Kết quả ban đầu nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn trong điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng thấp
Nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn trong điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng thấp là kỹ thuật
mới bảo tồn cơ thắt hậu môn, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh nhưng chưa được phổ biến
rộng rãi tại các cơ sở y tế. Từ tháng 7/2015 đến tháng 6/2017 chúng tôi thực hiện phẫu thuật cắt đoạn trực
tràng, nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn cho 9 bệnh nhân ung thư trực tràng thấp với tuổi trung
bình là 57,5, tỉ lệ nam/ nữ là 3/6. Khoảng cách từ rìa hậu môn tới bờ dưới u trung bình 4,0 cm. Khoảng
cách u và diện cắt dưới < 2cm="" có="" 5/9="" trường="" hợp.="" có="" 2="" bệnh="" nhân="" giai="" đoạn="" t1,="" 3="" bệnh="" nhân="" giai="" đoạn="">
4 bệnh nhân giai đoạn T3. Thời gian mổ trung bình là 265 phút. Có 01 trường hợp rò miệng nối ngày thứ
7 sau mổ được điều trị bảo tồn thành công. Có 3 trường hợp đại tiện nhiều lần sau mổ (hơn 3 lần/ ngày).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ban đầu nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn trong điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng thấp
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 2019 95 KẾT QUẢ BAN ĐẦU NỐI ĐẠI TRỰC TRÀNG THẤP QUA ĐƯỜNG HẬU MÔN TRONG ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT UNG THƯ TRỰC TRÀNG THẤP Phạm Hoàng Hà1,2, Nguyễn Đăng Hưng1,2 1Bộ môn Ngoại, Trường Đại học Y Hà Nội 2Khoa Phẫu thuật tiêu hóa, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn trong điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng thấp là kỹ thuật mới bảo tồn cơ thắt hậu môn, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh nhưng chưa được phổ biến rộng rãi tại các cơ sở y tế. Từ tháng 7/2015 đến tháng 6/2017 chúng tôi thực hiện phẫu thuật cắt đoạn trực tràng, nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn cho 9 bệnh nhân ung thư trực tràng thấp với tuổi trung bình là 57,5, tỉ lệ nam/ nữ là 3/6. Khoảng cách từ rìa hậu môn tới bờ dưới u trung bình 4,0 cm. Khoảng cách u và diện cắt dưới < 2cm có 5/9 trường hợp. Có 2 bệnh nhân giai đoạn T1, 3 bệnh nhân giai đoạn T2, 4 bệnh nhân giai đoạn T3. Thời gian mổ trung bình là 265 phút. Có 01 trường hợp rò miệng nối ngày thứ 7 sau mổ được điều trị bảo tồn thành công. Có 3 trường hợp đại tiện nhiều lần sau mổ (hơn 3 lần/ ngày). I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: Ung thư trực tràng thấp; nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn; cắt đoạn trực tràng. Điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây, vừa bảo đảm tính triệt căn điều trị ung thư, vừa cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau phẫu thuật. Thời gian sống thêm sau mổ ngày càng cải thiện nhờ việc phát hiện sớm bệnh và sự phát triển của các kỹ thuật mổ. Việc bảo tồn chức năng hậu môn sau mổ trở nên rất quan trọng nhất là trong trường hợp ung thư trực tràng thấp. Trước đây, phẫu thuật cắt cụt trực tràng được coi là phẫu thuật điều trị triệt để đối với ung thư trực tràng thấp nhưng những hiểu biết gần đây về sự lan truyền tế bào ung thư ở phần trực tràng thấp cho thấy phẫu thuật bảo tồn cơ thắt không ảnh hưởng đến thời gian sống thêm cũng như đến tỷ lệ tái phát tại chỗ nếu đạt được diện cắt an toàn cách khối u ít nhất 2 cm [1]. Tuy nhiên, việc cắt trực tràng phần thấp để đạt được diện cắt an toàn không dễ thực hiện qua đường bụng. Những tiến bộ trong kỹ thuật mổ như sử dụng máy nối vòng, kỹ thuật nối trực tràng qua ống hậu môn đã góp phần mở rộng ứng dụng phẫu thuật bảo tồn cơ thắt hậu môn. Hiện nay, phương pháp phẫu thuật chuẩn điều trị ung thư trực tràng thấp là cắt toàn bộ mạc treo trực tràng với bảo tồn cơ thắt hậu môn bằng miệng nối đại - trực tràng thấp hoặc đại tràng - ống hậu môn. Phẫu thuật bảo tồn cơ thắt có kết quả về ung thư tương đương phẫu thuật cắt cụt trực tràng mà lại tránh được việc làm hậu môn nhân tạo vĩnh viễn, khó được bệnh nhân chấp nhận. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh phẫu thuật cắt trực tràng đường bụng và nối đại - trực tràng thấp qua đường hậu môn có thể thực hiện an toàn, kết quả chức năng cơ thắt tốt, tỷ lệ tái phát Tác giả liên hệ: Phạm Hoàng Hà, Bộ môn Ngoại, Trường Đại học Y Hà Nội Email: phamhoangha@hmu.edu.vn Ngày nhận: 25/02/2019 Ngày được chấp nhận: 31/03/2019 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 201996 tại chỗ thấp với khoảng 4,8 % [2 - 4]. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả sớm của kỹ thuật nối đại - trực tràng thấp qua đường hậu môn trong điều trị ung thư trực tràng thấp. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư trực tràng thấp, được phẫu thuật cắt đoạn trực tràng, nối đại - trực tràng thấp qua đường hậu môn tại Khoa Phẫu thuật tiêu hóa – Bệnh viện Việt Đức từ tháng 7/2015 tới tháng 6/2017. - Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Ung thư biểu mô tuyến của trực tràng (có kết quả giải phẫu bệnh sau mổ); cực dưới u cách rìa hậu môn ≤ 7 cm (xác định bằng soi trực tràng và thăm trực tràng). - Tiêu chuẩn loại trừ: + Ung thư trực tràng giai đoạn T4 được đánh giá bằng lâm sàng (thăm trực tràng u không di động, xâm lấn thành âm đạo) và cận lâm sàng (chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ hoặc siêu âm nội soi trực tràng). + Các trường hợp mổ cắt đoạn trực tràng và làm miệng nối trực tràng bằng máy hoặc nối qua đường bụng. 2. Phương pháp Mô tả loạt bệnh - Quy trình nghiên cứu: chọn bệnh nhân vào nhóm nghiên cứu theo tiêu chuẩn chọn bệnh nhân, tiến hành điều trị phẫu thuật theo quy trình thống nhất, theo dõi sau mổ đánh giá kết quả phẫu thuật - Quy trình phẫu thuật: + Cắt đoạn trực tràng và mạc treo: phẫu thuật mổ mở hoặc mổ nội soi, giải phóng trực tràng và mạc treo đến sát cơ nâng hậu môn, giải phóng đại tràng trái, hạ đại tràng góc lách, thắt động mạch mạc treo tràng dưới tận gốc hoặc dưới chỗ chia của động mạch đại tràng trái trên, cắt toàn bộ mạc treo trực tràng. + Nối đại - trực tràng thấp qua đường hậu môn: bệnh nhân để tư thế sản khoa, dùng hệ thống van Lone-Star bộc lộ ống hậu môn, đường lược và phần trực tràng thấp, đánh dấu vòng diện cắt dưới trực tràng (cách bờ dưới u ít nhất 2 cm) bằng dao điện, cắt đôi trực tràng theo diện cắt đánh dấu (sinh thiết tức thì diện cắt dưới, nếu còn tế bào ung thư thì chuyển sang cắt cụt trực tràng), khâu kín đầu trên trực tràng, kéo trực tràng ra ngoài qua lỗ hậu môn, cắt đoạn trực tràng, toàn bộ mạc treo và 1 phần đại tràng sigma (diện cắt trên cách u ít nhất 8 cm). Thực hiện miệng nối đại - trực tràng thấp tận - tận 1 lớp mũi rời chỉ Vicryl 4/0. Trường hợp tạo hình túi chứa phân thì gập đôi đầu trên đại tràng, tạo túi chứa phân dài 6 cm bằng máy cắt thẳng, nối túi chứa phân với đầu dưới trực tràng 1 lớp mũi rời chỉ Vicryl 4/0. - Các biến số nghiên cứu: đặc điểm u (vị trí, kích thước, độ di động, giai đoạn bệnh...); kỹ thuật mổ (đường mổ, kiểu thắt động mạch mạc treo tràng dưới, làm mở thông hồi tràng bảo vệ miệng nối, khoảng cách miệng nối tới rìa hậu môn, tạo hình túi chứa phân...); kết quả phẫu thuật (thời gian mổ, thời gian nằm viện, biến chứng sau mổ, số lần đại tiện/ngày...). 3. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu tuyệt đối tuân thủ các quy định về đạo đức trong nghiên cứu y sinh. Bệnh nhân tự nguyện chấp nhận tham gia vào nghiên cứu. Các thông tin cá nhân sẽ được bảo mật. III. KẾT QUẢ Nghiên cứu trên 9 bệnh nhân ung thư trực tràng thấp được phẫu thuật cắt đoạn trực tràng và toàn bộ mạc treo trực tràng, làm miệng nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn tại Khoa Phẫu thuật tiêu hóa – Bệnh viện Việt Đức từ tháng 7 /2015 tới tháng 6/2017 với những kết quả sau: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 2019 97 Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân trước mổ Đặc điểm bệnh nhân n Tuổi (trung bình ± độ lệch chuẩn) 57,52 ± 10,03 Giới Nam 3 Nữ 6 Chỉ số khối cơ thể Bình thường 7/9 Suy dinh dưỡng 1/9 Béo phì 1/9 Đặc điểm u Khoảng cách bờ dưới u tới mép hậu môn (trung bình ± độ lệch chuẩn) 4,03 ± 1,83 Sờ thấy bờ trên u 5/9 Còn di động 7/9 Bảng 2. Kỹ thuật mổ Kỹ thuật mổ n Đường mổ Nội soi 6/9 Mổ mở 3/9 Thắt động mạch mạc treo tràng dưới Thắt cao 5/9 Thắt thấp 4/9 Mở thông hồi tràng bảo vệ 2/9 Khoảng cách miệng nối tới mép hậu môn 1 – 2 cm 4/9 > 2 cm 5/9 Tạo hình túi chứa phân 2/9 Bảng 3. Đặc điểm giải phẫu bệnh Đặc điểm u trực tràng Đường kính u (trung bình ± độ lệch chuẩn) 4,24 ± 1,39 Khoảng cách u và diện cắt dưới > 2 cm 4/9 1- 2 cm 5/9 Giai đoạn bệnh T1 – T2 – T3 – T4 2 - 3 - 4 - 0 N0/N1 7/2 M0/M1 9/0 Số lượng hạch nạo vét trung bình 7,92 ± 3,12 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 201998 Bảng 4. Kết quả phẫu thuật Kết quả phẫu thuật Thời gian mổ (phút) (trung bình ± độ lệch chuẩn) 265,33 ± 65,01 Thời gian nằm viện sau mổ (ngày) (trung bình ± độ lệch chuẩn) 12,92 ± 2,43 Biến chứng sau mổ Rò miệng nối 1 Nhiễm trùng vết mổ 0 Chảy máu sau mổ 0 Áp xe trong ổ bụng 0 Viêm phúc mạc sau mổ 0 Số lần đại tiện/ngày 1 2 2 4 ≥ 3 3 Thời gian rút sonde bàng quang (ngày) 3,41 ± 1,13 IV. BÀN LUẬN Điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Kể từ khi kỹ thuật cắt toàn bộ mạc treo trực tràng được Heald giới thiệu [2; 3], những tiến bộ về kỹ thuật mổ kết hợp với những nghiên cứu mới về sinh lý bệnh của ung thư trực tràng đã giúp kéo dài đáng kể thời gian sống thêm sau mổ, đồng thời giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ. Về chỉ định của phẫu thuật, với những khối u trực tràng cách rìa hậu môn dưới 7 cm cách rìa hậu môn, nếu tổn thương u không xâm lấn tạng lân cận (T4b), không có các yếu tố nguy cơ phối hợp khác như tình trạng giảm trương lực cơ thắt, bệnh lý hô hấp, tim mạch kèm theo, đều có thể phẫu thuật cắt đoạn trực tràng và toàn bộ mạc treo trực tràng, bảo tồn cơ thắt hậu môn với miệng nối đại - trực tràng thấp hoặc đại tràng - ống hậu môn. Vị trí của miệng nối trực tràng phụ thuộc vào diện cắt dưới trực tràng. Về mặt ung thư học, diện cắt dưới cách bờ dưới u 1 cm được coi là an toàn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, u trực tràng chủ yếu được phẫu thuật ở giai đoạn T2 và T3, không có bệnh nhân nào giai đoạn T4. Chúng tôi đánh giá mức độ xâm lấn của khối u đối với thành trực tràng và tổ chức xung quanh bằng thăm trực tràng và chụp phim cộng hưởng từ trực tràng, từ đó đưa ra chỉ định phẫu thuật và lựa chọn phương pháp làm miệng nối. Kết quả của chúng tôi có 4 trường hợp khoảng cách từ diện cắt dưới và bờ dưới u lớn hơn 2cm, có 5 trường hợp từ 1 - 2 cm, tất cả các diện cắt đều được sinh thiết tức thì trả lời kết quả âm tính. Theo khuyến cáo của hiệp hội ung thư quốc tế (NCCN) năm 2001 [1] , diện cắt dưới lý tưởng khi ≥ 2 cm, tính từ mép dưới của khối u (phần xuất phát từ thành trực tràng) đến diện cắt niêm mạc dự kiến. Chiều dài này được đo một cách tự nhiên, trong điều kiện mẫu bệnh phẩm được giữ nguyên hình thái hoặc được cố định trong Formon. Mép cắt dưới được đánh giá khi toàn bộ chu vi thành trực tràng được cắt bỏ. Nếu bờ dưới u cách đường lược ≥ 2 cm thì miệng nối sẽ nằm ngay trên hoặc ngang mức đường lược, nếu diện cắt dưới an toàn nằm ở vị trí giữa đường lược và rãnh cơ thắt trong, chỉ định cắt cơ thắt trong bán phần, khi khối u TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 2019 99 đã lan tới đường lược, chỉ định cắt toàn bộ cơ thắt trong, khi khối u xâm lấn vào cơ nâng, cơ mu trực tràng, cơ thắt ngoài thì phẫu thuật cắt cụt trực tràng. Nghiên cứu của Martellucci [4] trên 186 trường hợp ung thư trực tràng 1/3 giữa và dưới có 5% u T1, 37% T2, 52,5% T3 và 6% T4, tức là u giai đoạn T3 chiếm đa số, vẫn có một tỷ lệ nhỏ u giai đoạn T4, 51% bệnh nhân có di căn hạch. Số lượng hạch nạo vét được trung bình là 14 (từ 6 – 49). Nghiên cứu của chúng tôi có số lượng hạch nạo vét trung bình 7,92 hạch. Về kết quả sớm của phẫu thuật, sự tiến bộ về ung thư học và các nghiên cứu về sàn chậu học đã giúp thực hiện phẫu thuật cắt trực tràng thấp, bảo tồn cơ thắt hậu môn bảo đảm an toàn về mặt ung thư học và cải thiện chất lượng cuộc sống sau mổ mà quan trọng nhất là duy trì chức năng hậu môn. Số lần đại tiện/ ngày, tỷ lệ són phân, mót rặn là những triệu chứng của hội chứng sau cắt đoạn trực tràng. Khoảng 60% bệnh nhân có biểu hiện ỉa không tự chủ ở mức độ khác nhau, 1/3 số bệnh nhân có biểu hiện đại tiện nhiều lần và mót rặn [4 - 6]. Giảm chức năng hậu môn trực tràng sau mổ là do suy giảm dung tích bóng trực tràng và phản ứng theo lệnh của nó (với yêu cầu của cơ thể) hơn là suy giảm chức năng cơ thắt [5; 6]. Nghiên cứu của chúng tôi có 3/9 bệnh nhân có dấu hiệu đại tiện hơn 3 lần/ ngày và mót rặn, trong số này không có bệnh nhân nào được tạo hình túi chứa phân. Việc tạo hình túi chứa phân bằng đại tràng quai J sẽ giúp sớm bảo tồn chức năng như đoạn trực tràng đã cắt. Kết quả của chúng tôi không có bệnh nhân tử vong sau mổ, thời gian phẫu thuật là 265,33 ± 65,01 phút, thời gian nằm viện là 12,92 ± 2,43 ngày, biến chứng sau mổ có 01 bệnh nhân bị rò miệng nối được điều trị bảo tồn thành công. Bệnh nhân này tuổi cao, được phẫu thuật nội soi và làm miệng nối thấp, không được làm mở thông hồi tràng bảo vệ. Về mặt lý thuyết, hậu môn nhân tạo bảo vệ trong miệng nối đại trực tràng thấp giúp miệng nối sạch và giúp giảm áp lực trong lòng ruột. Theo nghiên cứu hồi cứu năm 2015 của tác giả Wen-long Gu [7] thì hậu môn nhân tạo bảo vệ trong miệng nối thấp và rất thấp có vai trò rất quan trọng: giảm tỷ lệ rò miệng nối và tỷ lệ phẫu thuật lại, từ đó tác giả khuyến cáo nên làm hậu môn nhân tạo bảo vệ ở tất cả các trường hợp có miệng nối trực tràng thấp và rất thấp. Chúng tôi làm mở thông hồi tràng bảo vệ trong 2 trường hợp có tạo hình túi chứa phân. Chúng tôi thực hiện hậu môn nhân tạo bảo vệ khi miệng nối thấp và căng, tưới máu kém, miệng nối không kín khi bơm hơi kiểm tra, bệnh nhân có hóa xạ trị tiền phẫu và có bệnh lý nặng kèm theo. Nghiên cứu của Shiomi (2010) [8] thống kê tỷ lệ rò miệng nối cách rìa hậu môn 2cm – 3 cm – 4cm – 5cm tương ứng là: 12,9% - 7,5% - 8,8% - 7,1%. Tác giả khuyến cáo nên làm hậu môn nhân tạo bảo vệ đối với miệng nối đại - trực tràng cách rìa hậu môn < 5cm, đặc biệt đối với miệng nối cách rìa hậu môn ≤ 2cm dựa trên kết quả so sánh tỷ lệ rò miệng nối giữa 2 nhóm có và không có hậu môn nhân tạo bảo vệ tùy theo vị trí miệng nối: 2cm (44,4% - 0%) – 3 cm (9,7% - 4,5%) – 4cm (11,1% - 6,7%) – 5cm (8,3% - 0%). Nghiên cứu của Seo (2013) [9] cho thấy tỷ lệ rò miệng nối rất thấp là 2,75%, có sự khác biệt về tỷ lệ các biến chứng cũng như rò miệng nối giữa 2 nhóm có và không làm hậu môn nhân tạo bảo vệ (0,4% vs 3,7%; p < 0,005). V. KẾT LUẬN Kỹ thuật nối đại trực tràng thấp qua đường hậu môn trong điều trị ung thư trực tràng thấp là khả thi và an toàn (áp dụng thành công cho tất cả bệnh nhân nghiên cứu, có 1/9 bệnh nhân rò miệng nối điều trị bảo tồn không phải mổ lại), cần được áp dụng cho những trường hợp TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 2019100 ung thư trực tràng thấp theo đúng chỉ định. Phẫu thuật không phức tạp về kỹ thuật, bảo tồn chức năng hậu môn, tránh được chi phí sử dụng máy khâu nối nên cần áp dụng rộng rãi ở các cơ sở y tế tuyến tỉnh. Cần tiếp tục nghiên cứu kết quả xa để đánh giá thời gian sống thêm sau mổ, tỷ lệ tái phát và chức năng đại tiện, sinh dục. Lời cảm ơn Nghiên cứu được hoàn thành với sự giúp đỡ của các bệnh nhân, tập thể Khoa Phẫu thuật Tiêu hóa, Bệnh viện Việt Đức. Các tác giả không có bất kỳ xung đột nào về lợi ích và tài chính. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nelson, H., et al. (2001). Guidelines 2000 for colon and rectal cancer surgery. J Natl Cancer Inst, 93(8): p. 583-96. 2. Heald, R.J., E.M. Husband, and R.D. Ryall (1982). The mesorectum in rectal cancer surgery--the clue to pelvic recurrence? Br J Surg, 69(10): p. 613-6.9 3. Nagtegaal, I.D. and P. Quirke (2008). What is the role for the circumferential margin in the modern treatment of rectal cancer? J Clin Oncol, 26(2): p. 303-12. 4. Martellucci, J., et al. (2014). Laparoscopic total mesorectal excision for extraperitoneal rectal cancer: long-term results. Int J Colorectal Dis, 29(12): p. 1493-9. 5. Matzel, K.E., et al (2003). Rectal resection with low anastomosis: functional outcome. Colorectal Dis, 5(5): p. 458-64. 6. Nesbakken, A., K. Nygaard, and O.C. Lunde (2002). Mesorectal excision for rectal cancer: functional outcome after low anterior resection and colorectal anastomosis without a reservoir. Colorectal Dis, 4(3): p. 172-176. 7. Gu, W.L. and S.W. Wu (2015). Meta- analysis of defunctioning stoma in low anterior resection with total mesorectal excision for rectal cancer: evidence based on thirteen studies. World J Surg Oncol, 13: p. 9. 8. Shiomi, A., et al. (2011). The indications for a diverting stoma in low anterior resection for rectal cancer: a prospective multicentre study of 222 patients from Japanese cancer centers. Colorectal Dis, 13(12): p. 1384-9. 9. Seo, S.I., et al. (2013). The Role of Diverting Stoma After an Ultra-low Anterior Resection for Rectal Cancer. Ann Coloproctol, 29(2): p. 66-71. Summary THE PRIMARY RESULTS OF THE PULL THROUGH COLO-ANAL ANASTOMOSIS AFTER RECTAL RESECTION FOR DISTAL RECTAL CANCER The pull through colo-anal anastomosis after rectal resection for distal rectal cancer is a new procedure to preserve anal sphincter function and ameliorate the quality of life for the patient, but it has yet to be widely used in medical centers. Nine patients with distal rectal cancer had rectal resection with colo-anal anastomosis at the Digestive Surgery department in Viet Duc hospital from 7/2015 to 6/2017. The mean age of patients was 57.5 years and the proportion male/female was 1:2. The mean distance from the inferior edge of tumor to the anal verge was 4.0 cm. In 5 patients, the distance from the tumor to the distal transection was inferior 2 cm. The tumor stage was T1 in 1 patient, T2 in 3 patients and T3 in 4 patients. Two patients had lymph node metastasis. The mean TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 119 (3) - 2019 101 operative time was 265 minutes. One patient had anastomotic leakage at post-operative day 7 and recovered with conservative management. Three patients complained about their defecation in postoperative time (more than 3 times per day). The pull through colo-anal anastomosis after rectal resection for low rectal cancer is a feasible and safe technique. Key words : Low rectal cancer, pull through coloanal anastomosis, rectal resection.
File đính kèm:
- ket_qua_ban_dau_noi_dai_truc_trang_thap_qua_duong_hau_mon_tr.pdf