phải là một công cụ 
“miễn phí”. Theo quy định của 
WTO, nước áp dụng biện pháp tự 
vệ phải bồi thương tổn thất thương 
mại cho các nước xuất khẩu có liên 
quan (thường là việc tự nguyện 
giảm thuế nhập khẩu cho một số 
nhóm hàng hoá khác đến từ chính 
các nước xuất khẩu đó). Nếu không 
đạt được các thoả thuận đền bù, 
nước xuất khẩu được quyền thực 
thi các biện pháp trả đũa thương 
mại (rút lại những nghĩa vụ nào đó 
trong WTO bao gồm cả việc rút lại 
các nhượng bộ về thuế quan). Trong 
khuôn khổ của TPP, đương nhiên 
sẽ có một số thay đổi tuỳ thuộc vào 
kết quả đàm phán cuối cùng nhưng 
rất ít có khả năng những quy định 
này được thay đổi cơ bản hay làm 
khác đi. Bởi lẽ bản chất của tự vệ 
thương mại không phải xuất phát 
từ các nhân tố khách quan là cạnh 
tranh không lành mạnh mà chính là 
từ yếu tố chủ quan của nước nhập 
khẩu: Năng lực cạnh tranh còn yếu 
kém của các ngành sản xuất nội 
địa. Các nước muốn áp dụng tự vệ 
thì phải cam kết đưa ra nhượng bộ 
thương mại như là một cách đền 
bù cho các nước có liên quan. Bản 
chất tự vệ trong thương mại là công 
cụ phải “trả tiền” như vậy nên VN 
phải cân nhắc kĩ lưỡng tổng thể các 
yếu tố được và mất trước khi khởi 
xướng điều tra và đưa ra kết luận 
cuối cùng. Không nên lạm dụng 
tự vệ thương mại như là một biện 
pháp bảo hộ quá mức các ngành sản 
xuất trong nước. Chỉ nên bảo hộ có 
chọn lọc đối với những ngành như 
sản xuất nông sản, thiết bị gia dụng, 
vật liệu xây dựng,vốn là những 
ngành có năng lực cạnh tranh còn 
non yếu so với các thành viên khác 
trong TPP. Nếu như ngành nào 
cũng bảo vệ thì có khả năng sẽ tạo 
ra tâm lí ỷ lại và không nỗ lực đổi 
mới công nghệ, nâng cao năng suất 
lao động cho các doanh nghiệp, 
nội lực nền kinh tế khi đó lại càng 
suy yếu. Hơn nữa, hiện tại chúng 
ta không có đủ chi phí để áp dụng 
nhiều biện pháp tự vệ thương mại 
cùng một lúc. Cần chấp nhận một 
thực tế là một số ngành hoạt động 
không hiệu quả thì buộc phải sụp 
đổ dưới áp lực thương mại quốc 
tế, nguồn lực của nền kinh tế khi 
đó sẽ di chuyển đến những ngành 
sản xuất hiệu quả hơn. Đây chính 
là tác động hai mặt của bất cứ liên 
kết kinh tế nào và TPP cũng không 
phải là ngoại lệ. 
Song song với việc sử dụng các 
biện pháp tự vệ trong thương mại, 
về lâu dài cần phải có những chính 
sách, hỗ trợ để nâng cao năng lực 
cạnh tranh của các ngành sản như 
vừa đề cập trên đây. Đây chính là 
việc làm cấp thiết nhất, mang tính 
chiến lược lâu dài và cần được 
thực hiện ngay. Vì cho dù có áp 
dụng thành công biện pháp tự vệ 
chúng ta vẫn bị giới hạn về mức độ 
tự vệ (chỉ được áp dụng biện pháp 
tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn 
chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và 
tạo điều kiện để sản xuất nội địa 
điều chỉnh), thời hạn tự vệ (không 
được kéo dài quá 4 năm) và gia hạn 
tự vệ tổng cộng thời gian áp dụng 
và gia hạn không được quá 8 năm. 
TPP rất có khả năng quy định dựa 
trên các nội dung này hoặc thậm 
chí khắt khe hơn. Do đó, từ thời 
điểm hiện tại đến khi TPP đi vào 
hiệu lực (dự kiến năm 2014), các 
bên có liên quan cần tích cực hợp 
tác, rà soát các ngành sản xuất nội 
địa dễ bị tổn thương để trang bị 
từ trước cho họ khả năng bị cạnh 
tranh bởi hàng nhập khẩu và thúc 
đẩy các biện pháp lâu dài hỗ trợ 
doanh nghiệp gia tăng năng lực 
cạnh tranhl
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Brock R. Williams (2013), Trans-Pacific 
Partnership (TPP) Countries: 
Comparative Trade and Economic 
Analysis, Congressional Research 
Service, Washington DC. 
Cấn Văn Lực (2014), Toạ đàm “TPP – Điều 
gì ở phía trước”. 
Cục Quản lí cạnh tranh, Bộ Công thương 
(2010), Hội thảo “Các biện pháp phòng 
vệ thương mại đối với hàng hoá nhập 
khẩu: Doanh nghiệp VN cần trang bị 
những gì”. 
Hiệp định các biện pháp tự vệ của WTO 
(Agreement on Safeguards). 
Petri, Michael G. Plummer & Fan Zhai 
(2011), The Trans-Pacific Partnetship 
and Asia – Pacific Integration: A 
Quantiative Assessment, Washington: 
Peterson Institute for International 
Economics.
Outlines of the Trans-Pacific Partnership 
Agreement, Truy cập ngày 12/04/2014 
tại 
office/fact-sheets/2011/november/
outlines-trans-pacific-partnership-
agreement.
Trần Quốc Khánh (2013), Hội nghị “TPP và 
quá trình tham gia của VN”. 
7

File đính kèm:

  • pdfkha_nang_su_dung_cac_bien_phap_tu_ve_trong_thuong_mai_quoc_t.pdf