Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay

Thấm nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ

nghĩa Mác - Lênin, kế thừa truyền thống

của dân tộc, cùng với sự vận dụng sáng tạo

vào điều kiện thực tiễn cách mạng ở nước

ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về kết hợp

kinh tế với quốc phòng một cách rất đơn

giản. Trong bài “Gửi các nhà nông” năm

1945, Người viết: “Vì cứu quốc, các chiến

sỹ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc

nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng.

Chiến sỹ ra sức giữ gìn đất nước. Nhà nông

ra sức giúp đỡ chiến sỹ. Hai bên công việc

khác nhau nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên

hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh

hùng” [4]. Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm

“Thực túc, binh cường”. Đây là tư tưởng

của Hồ Chí Minh nói lên tầm quan trọng và

mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế

và củng cố quốc phòng. Kinh tế vững mạnh

mới có điều kiện làm cho quốc phòng, an

ninh mạnh và ngược lại. Mặc dù, kinh tế và

quốc phòng là hai lĩnh vực, mỗi công việc

đều có những đặc điểm và quy luật hoạt

động riêng, nhưng về bản chất, theo Người

hai công việc ấy đều có cái chung, cái thống

nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau.

pdf 10 trang kimcuc 17820
Bạn đang xem tài liệu "Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay

Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay
 96
Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường 
quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay 
Bạch Hồng Việt1, Lê Việt Hùng2 
1 Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
 Email: bachviet62@gmail.com 
2 Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. 
Nhận ngày 11 tháng 07 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 10 tháng 10 năm 2019. 
Tóm tắt: Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh là hoạt động chủ động của 
mọi quốc gia, là yêu cầu tất yếu, khách quan đối với mọi quốc gia có chủ quyền. Kinh tế phát triển 
là điều kiện tốt để xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh. Ngược lại, quốc gia có nền quốc 
phòng, an ninh vững mạnh, sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ tốt thành 
quả đã đạt được. 
Từ khóa: An ninh, phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng. 
Phân loại ngành: Kinh tế học 
Abstract: Combining economic development with the strengthening of national defence and 
security is an activity that all countries take initiative in doing and an indispensable and objective 
requirement for all sovereign nations. The former is a good condition for ensuring strong national 
defence and security. From the opposite perspective, a country's strong national defence and 
security will create a favourable environment for its economic development and the protection of 
the achieved results. 
Keywords: Security, economic development, strengthening national defence. 
Subject classification: Economics 
1. Đặt vấn đề 
Lịch sử dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với 
những cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ 
quyền dân tộc. Các triều đại phong kiến 
Việt Nam, đặc biệt thế kỷ X-XV đều dựa 
vào sức dân, thực hiện chính sách kết hợp 
kinh tế với quốc phòng để vừa phát triển 
kinh tế, vừa giữ gìn độc lập dân tộc. Kinh 
nghiệm và truyền thống đó trở thành quan 
điểm chỉ đạo, chiến lược xuyên suốt trong 
đường lối phát triển đất nước của Đảng và 
Bạch Hồng Việt, Lê Việt Hùng 
 97
dân tộc Việt Nam, đó là phải gắn kết chặt 
chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường 
quốc phòng, an ninh. Ví dụ, ở các triều Lý, 
Trần, Lê, có chính sách “Ngụ binh ư nông” 
(đây là sự kết hợp hài hòa giữa công tác 
quân sự và sản xuất nông nghiệp, hay rộng 
hơn đó là sự kết hợp giữa kinh tế với quân 
sự để có thể chuyển hóa một cách linh hoạt 
giữa thời bình sang thời chiến). Ngụ binh ư 
nông là gắn quân đội với sản xuất nông 
nghiệp, gửi một bộ phận quân đội vào sản 
xuất nông nghiệp trong một thời gian nhất 
định để phát triển sản xuất, một phần giảm 
gánh nặng nuôi quân, mặt khác vẫn duy trì 
sự ổn định và phát triển kinh tế của đất 
nước. Chính điều này đảm bảo sự cân đối 
giữa quân thường trực sẵn sàng chiến đấu 
và quân dự bị động viên. Vào thời bình có 
đủ quân số canh phòng đất nước, khi có 
chiến tranh thì huy động quân dự bị động 
viên tham gia chiến đấu. Đây chính là 
phương châm chiến tranh nhân dân, hoàn 
toàn phù hợp với điều kiện xây dựng nền 
quốc phòng toàn dân ngày nay. Bài viết này 
phân tích quan điểm của Đảng về kết hợp 
phát triển kinh tế với tăng cường quốc 
phòng, an ninh; nội dung; và giải pháp kết 
hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc 
phòng, an ninh. 
2. Quan điểm của Đảng về kết hợp phát 
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, 
an ninh 
Thấm nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ 
nghĩa Mác - Lênin, kế thừa truyền thống 
của dân tộc, cùng với sự vận dụng sáng tạo 
vào điều kiện thực tiễn cách mạng ở nước 
ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về kết hợp 
kinh tế với quốc phòng một cách rất đơn 
giản. Trong bài “Gửi các nhà nông” năm 
1945, Người viết: “Vì cứu quốc, các chiến 
sỹ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc 
nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. 
Chiến sỹ ra sức giữ gìn đất nước. Nhà nông 
ra sức giúp đỡ chiến sỹ. Hai bên công việc 
khác nhau nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên 
hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh 
hùng” [4]. Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm 
“Thực túc, binh cường”. Đây là tư tưởng 
của Hồ Chí Minh nói lên tầm quan trọng và 
mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế 
và củng cố quốc phòng. Kinh tế vững mạnh 
mới có điều kiện làm cho quốc phòng, an 
ninh mạnh và ngược lại. Mặc dù, kinh tế và 
quốc phòng là hai lĩnh vực, mỗi công việc 
đều có những đặc điểm và quy luật hoạt 
động riêng, nhưng về bản chất, theo Người 
hai công việc ấy đều có cái chung, cái thống 
nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau. 
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về kết 
hợp kinh tế với quốc phòng, Đại hội Đảng 
III (năm 1960) chỉ rõ: “Phải giải quyết đúng 
đắn mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và 
củng cố quốc phòng. Trong quá trình cải 
tạo XHCN và xây dựng CNXH, đi đôi với 
phát triển kinh tế và văn hoá, phải chú trọng 
củng cố quốc phòng, xây dựng các lực 
lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh; phải 
kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc 
phòng; trong xây dựng kinh tế, phải thấu 
suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng 
như trong nhiệm vụ củng cố quốc phòng 
phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công 
cuộc xây dựng kinh tế” [3, t.1, tr.606]. Đại 
hội Đảng IV khẳng định, vấn đề kết hợp 
kinh tế với quốc phòng được xác định là 
một nội dung quan trọng của đường lối xây 
dựng kinh tế: “Trong hoàn cảnh một nước 
nghèo lại vừa ra khỏi một cuộc chiến tranh 
ác liệt, kéo dài, thì các lực lượng vũ trang, 
ngoài nghĩa vụ luôn luôn sẵn sàng bảo vệ tổ 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 98
quốc, còn phải tích cực làm nhiệm vụ xây 
dựng kinh tế, góp phần xây dựng cơ sở vật 
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Chỉ có 
trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng 
kinh tế, công nghiệp hóa XHCN nước nhà, 
chúng ta mới phát triển được công nghiệp 
quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang 
thật sự chính quy và hiện đại, triển khai 
việc phòng thủ đất nước một cách toàn 
diện” [3, t.1, tr.953]. Trong Văn kiện Đại 
hội Đảng toàn quốc lần thứ V, VI, vấn đề kết 
hợp kinh tế với quốc phòng được cụ thể hoá 
hơn cho phù hợp với chặng đường đầu của 
thời kỳ quá độ lên CNXH: “Kết hợp kinh tế 
với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế theo 
một phương hướng cơ bản, lâu dài, đồng 
thời có dự kiến trước để kịp điều chỉnh cho 
phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo đánh 
thắng quân thù” [3, t.2, tr.45-46]. 
Từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) đến 
nay, quan điểm kết hợp chặt chẽ kinh tế với 
quốc phòng luôn đặt trong bối cảnh hội 
nhập quốc tế. Cùng với sự phát triển kinh 
tế, củng cố quốc phòng an ninh, hoạt động 
đối ngoại trở thành mặt trận hàng đầu của 
công cuộc bảo vệ Tổ quốc, với mục tiêu 
bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân 
tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của 
luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. 
Đại hội Đảng VI khẳng định: “Việc kết 
hợp kinh tế với quốc phòng, huy động lực 
lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế 
đã đạt được một số kết quả, nhất là xây 
dựng các công trình công nghiệp và giao 
thông” [3, t.2, tr.274]. 
Đại hội Đảng VII xác định: “Kết hợp 
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc 
phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế 
hoạch phát triển kinh tế của cả nước, trên 
từng địa phương; xây dựng, củng cố vững 
chắc các khu căn cứ hậu phương chiến 
lược; chuẩn bị các phương án động viên khi 
cần thiết” [3, t.2, tr.513]. Đặc biệt, trong 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) năm 
1991, nhận thức của Đảng có sự đổi mới, 
không chỉ kết hợp kinh tế với quốc phòng, 
mà là kết hợp kinh tế với quốc phòng và an 
ninh, đây là hai mặt của nhiệm vụ bảo vệ tổ 
quốc, có quan hệ hữu cơ, đan xen nhau. 
Cương lĩnh nêu rõ: “Phát triển kinh tế - xã 
hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc 
phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế 
với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an 
ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát 
triển kinh tế - xã hội” [3, t.2, tr.564]. 
Đến Đại hội Đảng VIII, IX, Đảng ta 
khẳng định lại sự kết hợp kinh tế với quốc 
phòng - an ninh. Đây là một trong 5 quan 
điểm phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn 
sức mạnh tổng hợp bảo vệ tổ quốc, đặc biệt 
là nhấn mạnh đến sự phối hợp của kinh tế, 
quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đại hội 
Đảng IX chỉ rõ: “Kết hợp phát triển kinh tế, 
xã hội với củng cố quốc phòng và an ninh 
là nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh 
phát triển, cạnh tranh và hội nhập kinh tế 
khu vực và thế giới trong thập kỷ tới” [3, 
t.2, tr.859]. Có thể khẳng định, kết hợp kinh 
tế với quốc phòng dựa trên quan điểm nhận 
thức đúng đắn và sự vận dụng các quy luật 
về kinh tế và quân sự, nhằm tăng cường sức 
mạnh quốc phòng trong phát triển kinh tế, 
đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực của 
quân sự, quốc phòng từ bên ngoài đối với 
sự phát triển đất nước. Xây dựng nền quốc 
phòng vững mạnh sẽ bảo vệ được chế độ 
chính trị, bảo vệ độc lập dân tộc, tham gia 
giữ gìn hòa bình thế giới, tạo sự thuận lợi 
cho phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển 
mạnh kinh tế, lấy phát triển kinh tế - xã hội 
Bạch Hồng Việt, Lê Việt Hùng 
 99
làm nền tảng, thông qua các hoạt động kinh 
tế - xã hội, tận dụng những thành tựu mới 
để củng cố quốc phòng, xây dựng sức mạnh 
quân sự. 
Đại hội Đảng X xác định 3 nhiệm vụ kết 
hợp rất quan trọng: một là, kết hợp xây 
dựng phát triển kinh tế - xã hội với tăng 
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh trên 
cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước; 
hai là, tiếp tục phát triển các khu kinh tế - 
quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng 
- kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc 
phòng, an ninh là chủ yếu, tập trung vào các 
địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu 
vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển 
đảo; ba là, xây dựng công nghiệp quốc 
phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia 
dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp 
của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo 
hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng 
vừa phục vụ dân sinh. Đại hội Đảng XI chỉ 
rõ, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với 
củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, 
đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, 
đảo còn chưa chặt chẽ. Từ đó, Đại hội đưa 
ra những định hướng quan trọng cho sự 
phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm 
quốc phòng, an ninh đến năm 2020. 
Đại hội Đảng XII tiếp tục khẳng định: 
“Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội 
với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an 
ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng 
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển 
kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng 
xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để 
những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp 
kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa 
bàn, nhất là địa bàn chiến lược” [1, 
tr.149]. Đại hội Đảng XII nhấn mạnh: kết 
hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng 
CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam 
XHCN, giữa kinh tế với quốc phòng, an 
ninh và đối ngoại. Trong mối quan hệ đó, 
hoạt động kinh tế phải là trung tâm, nhằm 
huy động mọi nguồn lực để phát triển 
kinh tế, nâng cao thu nhập, giải quyết vấn 
đề nâng cao đời sống của nhân dân, tạo 
điều kiện vật chất, kỹ thuật quan trọng để 
củng cố quốc phòng, mở rộng hoạt động 
đối ngoại. 
3. Nội dung kết hợp phát triển kinh tế 
với tăng cường quốc phòng, an ninh ở 
Việt Nam 
3.1. Kết hợp phát triển kinh tế ở các vùng 
kinh tế trọng điểm, vùng đô thị lớn với tăng 
cường quốc phòng, an ninh [7] 
Hiện nay, chúng ta đã hình thành các vùng 
kinh tế lớn - trọng điểm là nòng cốt cho 
phát triển kinh tế của từng miền và cả nước. 
Nơi đây có mật độ dân cư và tính chất đô 
thị hóa cao, gắn liền với các khu công 
nghiệp lớn, các liên doanh có vốn đầu tư 
nước ngoài... Đây cũng là nơi tập trung đầu 
mối giao thông quan trọng, với sân bay, bến 
cảng, kho tàng, dịch vụ... 
Về quốc phòng, mỗi vùng kinh tế trọng 
điểm lại nằm trong các khu vực phòng thủ 
then chốt, nơi có nhiều đối tượng, mục tiêu 
quan trọng phải bảo vệ; đồng thời, là nơi 
nằm trên các hướng có khả năng là hướng 
tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến 
tranh xâm lược của địch, hoặc là địa bàn 
trọng điểm đối phó với âm mưu “diễn biến 
hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực 
thù địch. Vì vậy, phải thực hiện thật tốt việc 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 100
kết hợp phát triển kinh tế với củng cố, tăng 
cường quốc phòng trên các vùng này. 
Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kết cấu 
hạ tầng kinh tế với xây dựng kết cấu hạ 
tầng của nền quốc phòng toàn dân; gắn xây 
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng 
các công trình phòng thủ dân sự, thiết bị 
chiến trường. Các thành phố, đô thị, các 
khu kinh tế tập trung cần quy hoạch từng 
bước xây dựng hệ thống công trình ngầm 
lưỡng dụng. Khi bố trí các cơ sở sản xuất, 
các công trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu 
tư nước ngoài, cần chú ý đến việc bảo vệ, 
bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực 
có giá trị phòng thủ. Khắc phục tình trạng 
chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế trước mắt 
coi nhẹ, thậm chí thiếu sự gắn kết chặt chẽ 
với nhiệm vụ quốc phòng. 
Việc xây dựng các khu công nghiệp phải 
gắn với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc 
phòng, các tổ chức chính trị, đoàn thể trong 
các tổ chức kinh tế đó, ngay cả khi chúng ta 
là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn 
diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 
(CPTPP). Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí 
xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà 
đầu tư nước ngoài trong các khu công 
nghiệp, khu chế xuất. Xây dựng, phát triển 
kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải 
nhằm đáp ứng nhu cầu dân sinh thời bình 
và nhu cầu chi viện cho các chiến trường 
khi xảy ra chiến tranh. Kết hợp phát triển 
kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu 
phương của từng vùng kinh tế trọng điểm 
để sẵn sàng, chủ động di dời, sơ tán đến nơi 
an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm 
lược. Quản lý chặt chẽ khu vực tập trung 
đông người lao động, nhất là lao động 
người nước ngoài, các khu công nghiệp, 
khu du lịch, kiên quyết xử lý tình trạng vi 
phạm luật pháp Việt Nam. 
3.2. Kết hợp phát triển kinh tế ở vùng sâu, 
vùng xa, vùng biên giới với tăng cường 
quốc phòng, an ninh [7] 
Vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có tầm 
quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng 
thủ bảo vệ Tổ quốc, là vùng chiến lược hết 
sức trọng yếu. Đây là nơi còn nhiều khó 
khăn, yếu kém về kinh tế, văn hóa, xã 
hội, trong đó có nhiều khu vực tình hình 
rất phức tạp, dễ bị kẻ thù lợi dụng để lôi 
kéo, kích động. Vì vậy, việc kết hợp phát 
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an 
ninh ở nơi đây có ý nghĩa cực kỳ quan 
trọng. Kết hợp phát triển kinh tế ở vùng 
sâu, vùng xa, vùng biên giới với tăng cường 
quốc phòng, an ninh là sự gắn kết chặt chẽ 
giữ xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, 
an ninh với phát triển vùng kinh tế chiến 
lược, nhằm tạo ra và tăng cường thế bố trí 
chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc 
phòng ở các vùng này, theo ý đồ phòng thủ 
chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sự vững 
vàng trên toàn cục và mạnh ở từng trọng 
điểm. 
Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về 
phát triển kinh tế và phòng thủ bảo vệ Tổ 
quốc. Mỗi vùng chiến lược có những nét 
đặc thù, yêu cầu khác nhau về nhiệm vụ 
phát triển kinh tế, quốc phòng, đòi hỏi việc 
kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở 
các vùng, cũng như ở địa bàn mỗi tỉnh phải 
bảo đảm các nội dung: (1) Kết hợp giữa xây 
dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát 
triển kinh tế - xã hội với quốc phòng của 
vùng; (2) Kết hợp giữa quá trình chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế địa 
phương với xây dựng các khu vực phòng 
Bạch Hồng Việt, Lê Việt Hùng 
 101
thủ then chốt, các cụm chiến đấu, các xã, 
phường chiến đấu trên địa bàn các tỉnh, 
huyện; (3) Kết hợp giữa quá trình phân 
công lại lao động, phân bố lại dân cư với tổ 
chức, xây dựng và điều chỉnh, bố trí lại lực 
lượng quốc phòng trên từng địa bàn cho 
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế 
cũng như kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ 
quốc. Ở đâu có đất, có dân, ở đó phải có lực 
lượng quốc phòng để bảo vệ cuộc sống bình 
yên cho nhân dân và xây dựng, bảo vệ Tổ 
quốc; (4) Kết hợp giữa đầu tư, xây dựng kết 
cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công 
trình quốc phòng, phòng thủ dân sự, thiết bị 
chiến trường bảo đảm vừa phục vụ quốc 
phòng, quân sự, vừa phục vụ phát triển kinh 
tế; (5) Kết hợp giữa xây dựng các cơ sở 
kinh tế vững mạnh, rộng khắp với xây dựng 
các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kỹ 
thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi 
vùng để sẵn sàng đối phó khi có xung đột, 
chiến tranh xâm lược. 
Xuất phát từ tiềm năng phát triển kinh tế 
cũng như vị trí địa - chính trị, quốc phòng 
của các vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, 
về lâu dài, phải quan tâm chỉ đạo kết hợp 
chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây 
dựng lực lượng, thế trận quốc phòng toàn 
dân, thế trận an ninh nhân dân trên từng 
vùng và giữa các vùng với nhau trong thế 
trận phòng thủ chung của cả nước. Quan 
tâm hơn nữa phát triển kinh tế, củng cố 
quốc phòng ở các vùng giáp biên giới với 
các nước. 
Củng cố, xây dựng các xã trọng điểm về 
kinh tế và quốc phòng. Trước hết, cần tập 
trung xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu 
hạ tầng, mở mới và nâng cấp các tuyến 
đường giao thông, các tuyến đường vành 
đai kinh tế. Triển khai hiệu quả các chương 
trình xóa đói, giảm nghèo, Chương trình 
135; đối với những nơi có địa thế quan 
trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó 
khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực 
lượng của cả Trung ương và địa phương để 
cùng thực hiện nhiệm vụ. Củng cố các khu 
kinh tế - quốc phòng dọc biên giới nhằm tạo 
thế và lực mới cho phát triển kinh tế - xã 
hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng. 
3.3. Kết hợp phát triển kinh tế ở vùng biển, 
đảo với tăng cường quốc phòng, an ninh [7] 
Vùng biển, đảo nước ta có nhiều tiềm năng, 
khoáng sản, là cửa ngõ giao lưu quốc tế, thu 
hút đầu tư nước ngoài, có khả năng phát 
triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất 
nước trong tương lai. Kết hợp phát triển 
kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh 
vùng biển, đảo là gắn kết chặt chẽ giữa xây 
dựng vùng chiến lược quốc phòng với phát 
triển vùng kinh tế chiến lược, nhằm tạo ra 
và tăng cường thế bố trí chiến lược mới cả 
về kinh tế lẫn quốc phòng trên vùng biển, 
đảo, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ 
Tổ quốc; nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ 
bảo vệ, làm chủ vùng biển, đảo. 
Tập trung xây dựng, hoàn thiện chiến 
lược phát triển kinh tế và xây dựng thế trận 
quốc phòng bảo vệ biển, đảo trong tình hình 
mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp 
kinh tế - xã hội với quốc phòng một cách cơ 
bản, toàn diện, lâu dài. Bảo vệ vững chắc 
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trước hết 
là phải phối hợp chặt chẽ các hoạt động đấu 
tranh trên tất cả các lĩnh vực. Bởi vậy, cần 
tăng cường, hoàn thiện quy chế phối hợp, 
tham mưu kịp thời cho Đảng, Nhà nước 
hoạch định đường lối, chiến lược và các đối 
sách xử lý thắng lợi mọi tình huống. Tăng 
cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc 
phòng, nhất là với các nước trong khu vực 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 102
và một số nước lớn, nhằm tăng cường hiểu 
biết và tin cậy lẫn nhau. Lực lượng hải 
quân, cảnh sát biển cần tăng cường giao lưu 
quốc tế, phối hợp tuần tra, diễn tập, cứu hộ 
- cứu nạn trên biển, nhằm góp phần giữ 
vững môi trường ổn định và triệt tiêu nguy 
cơ xung đột trên biển. Đẩy mạnh xây dựng 
thực lực về kinh tế biển, thu hút các nguồn 
lực đầu tư trong nước và nước ngoài để 
phát triển các ngành kinh tế biển, trước mắt 
là lĩnh vực thăm dò, khai thác và chế biến 
sản phẩm dầu khí; phát triển hệ thống cảng 
biển, vận tải biển, kinh tế hàng hải và công 
nghiệp đóng tàu; khai thác, đánh bắt hải 
sản; phát triển du lịch và kinh tế đảo; tiếp 
tục triển khai thực hiện chủ trương đánh bắt 
xa bờ, kết hợp với bảo vệ chủ quyền vùng 
biển bằng những giải pháp đồng bộ, như 
đóng tàu có khả năng hoạt động dài ngày, 
bao tiêu sản phẩm, bảo vệ, cứu hộ - cứu 
nạn, hỗ trợ cho tàu thuyền và ngư dân khi 
có thiên tai, cướp biển... Quy hoạch, lựa 
chọn những thành phố, thị xã ven biển có vị 
trí thích hợp để xây dựng thành các trung 
tâm kinh tế, các hải cảng lớn, vừa là “bàn 
đạp” tiến ra biển, vừa là “đầu tàu” lôi kéo 
các vùng kinh tế khác phát triển. Ngoài ra, 
cần đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, thu 
hút dân cư đến ở và lập nghiệp lâu dài trên 
các đảo, quần đảo, nhất là các đảo xa bờ. 
Tăng cường xây dựng lực lượng quản lý, 
bảo vệ biển vững mạnh, nhất là hải quân, 
không quân, cảnh sát biển, bộ đội biên 
phòng và kiểm ngư, đủ sức hoàn thành tốt 
chức năng, nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh 
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn 
với thế trận an ninh nhân dân vững chắc 
trên biển; coi việc gắn kết chặt chẽ giữa 
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường 
quốc phòng là phương châm chiến lược, 
được cụ thể hóa trong hoạt động sản xuất 
trên biển (từ khảo sát, thăm dò, khai thác tài 
nguyên khoáng sản, dầu khí, đánh bắt, nuôi 
trồng hải sản đến vận tải đường biển, du 
lịch biển). Chú ý bố trí các lực lượng bảo 
đảm cân đối, hợp lý và khả năng phối hợp, 
hiệp đồng trong thực hiện nhiệm vụ. Coi 
trọng xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh, 
thành phố ven biển, đặc biệt là xây dựng 
các đảo và quần đảo trở thành các “pháo 
hạm” kiên cố; tích cực bổ sung, hoàn thiện 
kế hoạch phòng thủ bảo vệ biển, đảo để bảo 
đảm giữ vững chủ quyền, ngăn chặn xung 
đột vũ trang trên biển. 
Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, 
đảo, tạo điều kiện cho người dân bám biển, 
sinh sống, làm ăn; xây dựng cơ chế, chính 
sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn 
kinh tế ở vùng biển, đảo, nhằm tạo ra các 
đối tác đan xen lợi ích, tạo thế và lực để 
giải quyết hòa bình các tranh chấp trên 
biển, đảo. Chú trọng đầu tư phát triển 
chương trình bám biển, đánh bắt xa bờ, 
củng cố lực lượng dân quân biển, các hải 
đoàn tự vệ, các lực lượng chấp pháp (cảnh 
sát biển, kiểm ngư, biên phòng...) để kiểm 
tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những 
hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo, 
làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và 
tạo thế bảo vệ vững chắc các điểm, đảo 
đóng quân, nhà giàn DK1... Hoàn thiện 
phương án đối phó với các tình huống có 
thể xảy ra ở vùng biển, đảo, đủ sức canh 
giữ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo. 
4. Giải pháp kết hợp phát triển kinh tế 
với tăng cường quốc phòng, an ninh 
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ về lợi 
ích kinh tế giữa các bên liên quan, giữa tăng 
trưởng kinh tế và bảo đảm quốc phòng, an 
Bạch Hồng Việt, Lê Việt Hùng 
 103
ninh, sao cho mỗi bước phát triển về kinh tế 
là một bước tăng cường tiềm lực quốc 
phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại. 
Chủ động ngăn chặn những âm mưu lợi 
dụng hoạt động kinh tế để lấn át về chính trị 
- xã hội, gây trở ngại cho hoạt động giao 
lưu quốc tế. Ðây là quan điểm cơ bản, bao 
trùm của chiến lược kết hợp kinh tế với 
quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc 
tế. Cần đạt được sự tăng trưởng kinh tế theo 
hướng củng cố độc lập dân tộc, xây dựng 
CNXH, nâng cao đời sống mọi mặt của 
nhân dân và chủ động hội nhập quốc tế. 
Trong xây dựng kinh tế, tạo điều kiện cho 
mỗi cá nhân phát huy năng lực, sáng tạo, 
tinh thần khởi nghiệp để phát triển kinh tế. 
Trong hoạt động quốc phòng, cần nâng cao 
nhận thức của mỗi người, để thấy rõ lợi ích 
dân tộc, qua đó, tự nguyện, tự giác phấn 
đấu vừa là chiến sĩ kiên cường bảo vệ Tổ 
quốc, vừa là doanh nghiệp thành đạt, công 
dân làm kinh tế giỏi. Trong hoạt động quốc 
tế, phải từng bước nâng cao vị thế của quốc 
gia, mà không mất đi bản sắc dân tộc. 
Tranh thủ và tận dụng tối đa kiến thức, kinh 
nghiệm, tiềm lực của những nước phát triển 
để từng bước củng cố, xây dựng và phát 
triển kinh tế đất nước. Hội nhập quốc tế 
một cách chủ động, tích cực là cách tốt nhất 
để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, qua 
đó tăng cường cho việc bảo đảm quốc 
phòng, an ninh, và giữ vững độc lập, chủ 
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. 
Thứ hai, ở từng lĩnh vực, từng ngành 
phải linh hoạt, xuất phát từ yêu cầu cụ thể 
về phát triển kinh tế, tăng cường quốc 
phòng, an ninh quốc gia mà chọn cách thực 
hiện hiệu quả việc kết hợp kinh tế với quốc 
phòng, giữa phát triển kinh tế với xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc trong hội nhập quốc tế. 
Kinh tế vĩ mô cần có sự ổn định tạo điều 
kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, coi kinh 
tế tư nhân là động lực quan trọng của sự 
phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, kiểm soát 
chi tiêu cho quốc phòng phù hợp với nội 
lực kinh tế quốc gia, hạn chế tối đa sự lệ 
thuộc vào bên ngoài. Thống nhất nhận thức 
và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, 
toàn quân, để đối phó với những mặt trái 
trong quá trình hội nhập quốc tế. Tính toán 
kỹ từng lĩnh vực cụ thể cũng như phạm vi, 
mức độ hội nhập. Hội nhập nhưng phải giữ 
vững định hướng phát triển đất nước, bảo 
vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn 
giá trị truyền thống của dân tộc. 
Thứ ba, quân đội phải trở thành lực 
lượng nòng cốt thực hiện kết hợp kinh tế 
với quốc phòng. Mặc dù kết hợp kinh tế với 
quốc phòng là công việc của toàn Ðảng, 
toàn quân, toàn dân, nhưng quân đội phải là 
lực lượng nòng cốt, vừa bảo vệ các thành 
quả của công cuộc công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa, bảo vệ sự ổn định chính trị, xã hội, 
đập tan mọi âm mưu diễn biến hòa bình 
trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa 
và vừa xây dựng kinh tế. 
Kết hợp giữa phát triển kinh tế với tăng 
cường quốc phòng là một trong những vấn 
đề có tầm quan trọng đặc biệt để thực hiện 
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH 
và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ngày nay, các 
quốc gia đều chủ động ứng phó với những 
diễn biến bất thường về chính trị, kinh tế - 
xã hội để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn 
vẹn lãnh thổ trước những vấn đề toàn cầu, 
an ninh truyền thống và phi truyền thống. 
Lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại 
phải chủ động phối hợp chặt chẽ với kinh tế 
trong hoạch định chiến lược, sách lược bảo 
vệ Tổ quốc. 
Thứ tư, đặt việc bảo đảm lợi ích quốc 
gia, dân tộc là nguyên tắc tối cao, mục tiêu 
tối thượng của mọi hoạt động kinh tế, quốc 
phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 104
mới. Để đạt được yêu cầu trên, cùng với 
việc thực hiện phương châm cơ bản là tận 
dụng tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, hoạt 
động đối ngoại phải kiên trì hai nguyên tắc: 
(1) Không tham gia liên minh quân sự nào, 
nhưng sẵn sàng hợp tác với các nước, vì lợi 
ích chung của cộng đồng quốc tế và khu 
vực. Từng bước nâng cao vai trò, vị thế của 
quốc gia trong hội nhập quốc tế; (2) Kết 
hợp đối ngoại song phương và đa phương 
một cách khôn khéo, trong đó chú trọng đa 
phương trong giải quyết các bất đồng, tranh 
chấp. Trên cơ sở mục tiêu tối cao, thực hiện 
nhất quán đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự 
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển”; đa 
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối 
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc 
tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có 
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. 
Hiện nay, vấn đề tranh chấp chủ quyền 
biển đảo giữa các quốc gia có biển và các 
thách thức an ninh phi truyền thống đang 
diễn biến ngày càng gay gắt, khó lường, đe 
dọa nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn 
lãnh thổ của Tổ quốc. Do vậy, cần chú 
trọng hơn nữa nội dung kết hợp kinh tế với 
tăng cường quốc phòng, an ninh và đối 
ngoại trong bối cảnh hiện nay, đấu tranh 
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, 
dân tộc là tất yếu, hoạt động đối ngoại phải 
góp phần bảo đảm ở mức cao nhất để không 
dẫn đến đối đầu về kinh tế và quân sự hoặc 
sự bất ổn về kinh tế, chính trị, quân sự. 
5. Kết luận 
Bối cảnh trong nước, thế giới đã và đang có 
nhiều thay đổi, tư tưởng Hồ Chí Minh về 
kết hợp kinh tế với quốc phòng là sự vận 
dụng quy luật phổ biến, sự tiếp nối truyền 
thống của dân tộc Việt Nam trong quá trình 
dựng nước và giữ nước. Đảng và Nhà nước 
ta đã kế thừa những kinh nghiệm truyền 
thống, quán triệt những nguyên lý của chủ 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 
vận dụng sáng tạo, phù hợp trong từng giai 
đoạn cách mạng, góp phần vào thắng lợi 
của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, 
thống nhất đất nước trước đây, cũng như 
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày 
nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ 
Biên tập Tạp chí Cộng sản, Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội XII của Đảng - Một số vấn đề lý luận 
và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
[3] Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (2006), Biên niên 
sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb 
Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
[4] Hồ Chí Minh (1960), Tuyển tập, Nxb Sự thật, 
Hà Nội. 
[5] 
xuat-xay-dung-kinh-te-tiep-tuc-bam-sat-muc-
tieu-dinh-huong-no-luc-phan-dau-hoan-thanh-
nhiem-vu-post80.html 
[6] 
ninh-quoc-phong/2018/49988/Ket-hop-quoc-
phong-an-ninh-va-doi-ngoai-trong-thuc-
hien.aspx 
[7] 
triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dang-
XII/2016/41984/Ket-hop-xay-dung-cung-co-
quoc-phong-voi-phat-trien-kinh.aspx 
[8] 
ly-giai-vi-sao-quan-doi-phai-lam-kinh-te-
20171124142608344.htm
Bạch Hồng Việt, Lê Việt Hùng 
 105

File đính kèm:

  • pdfket_hop_phat_trien_kinh_te_voi_tang_cuong_quoc_phong_an_ninh.pdf