Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á

Trong thế kỷ XXI, trước thềm cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 và 5.0, bảo vệ

môi trường và phát triển bền vững đang ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của nhân loại cũng

như của từng nước. Trong số các thành phần của môi trường, môi trường biển đóng một vai trò

quan trọng với 71% bề mặt của Trái đất được bao phủ bởi nước và 90% sinh quyển là đại dương.

Cùng với sự phát triển ra hướng biển của nhân loại - cái nôi cuộc sống của Trái đất - biển cũng

đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng của nạn ô nhiễm, đánh bắt quá mức tài nguyên

biển. Bảo vệ môi trường biển không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia. Do tính đồng nhất

của môi trường biển, sự lan tỏa xuyên biên giới các tác nhân gây hại trong môi trường biển và biến

đổi khí hậu, nhiệm vụ này đòi hỏi sự hợp tác giữa các quốc gia. Các điều ước quốc tế nói chung và

điều ước quốc tế khu vực nói riêng, là cơ sở pháp lý cho hợp tác bảo vệ môi trường biển ở từng

khu vực. Bài viết sẽ phân tích, đánh gia các nỗ lực của các khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong

việc bảo vệ môi trường biển, đặc biệt tập trung vào các cơ chế hợp tác bảo vệ môi trường biển.

Đây là những khu vực được chọn do có kinh nghiệm bảo vệ môi trường biển tiên tiến và những nét

tương đồng về kinh tế-xã hội với nhau.

pdf 9 trang kimcuc 3140
Bạn đang xem tài liệu "Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á

Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 
20 
Review Article 
International Cooperation on marine environmental 
protection in East Asia and South East Asia 
Nguyen Hong Thao1,*, Nguyen Thi Xuan Son2 
1United Nations International Law Commision, UN 
2VNU, School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 24 July 2019 
Revised 28 July 2019; Accepted 19 September 2019 
Abstract: In the twenty-first century, before the revolution of science and technology 4.0 and 5.0, 
environmental protection and sustainable development are increasingly becoming a great concern 
of humanity as well as of each country. Among the components of the environment, the marine 
environment plays an important role with 71% of the Earth's surface covered with water and 90% 
of the biosphere is the ocean. Along with the development of the sea direction of mankind - the 
cradle of Earth's life - the sea is also facing serious challenges of pollution, over-fishing of marine 
resources. Marine environmental protection is not limited to a single country. Due to the 
uniformity of the marine environment, the spread of transboundary agents in the marine 
environment and climate change, this task requires cooperation between countries. Regional 
international treaties serve as a basis for cooperation in marine environmental protection. The 
paper will focus on analyzing and assessing regional efforts in approving regional international 
treaties on marine environmental protection, with a focus on environmental protection cooperation 
mechanisms, especially in East Asia and South East Asia. These are selected areas due to their 
advanced marine environmental protection experience and socio-economic similarities. 
Keywords: Marine environment, marine environmental pollution, regional cooperation. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: nguyenhongthao57@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4231 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 
21 
Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong 
khu vực Đông Á và Đông Nam Á 
Nguyễn Hồng Thao1,*, Nguyễn Thị Xuân Sơn2 
1Ủy ban Luật Quốc tế Liên Hiệp Quốc 
2Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 24 tháng 7 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 7 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 
Tóm tắt: Trong thế kỷ XXI, trước thềm cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 và 5.0, bảo vệ 
môi trường và phát triển bền vững đang ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của nhân loại cũng 
như của từng nước. Trong số các thành phần của môi trường, môi trường biển đóng một vai trò 
quan trọng với 71% bề mặt của Trái đất được bao phủ bởi nước và 90% sinh quyển là đại dương. 
Cùng với sự phát triển ra hướng biển của nhân loại - cái nôi cuộc sống của Trái đất - biển cũng 
đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng của nạn ô nhiễm, đánh bắt quá mức tài nguyên 
biển. Bảo vệ môi trường biển không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia. Do tính đồng nhất 
của môi trường biển, sự lan tỏa xuyên biên giới các tác nhân gây hại trong môi trường biển và biến 
đổi khí hậu, nhiệm vụ này đòi hỏi sự hợp tác giữa các quốc gia. Các điều ước quốc tế nói chung và 
điều ước quốc tế khu vực nói riêng, là cơ sở pháp lý cho hợp tác bảo vệ môi trường biển ở từng 
khu vực. Bài viết sẽ phân tích, đánh gia các nỗ lực của các khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong 
việc bảo vệ môi trường biển, đặc biệt tập trung vào các cơ chế hợp tác bảo vệ môi trường biển. 
Đây là những khu vực được chọn do có kinh nghiệm bảo vệ môi trường biển tiên tiến và những nét 
tương đồng về kinh tế-xã hội với nhau. 
Từ khóa: Môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển, hợp tác khu vực. 
*Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc 
tế và trên thực tế, biển là môi trường đồng 
nhất, dù nó nằm ở trong hay ngoài ranh giới 
vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp,vùng 
đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa của các 
quốc gia ven biển, đòi hỏi phải có một sự hợp 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: nguyenhongthao57@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4231 
tác cao giữa các quốc gia nhằm giữ gìn biển 
trong lành. Trong một thế giới ngày càng phức 
tạp hơn, có nhiều mối quan hệ vượt ra khỏi 
phạm vi quốc gia, pháp luật được sử dụng ngày 
càng nhiều như một công cụ hợp tác để đạt 
được các mục tiêu chung [8]. 
Trong những năm qua, với nỗ lực của các tổ 
chức quốc tế (Liên Hợp quốc, Tổ chức hàng hải 
quốc tế) và các quốc gia, một khung pháp lý cơ 
N.H. Thao, N.T.X. Son / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 
22 
bản về bảo vệ môi trường biển đã được hình 
thành và ngày càng được nhiều nước tham gia. 
Khung pháp lí quốc tế cơ bản về bảo vệ 
môi trường biển 
Các văn kiện khung 
1. Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 
(UNCLOS) và 
2. Hiệp định 1994 về áp dụng phần XI của Công ước. 
3. Tuyên bố Rio de Janeiro về Môi trường và Phát triển 
bền vững năm 1992. 
4. Chương trình hành động 21 (Chương 17) năm 1992. 
5. Tuyên bố Hội nghị cấp cao về môi trường 
Johannesburg 2002. 
6. Tuyên bố Hội nghị cấp cao về môi trường 
Johannesburg 2012. 
Các công ước quốc tế của IMO về ô nhiễm môi 
trường biển 
1. Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền 
MARPOL 73/78. 
2. Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do nhận chìm 
chất thải và các chất khác năm 1972 (Công ước Luân 
đôn 1972), và Nghị định thư năm 1996. 
3. Công ước về sẵn sàng ứng phó và hợp tác chống ô 
nhiễm dầu năm 1990 (OPRC). 
4. Công ước trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại 
do dầu năm 1969 và Công ước bổ sung năm 1992 
(CLC). 
5. Công ước về thành lập quỹ đền bù thiệt hại do dầu năm 
1971 và Công ước bổ xung năm 1992 (FUND). 
6. Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn 
liền với việc vận chuyển bằng đường biển các chất 
nguy hiểm và độc hại (HNS). 
7. Công ước về can thiệp ngoài Biển cả trong các 
trường hợp sự cố ô nhiễm dầu năm 1969 và Nghị định 
thư liên quan đến việc can thiệp ngoài Biển cả trong 
các trường hợp ô nhiễm do các chất khác không phải 
dầu năm 1973 (Công ước can thiệp). 
8. Công ước về cứu hộ năm 1989. 
Các văn kiện quốc tế về ô nhiễm môi trường biển 
của Chương trình phát triển Liên Hợp quốc 
(UNEP) 
1. Tuyên bố Oasinhtơn và chương trình hành động toàn 
cầu bảo vệ môi trường biển từ các hoạt động có nguồn 
gốc đất liền năm 1995 (GPA). 
2. Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển xuyên biên 
giới các chất nguy hại và việc tiêu huỷ chúng năm 1989 
(Công ước Basel). 
Ngoài ra còn có các công ước của IMO về an toàn hàng 
hải như Công ước về an toàn tính mạng trên biển 
(SOLAS) 1974, Công ước về tránh đâm va năm 1978 
Đối với một số nước, trong khi luật quốc 
gia trong lĩnh vực này chưa phát triển thì việc 
gia nhập các điều ước quốc tế này là bước đi 
ngắn nhất, hữu hiệu nhất để hội nhập với cộng 
đồng bảo vệ môi trường biển toàn cầu, khu vực 
cũng như môi trường biển của chính nước đó. 
1. Các điều ước khu vực Đông Á về bảo vệ 
môi trường biển 
Khu vực Đông Á gồm các nước có nền 
công nghiệp và kinh tế phát triển ở châu Á. Tuy 
nhiên những yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế và 
văn hóa khác biệt đã tác động đến chính sách 
hợp tác chung. Khu vực này không có các công 
ước quốc tế chung về bảo vệ môi trường biển 
như châu Âu. Năm 1993 một Dự án với sự hỗ 
trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp quốc 
(UNDP) và được thực hiện bởi Văn phòng dịch 
vụ dự án của Liên Hợp quốc (UNOPS) được 
tiến hành dưới tên gọi Phòng ngừa và Quản lý 
Ô nhiễm Biển ở Biển Đông Á (SDS-SEA). 
Tháng 12 năm 1993, một số địa điểm thí điểm 
Quản lý vùng biển tổng hợp (ICM) đã được 
thành lập, bao gồm Hạ Môn (Trung Quốc) và 
Vịnh Batangas (Philippines), giúp bắt đầu nỗ 
lực giải quyết các vấn đề ô nhiễm biển ở Eo 
biển Malacca và Eo biển Singapore; và tăng 
cường phát triển năng lực tại các khu vực 
Cambodia, Trung Quốc, Triều Tiên, Indonesia, 
Philippines, Thái Lan và Việt Nam. Thành công 
của dự án đã đưa đến giai đoạn hai thực hiện từ 
năm 1999 đến 2007, được hỗ trợ bởi Quỹ môi 
trường toàn cầu (GEF), tập trung vào việc xây 
dựng mối quan hệ đối tác giữa các bên liên 
quan. Dự án được đổi tên thành PEMSEA với 
Văn phòng đặt tại khu phức hợp DENR ở thành 
phố Quezon, Philippines. Quan hệ đối tác trong 
quản lý môi trường vùng biển Đông Á 
(PEMSEA) trở thành cơ chế phối hợp khu vực 
cho Chiến lược phát triển bền vững cho vùng 
biển Đông Á (SDS-SEA) giữa 14 quốc gia 
trong khu vực với sứ mệnh thúc đẩy và duy trì 
các bờ biển và đại dương lành mạnh và bền 
vững, các cộng đồng và nền kinh tế trên khắp 
Đông Á thông qua các giải pháp quản lý và đối 
N.H. Thao, N.T.X. Son / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 23 
tác tổng hợp. PEMSEA hợp tác với chính phủ, 
công ty, tổ chức nghiên cứu và khoa học quốc 
gia, cộng đồng, các cơ quan quốc tế, các 
chương trình khu vực, nhà đầu tư và nhà tài 
trợ hướng tới thực hiện SDS-SEA. Các mạng 
lưới quan trọng như trung tâm học tập cũng 
đóng góp chuyên môn và kỹ năng quản lý ven 
biển của họ cho các mục tiêu chung của SDS-
SEA [4]. 
Năm 2007, PEMSEA cam kết thực hiện 
SDS-SEA như một phần của dự án giai đoạn I 
(2007-2017). Mục tiêu của giai đoạn đầu là 
biến PEMSEA thành một cơ chế vận hành khu 
vực tự duy trì. 
Các lĩnh vực công việc của PEMSEA bao 
gồm quản trị vùng ven biển và đại dương, quản 
lý và phòng ngừa rủi ro tự nhiên và nhân tạo, 
bảo vệ và phục hồi môi trường sống, quản lý sử 
dụng và cung cấp nước, quản lý giảm thiểu ô 
nhiễm và chất thải, cũng như quản lý sinh kế và 
an ninh lương thực. PEMSEA tận dụng các 
nguồn lực liên chính phủ, tài chính và trí tuệ 
rộng lớn để đưa ra các giải pháp tốt nhất cho 
vấn đề quản lý ven biển bền vững. 
Thành tựu gần đây nhất của PEMSEA là 
áp dụng hệ thống báo cáo “State of the 
Coasts” (SOC - Báo cáo tình trạng bờ biển), 
tập trung vào việc đánh giá quá trình, sự thay 
đổi và tác động của quản lý ven bờ tổng hợp 
(ICM) ở quy mô địa phương. Hiện tại đã có 
khoảng 10% của 238.000 km bờ biển của 
Đông Á triển khai ICM [6]. 
Cứ ba năm một lần, PEMSEA tổ chức Đại 
hội Biển Đông Á bao gồm Diễn đàn Bộ trưởng, 
Hội nghị Quốc tế và các sự kiện khác. Đại hội 
EAS 2018 dành cho nhiều bên liên quan bao 
gồm Chính phủ quốc gia và địa phương, hệ 
thống Liên Hợp quốc, các tổ chức liên chính 
phủ, các dự án song phương và đa biên, các tổ 
chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính 
phủ, các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức học 
thuật, cộng đồng khoa học, khu vực tư nhân và 
các bên liên quan khác. Đại Hội nghị tập trung 
vào việc theo dõi tiến trình của SDS-SEA, 
khuyến khích trao đổi kiến thức và nêu ra các 
vấn đề quan trọng liên quan đến quản lý ven 
biển trong khu vực. Nó cũng cố gắng tham gia 
vào khu vực tư nhân trong việc giúp phát triển 
các giải pháp tài chính và kinh doanh bền vững 
cho các vấn đề quản lý ven biển. Đại hội Biển 
Đông Á đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 
năm 2003 tại Putrajaya, Malaysia nhằm thực 
hiện các khuyến nghị của Hội nghị thượng đỉnh 
thế giới về phát triển bền vững (WSSD) với 
mục tiêu cải thiện tình hình liên quan đến bờ 
biển và đại dương. Tại Đại hội này, Brunei 
Darussalam, Campuchia, Trung Quốc, Triều 
Tiên, Indonesia, Nhật Bản, Malaysia, 
Philippines, RO Korea, Singapore, Thái Lan và 
Việt Nam đã thông qua Tuyên bố hợp tác khu 
vực vì sự phát triển bền vững của vùng biển 
Đông Á vào ngày 12 tháng 12 2003. Tuyên bố 
chính thức thông qua SDS-SEA như một chiến 
lược khu vực để phát triển bền vững các vùng 
biển của khu vực. 
Đại hội Biển Đông Á EAS lần hai tổ chức 
tại thành phố Hải Khẩu, tỉnh Hải Nam, Trung 
Quốc vào năm 2006. Các bên ký kết ban đầu 
của Tuyên bố Putrajaya (ngoại trừ Brunei 
Darussalam và Malaysia) và Nhật Bản đã 
thông qua thỏa thuận Hải Khẩu thiết lập các 
cơ chế điều phối và điều hành việc thực hiện 
SDS-SEA. 
Đại hội EAS năm 2012 tại thành phố 
Changwon, Hàn Quốc được tổ chức với chủ đề 
Xây dựng nền kinh tế xanh: Chiến lược, cơ hội 
và quan hệ đối tác ở vùng biển Đông Á. 
Đại hội EAS 2018 nhằm mục đích lôi kéo 
tất cả các bên liên quan tham gia: 
- Lập bản đồ và điều chỉnh việc thực hiện 
Chiến lược phát triển bền vững cho vùng biển 
Đông Á (SDS-SEA) và các chiến lược và kế 
hoạch hành động tiểu vùng và khu vực khác với 
các mục tiêu của SDG 14. 
- Chia sẻ kinh nghiệm và đánh giá các thách 
thức và cơ hội liên quan đến việc triển khai 
SDS-SEA ở cấp khu vực, quốc gia và địa 
phương bao gồm các chính sách và công nghệ 
đổi mới, thực tiễn quản lý tốt và cơ hội đầu tư. 
- Xây dựng dựa trên các quan hệ đối tác và 
thành tựu hiện có và thúc đẩy các sáng kiến, 
đầu tư và quan hệ đối tác mới để đẩy nhanh 
việc đạt được các mục tiêu quốc gia, khu vực và 
N.H. Thao, N.T.X. Son / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 
24 
toàn cầu để phát triển bền vững các đại dương 
và bờ biển. 
- Theo dõi sự phát triển và tăng trưởng của 
nền kinh tế xanh trên toàn khu vực bằng việc ra 
mắt các báo cáo quốc gia, tiểu vùng và khu vực 
của Đại dương. 
- Góp phần vào việc lập kế hoạch và phát 
triển một cơ sở đầu tư đại dương để thúc đẩy 
đầu tư của khu vực công và tư nhân tăng lên 
trong phát triển và tăng trưởng kinh tế xanh trên 
đại dương. 
- PEMSEA đã thúc đẩy các nước thông qua 
một số tuyên bố quốc gia về quản lý tổng hợp 
vùng biển. Tuyên bố Vịnh Manila năm 2001, là 
một cam kết giữa chính phủ quốc gia và các 
đơn vị chính quyền địa phương có liên quan ở 
Philippines trong việc thực hiện Chiến lược ven 
biển vịnh Manila, cung cấp khung quản lý môi 
trường cho vịnh Manila và các lưu vực sông. 
Philippines cũng thông qua Sắc lệnh 533 
EO533 tuyên bố Quản lý tổng hợp ven biển 
(ICM) là chiến lược quốc gia để phát triển bền 
vững tài nguyên biển và ven biển của đất nước. 
Thống đốc Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông và 
Thiên Tân, cùng với Quản trị viên của Cơ quan 
Quản lý Đại dương Nhà nước Trung Quốc đã 
ký Tuyên bố Bohai về Bảo vệ Môi trường, 
chính thức áp dụng các nguyên tắc, mục tiêu, 
biện pháp chính sách và hành động để giảm 
thiểu chất thải và ô nhiễm biển, ranh giới của 
các đô thị ven biển liền kề và các tỉnh [6]. 
2. Hợp tác về bảo vệ Môi trường biển trong 
khu vực ASEAN 
a. Tổng quan 
Là khu vực có hệ sinh thái phong phú và 
nguồn tài nguyên đa dạng, ASEAN luôn coi 
trọng bảo vệ môi trường, sử dụng và quản lý 
bền vững các nguồn tài nguyên phục vụ các 
mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài và ổn định. 
Bảo vệ môi trường biển là một thành tố không 
tách rời trong chiến lược bảo vệ môi trường của 
ASEAN. Tổ chức không có một cơ quan riêng 
về quản lý và bảo vệ môi trường biển riêng. 
Hợp tác môi trường được ASEAN quan tâm và 
thúc đẩy từ sớm. Từ năm 1977, ASEAN đã bắt 
tay vào việc soạn thảo Chương trình môi trường 
tiểu khu vực ASEAN I (ASEP I) với sự trợ giúp 
của Chương trình Môi trường LHQ (UNEP), 
đánh dấu mở đầu quá trình hợp tác bảo vệ môi 
trường trong khu vực. ASEP I do nhóm chuyên 
gia ASEAN về môi trường (AEGE) soạn thảo 
và được Ủy ban Khoa học và Công nghệ 
ASEAN (COST) thẩm định, có 6 vấn đề ưu tiên 
và trên 100 các dự án về môi trường. C ... i hiện trạng các nguồn tài 
nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường 
thuộc khu vực ASEAN; (iv) Thúc đẩy hợp tác 
trong ASEAN về các vấn đề môi trường khu 
vực; (v) Thúc đẩy hợp tác ASEAN tại các diễn 
đàn quốc tế. 
ASOEN có các nhóm công tác trực thuộc, 
bao gồm: Nhóm công tác về Môi trường biển và 
vùng ven bờ (AWGCME), Nhóm công tác về 
các Hiệp định môi trường đa phương 
(AWGMEA), Nhóm công tác về Bảo tồn thiên 
nhiên và đa dạng sinh học (AWGNCB), Nhóm 
đặc nhiệm về khói mù (ASOEN-HTTF), Nhóm 
công tác các thành phố bền vững về môi trường 
(AWGESC), Nhóm công tác về quản lý các 
nguồn nước (AWGWRM), Nhóm kỹ thuật 
ASEAN về Biến đổi khí hậu, Nhóm công tác 
ASEAN về đào tạo giáo dục môi trường, Nhóm 
chuyên gia xây dựng báo cáo hiện trạng môi 
trường ASEAN lần thứ 4. 
Trong hợp tác với các Đối tác đối thoại, 
ASEAN có cơ chế họp Hội nghị Bộ trưởng Môi 
trường ASEAN+3, và Hội nghị Bộ trưởng Môi 
trường EAS họp bên lề Hội nghị Bộ trưởng Môi 
trường ASEAN. Hỗ trợ và triển khai quyết định 
của các Bộ trưởng có Hội nghị Quan chức cao 
cấp ASEAN+3 và Hội nghị Quan chức cao cấp 
EAS về Môi trường. 
c. Văn kiện nền tảng và thực thi 
Tuyên bố ASEAN về Môi trường (Tuyên 
bố Ma-ni-la 1981) nêu ra các mục tiêu và định 
hướng hợp tác của khu vực. Hai chương trình 
ASEP nữa đã được phát triển và thực hiện, 
ASEP II từ 1982-1987, ASEP III từ 1988-1992. 
Trong giai đoạn 1999-2004, ASEAN đã xây 
dựng Kế hoạch hành động chiến lược về Môi 
trường (SPAE). Đồng thời, tầm nhìn ASEAN 
2015, Chương trình Hành động Viên Chăn 
(2004-2010), Kế hoạch Hành động Hà Nội 
(1999-2004) đã đề cập đến 12 chiến lược với 55 
chương trình lĩnh vực và biện pháp nhằm đạt 
được hai mục tiêu cơ bản là thúc đẩy môi 
trường bền vững và quản lý tài nguyên thiên 
nhiên bền vững. 
Hợp tác môi trường và ứng phó Biến đổi 
khí hậu lần đầu tiên được đề cập ở cấp cao 
trong các Tuyên bố của các Nhà Lãnh đạo tại 
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13 và Cấp 
cao EAS lần thứ 3 (Xinh-ga-po, tháng 
11/2007), bao gồm: Tuyên bố ASEAN về Môi 
trường bền vững; Tuyên bố ASEAN về Hội 
nghị lần thứ 13 các bên tham gia Công ước 
Liên Hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCC) 
và Hội nghị lần thứ 3 các bên tham gia Nghị 
định thư Ki-ô-tô; Tuyên bố EAS về Biến đổi 
khí hậu, Năng lượng và Môi trường. 
Các nước ASEAN đều nhất trí xác định 
những lĩnh vực ưu tiên trong hợp tác về môi 
trường và biến đổi khí hậu là: Khẳng định cam 
kết của các nước ASEAN đối với UNFCC và 
Nghị định thư Kyoto; đề ra các nguyên tắc cho 
việc đạt thỏa thuận quốc tế về giảm khí thải nhà 
kính sau năm 2012 như: “trách nhiệm chung, 
nhưng có sự khác biệt và tùy thuộc vào khả 
năng của mỗi nước”, các nước phát triển phải 
đóng vai trò đi đầu, có tính đến trình độ phát 
triển khác nhau của các quốc gia cũng như nhu 
cầu phát triển bền vững và trình độ phát triển 
của các nước đang phát triển. Các nước cần 
sớm có các biện pháp đáp ứng với môi trường 
khí hậu biến đổi; kêu gọi các nước phát triển 
thực hiện đúng cam kết tự nguyện giảm khí thải 
và gia tăng hỗ trợ kỹ thuật-công nghệ cho các 
nước đang phát triển. Theo đó, trong Tuyên bố 
ASEAN về Môi trường bền vững, các Nhà 
Lãnh đạo cũng khuyến khích việc thúc đẩy 
Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu (ACCI). 
Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng 
VHXH ASEAN 2015 khẳng định mục tiêu 
“ASEAN hướng tới phát triển bền vững cũng 
như đảm bảo môi trường xanh và trong lành 
bằng cách bảo vệ nguồn tài nguyên thiên 
nhiên, cơ sở phát triển kinh tế, xã hội bao 
gồm quản lý và bảo tồn bền vững dầu mỏ, 
nguồn nước, khoáng sản, năng lượng, đa dạng 
sinh học, rừng, các tài nguyên biển và ven bờ 
cũng như thúc đẩy việc đảm bảo chất lượng 
nguồn nước và không khí cho khu vực 
N.H. Thao, N.T.X. Son / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 
26 
ASEAN. ASEAN sẽ tích cực tham gia vào 
các nỗ lực toàn cầu nhằm giải quyết những 
thách thức môi trường toàn cầu trong đó có 
biến đổi khí hậu, bảo vệ tầng ô-zôn cũng như 
phát triển và ứng dụng công nghệ thân thiện 
với môi trường vì nhu cầu bảo vệ môi trường 
bền vững”. 
Tại các kỳ Hội nghị Cấp cao ASEAN hàng 
năm, các nhà Lãnh đạo ASEAN đều thông qua 
Tuyên bố chung về Ứng phó với biến đổi khí 
hậu, thể hiện lập trường của ASEAN và đóng 
góp cho các nỗ lực chung toàn cầu về ứng phó 
Biến đổi khí hậu, thông qua Hội nghị các bên 
tham gia Công ước khung của Liên Hợp quốc 
về Biến đổi khí hậu (COP/CMP). Năm 2010, 
trên cơ sở sáng kiến đề xuất của Việt Nam, Hội 
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 16 đã thông qua 
Tuyên bố của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về 
Ứng phó Biến đổi khí hậu, củng cố thêm quyết 
tâm của các nước ASEAN thông qua việc đề ra 
phương hướng và biện pháp đẩy mạnh hợp tác 
để ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu, 
triển khai Sáng kiến Biến đổi khí hậu ASEAN, 
xây dựng kế hoạch chung và khẳng định quan 
điểm của ASEAN, đóng góp vào nỗ lực chung 
nhằm sớm đạt được một thỏa thuận quốc tế 
mang tính ràng buộc pháp lý về biến đổi khí 
hậu [2]. 
ASEAN cũng đề ra các hành động cụ thể, 
xác định biện pháp thực hiện trong KHTT nhằm 
hiện thực hóa mục tiêu trên, thể hiện ở các mục 
D.1 (Giải quyết các vấn đề môi trường toàn 
cầu), D.2 (Quản lý và ngăn ngừa ô nhiễm môi 
trường xuyên biên giới), D.3 (Thúc đẩy phát 
triển bền vững thông qua giáo dục môi trường 
và sự tham gia của cộng đồng), D.4 (Phát triển 
Công nghệ An toàn Môi trường (EST)), D.5 
(Nâng cao chất lượng cuộc sống tại các thành 
phố/khu vực đô thị của ASEAN), D.6 (Hài hòa 
các chính sách và cơ sở dữ liệu về môi trường), 
D.8 (Thúc đẩy quản lý bền vững các nguồn tài 
nguyên thiên nhiên và da dạng sinh học), D.9 
(Phát triển Bền vững của Nguồn nước ngọt), 
D.10 (Đối phó với Biến đổi Khí hậu và giải 
quyết các tác động của Biến đổi Khí hậu), D.11 
(Thúc đẩy Quản lý Rừng Bền vững). Ứng phó 
biến đổi khí hậu, một bộ phận quan trọng của 
hợp tác môi trường, cùng với xu hướng chung 
toàn cầu, đã trở thành ưu tiên cao của ASEAN 
và trong quan hệ với các Đối tác đối thoại. Liên 
tục trong các năm gần đây, tại mỗi kỳ Hội nghị 
Cấp cao, Lãnh đạo ASEAN đều ra Tuyên bố 
chung về Biến đổi khí hậu, thể hiện quan điểm 
và khẳng định lập trường của ASEAN, đóng 
góp cho các Hội nghị COP/CMP hàng năm. 
ASEAN một mặt cam kết ủng hộ và đóng góp 
tích cực cho các nỗ lực toàn cầu về bảo vệ môi 
trường và ứng phó biến đổi khí hậu, mặt khác, 
trên quan điểm của các nước đang phát triển, 
duy trì quan điểm “Trách nhiệm chung, có khác 
biệt tùy thuộc vảo khả năng mỗi nước”, muốn 
các nước phát triển phải đóng vai trò đi đầu 
trong tự nguyện cắt giảm khí thải, gia tăng hỗ 
trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển. Năm 
2007, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua 
Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu 
(ACCI) nhằm tạo khuôn khổ tăng cường hợp 
tác khu vực trong lĩnh vực này. ASEAN cũng 
đã lập Nhóm công tác ASEAN về biến đổi 
khí hậu. Nhằm khẳng định quyết tâm của khu 
vực đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu, các 
nhà Lãnh đạo ASEAN đã ra Tuyên bố về hợp 
tác ứng phó với biến đổi khí hậu năm 2010 
với Kế hoạch hành động ASEAN về Biến đổi 
khí hậu đến 2020. 
ASEAN đã thành lập Trung tâm Bảo tồn đa 
dạng sinh học khu vực ASEAN (ARCBC) với 
sự hỗ trợ tài chính của Liên minh Châu Âu. 
Mục tiêu của Trung tâm này là tăng cường hợp 
tác khu vực trong bảo tồn đa dạng sinh học, 
đồng thời đóng vai trò là đầu mối trong việc 
thiết lập mạng lưới và liên kết giữa các cơ quan 
của các nước thành viên ASEAN và giữa 
ASEAN với các cơ quan đối tác của Liên minh 
châu Âu. Tuyên bố ASEAN về Vườn di sản 
năm 2003 nhằm mục đích thiết lập một mạng 
lưới các khu vực quốc gia được bảo vệ hướng 
tới bảo tồn các hệ thống sinh thái đại diện quan 
trọng trong khu vực ASEAN. 
Về vấn đề môi trường biển, các Bộ trưởng 
môi trường ASEAN đã thông qua cơ chế 
ASEAN về năng cao giám sát việc tách bùn và 
xả các thùng chất thải trái phép trên biển trái 
N.H. Thao, N.T.X. Son / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 27 
phép, trong đó cùng phối hợp các nỗ lực trong 
ASEAN nằm kiểm soát các hoạt động xả chất 
thải và thúc đẩy xả thải ở các khu vực được cấp 
phép. Trong bảo đảm quản lý bền vững môi 
trường biển và các vùng duyên hải, ASEAN 
cũng đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo, tổ chức 
hướng dẫn đào tạo nguồn nhân lực và triển khai 
một số dự án hợp tác thí điểm giám sát, quản lý 
các khu vực biển giáp biên giới của nhau. 
Trong năm 2008, ASEAN cũng đã hoàn tất 
Bản hướng dẫn giám sát chất lượng nước biển 
và hướng dẫn về quản lý và chính sách chất 
lượng nguồn nước nhằm nâng cao năng lực của 
các quốc gia ASEAN trong việc thực hiện Tiêu 
chuẩn quản lý nguồn nước ASEAN. Bản hướng 
dẫn đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát, 
đánh giá, phân tích và cùng phối hợp hướng tới 
muc tiêu hài hòa các tiêu chuẩn nguồn nước 
trong ASEAN.[2] 
d. Các hạn chế của cơ chế quản lý môi trường 
ASEAN 
ASEAN không có một tổ chức chuyên trách 
về môi trường. Chức năng BVMT bị "xé nhỏ" 
ra nhiều thiết chế khác nhau của Hiệp hội. Việc 
phân tán chức năng sẽ làm giảm hiệu quả hợp 
tác ASEAN trong lĩnh vực này. Tất cả các cơ 
quan ASEAN về BVMT đều hoạt động trên cơ 
sở kiêm nhiệm, là tập hợp đại diện các quốc gia 
thành viên. Điều này có lợi trong việc đưa ra 
một chính sách môi trường khu vực chung 
mang tính trung hòa. Nhưng mặt khác, tính 
kiêm nhiệm không cho phép đại diện các nước 
tập trung hoàn toàn vào hoạt động môi trường 
của ASEAN. 
ASEAN thiếu một khung pháp lý đủ mạnh 
làm cơ sở cho việc triển khai chính sách môi 
trường chung. Hầu hết, các văn kiện của 
ASEAN trong lĩnh vực này đều là văn kiện 
chính trị, ít tính ràng buộc pháp lý. Cơ sở pháp 
lý lỏng lẻo là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến 
việc các chính sách về môi trường chỉ dừng lại 
ở mức tuyên bố, không đi vào thực tiễn. Ngay 
cả khi các nước thành viên Hiệp hội đồng thuận 
ký kết các văn kiện mang tính ràng buộc pháp 
lý, thì các văn bản này cũng gặp nhiều trục trặc 
trong khâu triển khai. Hiệp định ASEAN về bảo 
tồn thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên 
nhiên và Công ước Bảo tồn nguồn lợi ở biển 
Nam Cực năm 1980 được Hiệp hội tham gia từ 
1985 vẫn chưa chính thức có hiệu lực pháp lý. 
Hợp tác môi trường của ASEAN tương đối 
rộng, nhưng chưa đủ sâu, đặc biệt trong việc 
đối phó với những nguy cơ đe dọa nghiêm 
trọng bảo vệ môi trường biển. 
2. Kết luận 
1. Bảo vệ môi trường biển là nhiệm vụ 
cấp thiết. Các nước đều nhận thức được tầm 
quan trọng của vấn đề hợp tác bảo vệ môi 
trường biển. Tuy nhiên do những đặc điểm 
khác nhau về lịch sử, chính trị, kinh tế kỹ 
thuật và văn hóa, nên tại các khu vực trên thế 
giới có những mô hình khác nhau. 
2. Mô hình phát triển hiệu quả nhất đối với 
từng khu vực là xây dựng và phát triển các 
Công ước khu vực về bảo vệ môi trường biển. 
Khu vực Đông Á đã có những nỗ lực quản lý 
chung bảo vệ môi trường biển thông qua cơ chế 
PEMSEA. Đây là cơ chế kết hợp, thu hút sự 
tham gia của các chính phủ, các tổ chức, các 
doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân, đối tác trong 
chung tay quản lý bền vững vùng ven biển và 
biển Đông Á. Tuy nhiên, đây chỉ là mô hình 
mềm, không ràng buộc pháp lý, chưa thực sự có 
hiệu quả theo chiều sâu. 
3. Vấn đề môi trường đã được ASEAN chú 
trọng từ sớm. Tuy nhiên cơ chế quản lý môi 
trường và cơ sở pháp lý để thực hiện của 
ASEAN còn tường đối lỏng lẻo. 
Để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực môi 
trường, trong thời gian tới ASEAN cần tập 
trung vào một số vấn đề sau: 
Thứ nhất, ASEAN cần thành lập cơ quan 
chuyên trách trong lĩnh vực môi trường biển. 
Với việc mở rộng hợp tác của ASEAN cần thiết 
phải có một cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ 
điều phối, quản trị, kiểm tra, giám sát việc thực 
thi các chính sách môi trường của Hiệp hội, 
trong đó có môi trường biển. Trong Tuyên bố 
Manila về môi trường ASEAN năm 1981 đã đề 
N.H. Thao, N.T.X. Son / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 20-28 
28 
cập đến việc thành lập ủy ban môi trường 
ASEAN độc lập, tuy nhiên đến nay việc này 
vẫn chưa được triển khai. Đã đến lúc phải có 
một thể chế khu vực với quyền lực đủ mạnh để 
đưa các chính sách môi trường vào thực tiễn. 
Thứ hai, cần hoàn thiện và đồng bộ khung 
pháp lý ASEAN trong BVMT. "Phương thức 
ASEAN" - cơ chế đồng thuận trong việc đưa ra 
quyết định của Hiệp hội, với ưu điểm là đảm 
bảo bình đẳng lợi ích của tất cả các quốc gia - 
nhân tố quyết định trong đảm bảo an ninh và ổn 
định khu vực, đôi khi trở thành rào cản đối với 
việc xây dựng các văn bản pháp lý của ASEAN. 
Thời gian tới, Hiệp hội cần có những bước đi 
đột phá, áp dụng linh hoạt phương thức này 
trong xây dựng các hiệp ước về môi trường, 
nhất là các hiệp ước về môi trường biển và biến 
đổi khí hậu. 
Thứ ba, các nước khu vực cần tập trung họp 
tác đối phó với nguy cơ ô nhiễm biển xuyên 
biên giới, mực nước biển dâng cao, biến đổi khí 
hậu, suy giảm đa dạng sinh học và việc xây 
dựng các nhà máy điện nguyên tử lưu động 
trong Biển Đông. Các nuớc ASEAN cần đưa ra 
những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả 
của họp tác trong các lĩnh vực then chốt này. 
Lời cảm ơn 
Bài báo là sản phẩm của việc nghiên 
cứu Đề tài: "Pháp luật quốc tế và quốc gia về 
bảo vệ môi trường biển: nghiên cứu trường hợp 
Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước 
Đông Á", Mã số: CA.18.3A do Trung tâm Hỗ 
trợ Nghiên cứu Châu Á - ĐHQGHN tài trợ. 
Tài liệu tham khảo 
[1] ASEAN leaders statement on climate change to 
the 17th ses-sion oỷthe Con/erence ofthe Parties 
to the United Nationsỷrame work cơnvention ôn 
clìmate change and the 7th session of the Con-
/erence of parties serving as the meetỉng parties ót 
the Kyoto Pro-tocol. Bali, Indonesia, 18 
November 2011. Truy cập ngày 22/3/2019 tại: 
http:// www.aseansec.org/documents/19th%20su
mmit/ASEAN_Lead-
ers%27_Statement_on_Climate_Change.pdf. 
[2] Bangkok Declaration on the ASEAN 
Environment. Bangkok, Thailand, 29 November 
1984. Truy cập ngày 28/4/2019 tại: 
[3] Globalism and regionalism in the protection of the 
marine environment, Truy cập ngày 28/4/2019 tại: 
https://text.123doc.org/document/740029-
globalism-and-regionalism-in-the-protection-of-
the-marine-environment.htm OSPAR Convention, 
https://www.ospar.org/convention. 
[4] K. Kheng-Lian, NA. Robison, Strengthening 
sustainable Development in Regional In-
Governmental Covernance: Lessons from the 
“ASEAN Way”, Singapore Journal of 
International and Comparative Law, 2002. - 16. 
[5] Manila Declaration on the ASEAN Environment. 
Manila, Philippines, 30 April 1981, truy cập ngày 
27/4/2019 tại: 
eements:maniladeclaration. 
[6] Naoki Amako , Japan’s MPA Policies and 
arrangements pertaining to the work of 
NEAMPAN, truy cập ngày 27/4/2019 tại: 
MOE_amako.pdf. 
[7] New Delhi ASEAN - India Ministerial Statement 
on Biodi-versity. 
 New Delhi, India, 7 September 2012. Truy 
cập ngày 23/3/2019 tại: 
http:// www.asean.org/images/2012/documents/N
ew%20Delhi%20ASEA N%20India%20Ministeri
al%20Statement%20on%20Biodiver-
sity%20Final.pdf. 
[8] JW. Davis, Global Aspectes of Marine Pollution 
Policy. The Need for a New International 
Convention (1990) 14 Marine Policy 191. 

File đính kèm:

  • pdfhop_tac_quoc_te_ve_bao_ve_moi_truong_bien_trong_khu_vuc_dong.pdf