Học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ - Khái niệm và các hình thức đại diện

Hoa Kỳ với cấu trúc gồm 50 tiểu bang. Bởi vậy, hệ thống pháp luật của là một nhà nước liên bang

Hoa Kỳ được cấu thành từ 2 hợp phần: hệ

thống pháp luật của liên bang và hệ thống

pháp luật của 50 tiểu bang.

Xét về nguồn luật nói chung, nguồn

luật chủ yếu ở Hoa Kỳ bao gồm:

- Hiến pháp của liên bang và của

từng bang;

- Án lệ;

- Các đạo luật thành văn;

- Các quy phạm do cơ quan hành

chính nhà nước ban hành;

- Các học thuyết pháp lý.

Ngoài những nguồn luật cơ bản nêu

trên, còn có nguồn luật thứ cấp thường

được các Thẩm phán sử dụng trong quá

trình giải quyết các vụ việc tại Toà, ví dụ

như các bài báo, các cuốn bách khoa thư

trong lĩnh vực luật

pdf 6 trang kimcuc 5340
Bạn đang xem tài liệu "Học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ - Khái niệm và các hình thức đại diện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ - Khái niệm và các hình thức đại diện

Học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ - Khái niệm và các hình thức đại diện
63Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHẠM THỊ TRANG
Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang với cấu trúc gồm 50 tiểu bang. Bởi vậy, hệ thống pháp luật của 
Hoa Kỳ được cấu thành từ 2 hợp phần: hệ 
thống pháp luật của liên bang và hệ thống 
pháp luật của 50 tiểu bang.
Xét về nguồn luật nói chung, nguồn 
luật chủ yếu ở Hoa Kỳ bao gồm: 
- Hiến pháp của liên bang và của 
từng bang;
- Án lệ; 
- Các đạo luật thành văn;
- Các quy phạm do cơ quan hành 
chính nhà nước ban hành;
- Các học thuyết pháp lý.
Ngoài những nguồn luật cơ bản nêu 
trên, còn có nguồn luật thứ cấp thường 
được các Thẩm phán sử dụng trong quá 
trình giải quyết các vụ việc tại Toà, ví dụ 
như các bài báo, các cuốn bách khoa thư 
trong lĩnh vực luật
Về vấn đề đại diện, thực chất Hoa Kỳ 
không có một đạo luật nào ở cấp độ liên 
bang hay tiểu bang về vấn đề này. Toàn 
bộ học thuyết, lý thuyết về vấn đề này 
được khái quát, mô tả trong Bản phát biểu 
số 3 về đại diện (“Restatement on Agency 
3rd”). Bản phát biểu này đề cập đến hàng 
loạt nội dung xoay quanh vấn đề đại diện 
như khái niệm đại diện; các hình thức đại 
diện; xác lập và chấm dứt quan hệ đại diện; 
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ 
CÁC HÌNH THỨC ĐẠI DIỆN 
PHẠM THỊ TRANG*
* Thạc sĩ, Trưởng khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại 
học Kiểm sát Hà Nội
Đại diện luôn đóng vai trò là một chế định quan trọng trong pháp luật dân 
sự của bất kỳ quốc gia nào. Các nước theo truyền thống pháp luật Anh - Mỹ 
(Common Law) đã có những bước tiến dài trong việc phát triển và hoàn thiện học 
thuyết về đại diện. Bài viết tập trung giới thiệu hai vấn đề quan trọng liên quan 
đến học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ là khái niệm đại diện và các hình thức đại 
diện, như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về chế định này ở Việt Nam.
Từ khoá: Đại diện, uỷ thác, đại diện rõ ràng, đại diện ngầm định, đại diện bề 
ngoài, đại diện thông qua phê chuẩn.
Ngày nhận bài: 21/4/2020; Ngày biên tập xong: 22/4/2020; Ngày duyệt đăng: 
22/4/2020.
Agency always acts as a very important issue in the field of civil law. It 
seems that countries belong to common legal tradition have made great strides 
in developing and perfecting the agency theory. This article introduces the 
United States theory on the concept and forms of agency as referenced material 
for anybody who takes the study on agency. 
Keywords: Agency, fiduciary, actual authority, implied authority, apparent 
authority, authority by approval.
64
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
đại diện cho nhiều người; quyền và nghĩa 
vụ của bên được đại diện, bên đại diện và 
bên thứ ba. Đây là một tài liệu do các luật 
sư, học giả và Thẩm phán của Viện luật 
Hoa Kỳ tổng hợp từ các quan điểm, cách 
lý giải của các Thẩm phán về vấn đề đại 
diện trong quá trình giải quyết các vụ án 
và được xuất bản năm 2006. Chính vì vậy, 
tuy không phải là án lệ nhưng do được 
tập hợp từ các quan điểm của Thẩm phán 
đã lý giải để đưa ra phán quyết của mình 
trong quá trình giải quyết các vụ án nên 
các nội dung của Bản phát biểu này có giá 
trị như là những khuôn mẫu để các Thẩm 
phán khác áp dụng khi gặp các vụ án có 
liên quan đến vấn đề đại diện. 
1. Khái niệm đại diện 
Khái niệm đại diện được quy định 
tại khoản 1(1) của Bản phát biểu số 3 về 
đại diện như sau: “một quan hệ uỷ thác 
(fiduciary) là kết quả từ sự đồng ý của một 
người cho phép người khác thay mặt mình, 
kiểm soát người khác hành động thay mình và 
người khác cũng đồng ý hành động như vậy”1.
Với định nghĩa này, có thể thấy rằng 
một quan hệ được coi là quan hệ đại diện 
nếu quan hệ đó thoả mãn 3 điều kiện sau:
Một là, có sự đồng ý của người đại diện 
và người được đại diện
Đây là điều kiện đầu tiên để xác lập 
quan hệ đại diện. Theo đó, để xác lập 
quan hệ đại diện, buộc phải có sự đồng 
ý của người được đại diện và người đại 
1 Nguyên bản tiếng Anh “the fiduciary relation 
[that] results from the manifestation of consent by 
one person to another that the other shall act in his 
[or her] behalf and subject to his [or her] control, 
and consent by the other so to act” quy định tại § 
1.01 của Restatement on agency 3rd
diện, cụ thể: (1) người được đại diện phải 
bày tỏ sự đồng ý để người đại diện thay 
mặt mình hành động và kiểm soát hành 
động của người đại diện; và (2) người đại 
diện cũng phải đồng ý với người được đại 
diện về hai nội dung đó.
Sự đồng ý của các bên trong quan hệ 
đại diện phải được thể hiện bằng văn bản, 
lời nói hoặc có thể được hiểu ngầm định 
từ hành động của các bên trong quan hệ 
đại diện.2 
Hai là, người đại diện sẽ thay mặt người 
được đại diện
Trong quan hệ đại diện, người đại 
diện sẽ thay mặt người được đại diện. 
Việc thay mặt này được hiểu là người đại 
diện sẽ hành động với tư cách của người 
được đại diện, vì lợi ích của người được 
đại diện chứ không phải vì lợi ích của 
chính người đại diện hay của một bên thứ 
ba nào khác. Nếu trong phạm vi đại diện, 
người đại diện xác lập giao dịch với một 
bên thứ ba thì giao dịch đó được coi là 
giữa người được đại diện và bên thứ ba.
Ba là, người được đại diện sẽ kiểm soát 
hành động của người đại diện
Người đại diện sẽ hành động dưới 
sự kiểm soát của người được đại diện là 
một điều kiện bắt buộc trong quan hệ đại 
diện. Lý do phải có sự kiểm soát này là 
bởi trong quan hệ đại diện, người đại diện 
phải hành động trong phạm vi được đại 
diện. Sự kiểm soát của người được đại 
diện sẽ một phần giúp cho người đại diện 
không hành động vượt quá phạm vi này. 
2 Điều § 1.03 của Restatement on agency 3rd. 
Nguyên bản tiếng Anh “A person manifests assent 
or intention through written or spoken words or 
other conduct”.
65Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHẠM THỊ TRANG
Việc kiểm soát của người được đại diện 
đối với người đại diện không phải kiểm 
soát tất cả hành động của người đại diện. 
Trong vụ Green vs. H&R Block Inc, Thẩm 
phán toà Maryland đã cho rằng: “Việc kiểm 
soát của người được đại diện không phải là 
kiểm soát từng hành động, từng giây phút 
đối với người đại diện”. Việc kiểm soát này 
chỉ nên đặt ra đối với kết quả hành động 
của người đại diện mà thôi. 
2. Hình thức đại diện
Trong Bản phát biểu thứ 3 về đại diện, 
các học giả đã đề cập đến bốn hình thức 
đại diện, cụ thể như sau: 
2.1. Đại diện rõ ràng
Đại diện rõ ràng được hiểu là trường 
hợp người được đại diện thể hiện rõ ràng 
ý chí của mình là để cho người đại diện 
hành động thay mặt mình và người đại 
diện cũng đồng ý thay mặt người được đại 
diện để thực hiện việc đó. Ý chí này được 
thể hiện qua lời nói, qua hành vi của người 
được đại diện hoặc qua một hay một số 
văn bản cụ thể. Ví dụ, theo quy định của 
pháp luật, của Điều lệ hay của một văn 
bản nội bộ nào đó trong công ty là: Tổng 
giám đốc sẽ là đại diện của công ty, hay 
Tổng giám đốc ký văn bản uỷ quyền cho 
Phó tổng giám đốc thay mặt công ty ký các 
hợp đồng cụ thể như hợp đồng mua bán 
có giá trị dưới 500 triệu đồng
Với đại diện rõ ràng, sẽ rất dễ dàng để 
xác định ai là người đại diện của công ty. 
Đó chính là người được chỉ định bởi người 
được đại diện, cụ thể: trường hợp văn bản 
pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định 
Tổng giám đốc là người đại diện của công 
ty thì Tổng giám đốc sẽ thay mặt công ty 
thực hiện các giao dịch với đối tác, ký kết 
các hợp đồng; hoặc trong trường hợp Phó 
tổng giám đốc được uỷ quyền ký hợp đồng 
thì Phó tổng giám đốc sẽ là người đại diện 
của công ty. Đại diện rõ ràng cũng giúp 
chúng ta dễ dàng xác định được phạm vi 
của đại diện. Phạm vi đại diện sẽ quyết 
định việc giao dịch đó có ràng buộc người 
được đại diện hay không. Nếu giao dịch 
giữa người đại diện với người thứ ba nằm 
trong phạm vi đại diện thì giao dịch đó sẽ 
có giá trị ràng buộc công ty, người được 
đại diện và ngược lại. 
Quay trở lại hai ví dụ trên, có thể thấy: 
Trường hợp Tổng giám đốc là người đại 
diện của công ty thì nhiệm vụ, quyền hạn 
của Tổng giám đốc sẽ tuân theo các quy 
định của pháp luật hoặc điều lệ của công 
ty và bị giới hạn bởi các quy định đó. Còn 
trong trường hợp Phó tổng giám đốc được 
Tổng giám đốc uỷ quyền ký các hợp đồng 
mua bán có giá trị dưới 500 triệu đồng, 
phạm vi đại diện đã được xác định rõ ràng 
là Phó tổng giám đốc này chỉ được ký kết 
các hợp đồng có giá trị dưới 500 triệu đồng 
thôi. Trường hợp Phó tổng giám đốc ký 
các hợp đồng có giá trị từ 500 triệu đồng 
trở lên thì những hợp đồng này sẽ coi là 
ngoài phạm vi đại diện và sẽ không có giá 
trị ràng buộc công ty.
2.2. Đại diện ngầm định
Đại diện ngầm định được hiểu là 
trường hợp mặc dù không có một quan 
hệ rõ ràng nhưng các bên ngầm hiểu với 
nhau là có sự hiện diện của một quan 
hệ đại diện. Đại diện ngầm định thường 
được cho là xuất phát từ đại diện rõ ràng. 
Một ví dụ điển hình thường được các học 
giả đưa ra để nói về đại diện ngầm định 
là trường hợp Tổng giám đốc của công ty 
X uỷ quyền cho ông Y là Giám đốc điều 
hành của công ty ký hợp đồng mua bán 
66
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
một dây chuyền công nghệ cho nhà máy 
sản xuất. Để ông Y có thể ký hợp đồng 
với đối tác Z, ông phải bay đến trụ sở của 
đối tác Z. Các hợp đồng mini phục vụ cho 
việc ký kết hợp đồng mua bán của ông Y 
như ăn nghỉ tại khách sạn gần trụ sở của 
đối tác Z, di chuyển trên taxi đều có giá 
trị ràng buộc công ty X vì bản chất, đây 
là những hợp đồng do ông Y ký thay mặt 
cho công ty X. Mặc dù không có văn bản 
uỷ quyền của Tổng giám đốc công ty X cho 
ông Y một cách rõ ràng đối với việc ký kết 
các hợp đồng mini đó nhưng thẩm quyền 
đại diện của ông Y trong trường hợp này 
đối với những hợp đồng mini được coi là 
quyền đại diện ngầm định xuất phát từ 
việc uỷ quyền rõ ràng của Tổng giám đốc 
công ty X đối với hợp đồng mua bán dây 
chuyền công nghệ. 
Do phái sinh từ thẩm quyền đại diện 
rõ ràng nên trong quan hệ đại diện ngầm 
định, người đại diện sẽ có thẩm quyền đại 
diện trong việc xác lập các giao dịch cần 
thiết để thực hiện thẩm quyền đại diện 
rõ ràng và phù hợp với mục tiêu đại diện 
rõ ràng. Thẩm quyền này có thể được xác 
định bởi tập quán hoặc được suy ra từ vị 
trí của người đại diện. Đồng thời, thẩm 
quyền đại diện ngầm định không được 
mâu thuẫn với thẩm quyền đại diện rõ 
ràng. Ví dụ, trong văn bản uỷ quyền của 
Tổng công ty X nói rõ việc ăn ở của ông Y 
trong quá trình ký hợp đồng mua bán sẽ 
do bộ phận Văn phòng của công ty đảm 
nhiệm thì ông Y cũng sẽ không được ký 
hợp đồng ăn nghỉ tại khách sạn. Nếu ông 
Y ký hợp đồng với khách sạn thì hợp đồng 
này không có giá trị ràng buộc công ty X.
2.3. Đại diện thông qua phê chuẩn
Đại diện thông qua phê chuẩn được 
hiểu là trường hợp mà một người nhân 
danh người khác xác lập giao dịch với 
người thứ ba mà trên thực tế, người này 
không có thẩm quyền đại diện. Tuy nhiên, 
sau đó, người được đại diện đồng ý phê 
chuẩn giao dịch đã được xác lập.
Về nguyên tắc, trong trường hợp 
người đại diện thực hiện giao dịch mà 
không có thẩm quyền đại diện thì giao 
dịch đó sẽ không có giá trị ràng buộc đối 
với người được đại diện. Tuy nhiên, trong 
trường hợp này, nếu người được đại diện 
chấp nhận giao dịch đã xác lập thì giao 
dịch đó vẫn có giá trị ràng buộc đối với 
người được đại diện. Điều đó cũng đồng 
nghĩa với việc quan hệ đại diện vẫn được 
thiết lập, và đây là trường hợp đại diện 
thông qua phê chuẩn. 
Một số điều kiện để việc phê chuẩn có 
hiệu lực bao gồm: 
- Người được đại diện phải là người 
thực hiện hành vi phê chuẩn;
- Người được đại diện phải biết được 
tất cả nội dung liên quan đến giao dịch. 
Nếu người được đại diện phê chuẩn giao 
dịch mà không biết được tất cả nội dung 
của giao dịch thì người được đại diện có 
quyền huỷ giao dịch đó;
- Người được đại diện phải chấp nhận 
toàn bộ hành động của người đại diện;
- Người được đại diện phải có đủ 
năng lực pháp lý để uỷ quyền thực hiện 
giao dịch tại thời điểm người đại diện xác 
lập giao dịch và tại thời điểm người được 
đại diện phê chuẩn giao dịch. Bên thứ ba 
cũng phải có đủ năng lực pháp lý để xác 
lập giao dịch;
- Người được đại diện phải thực 
hiện việc phê chuẩn trước thời điểm bên 
67Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHẠM THỊ TRANG
thứ ba huỷ bỏ giao dịch;
- Người được đại diện phải tuân thủ 
đúng hình thức khi phê chuẩn giao dịch3.
2.4. Đại diện bề ngoài
Khi người đại diện không nhận được 
uỷ quyền từ người được đại diện thì họ 
sẽ không có quyền đại diện. Tuy nhiên, 
trên thực tế, có rất nhiều trường hợp một 
người hành động khi chưa có uỷ quyền rõ 
ràng từ người được đại diện nhưng vẫn 
được coi là tồn tại quan hệ đại diện nếu 
mối quan hệ đó thoả mãn lý thuyết về đại 
diện bề ngoài với những điều kiện sau:
Thứ nhất, người được đại diện (A) 
theo một cách thức nào đó làm cho bên 
thứ ba tin tưởng rằng: B, người sẽ thực 
hiện giao dịch với bên thứ ba, chính là 
người đại diện của A. Đây là điểm khác 
biệt cơ bản giữa đại diện bề ngoài so với 
đại diện rõ ràng như đã nói ở trên. Nếu 
như trong quan hệ đại diện rõ ràng, người 
được đại diện sẽ phải có hành động, lời 
nói làm cho người đại diện biết rõ rằng 
mình có đủ thẩm quyền đại diện để thay 
mặt cho người được đại diện thực hiện các 
giao dịch thì trong đại diện bề ngoài, hành 
động của người được đại diện lại hướng 
tới người thứ ba và làm cho người thứ 
ba hiểu rằng người đại diện có đủ thẩm 
quyền để thay mặt cho người được đại 
diện tham gia vào giao dịch. 
Thứ hai, dựa trên sự thể hiện của A, 
người thứ ba tin tưởng B chính là đại 
diện của A và đã hành động dựa trên 
niềm tin ấy.
3 Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller, 
Frank B. Cross, Business Law, Text and Cases 
(Cengage Learning, 2015).
Sự tin tưởng của người thứ ba trong 
trường hợp này phải được coi là phù hợp, 
có nghĩa là người thứ ba phải chứng minh 
rằng sự tin tưởng ấy là hợp lý. Tính hợp 
lý ở đây được hiểu là: hoàn cảnh thực 
tế trong trường hợp đó phải chỉ ra rằng 
một người trong điều kiện, tập quán kinh 
doanh thông thường và với mức độ cẩn 
trọng phù hợp sẽ nhận thấy người đại 
diện có đủ thẩm quyền để thực hiện giao 
dịch. Trên thực tế, có rất nhiều vụ án phát 
sinh liên quan đến đại diện bề ngoài. Việc 
xác định một quan hệ có đủ yếu tố để coi 
đó là một đại diện bề ngoài hay không là 
rất phức tạp. Thẩm phán sẽ phải tiến hành 
xem xét tất cả mọi yếu tố liên quan đến 
quan hệ đó và đối chiếu xem có thoả mãn 
hai điều kiện như đã nói ở trên hay không? 
Ví dụ có thể kể ra ở đây như vụ Essco 
Geometric v. Harvard Industries4. Trong 
vụ án này, Harvard Industries là nhà sản 
xuất đồ nội thất với sản phẩm chủ yếu là 
ghế, còn Essco Geometric (tên thương mại 
là Diversified) là công ty chuyên bán các 
sản phẩm keo bọt. Harvard Industries đã 
mua các sản phẩm keo bọt của Diversified 
để sản xuất các sản phẩm của mình. Hai 
bên đã thiết lập quan hệ mua bán trong 
khoảng thời gian hơn 20 năm. Các giao dịch 
được xác lập giữa Frank Best, Giám đốc bộ 
phận mua hàng của Harvard Industries 
và Edsel Safron, Chủ tịch của Diversified. 
Năm 1988, Frank Best nghỉ hưu và Michael 
Gray, một nhân viên mua hàng thay thế 
vị trí của Frank Best. Hai bên tiếp tục việc 
mua bán hàng giữa Harvard Industries và 
Essco Geometric.
4 Essco Geometric v. Harvard Industries, 46 F.3d 
718
68
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
Năm 1989, Chủ tịch của Harvard 
Industries, Ed Kruske, ban hành hai văn 
bản nội bộ và chỉ gửi cho Gray với nội 
dung: (1) tất cả các đơn đặt mua hàng 
phải được gửi cho Kruske trước khi gửi 
cho bên bán và (2) tất cả các đơn hàng có 
giá trị lớn hơn 50 đô la Mỹ sẽ phải có sự 
chấp thuận của cả Giám đốc bộ phận mua 
hàng và Kruske.
Năm 1990, Gray và Safron ký một 
thoả thuận, trong đó Diversified độc 
quyền bán hàng cho Harvard Industries 
trong thời hạn hai năm. Đây là một thoả 
thuận độc quyền và không huỷ ngang. 
Tuy nhiên, Kruske đã từ chối thực hiện 
thoả thuận này và Diversified đã khởi 
kiện ra toà Minnisota để đòi bồi thường vì 
cho rằng Harvard Industries đã vi phạm 
thoả thuận. 
Một trong những vấn đề mấu chốt để 
xác định Harvard Industries có vi phạm 
thoả thuận hay không là việc xác định 
Gray có đủ quyền đại diện cho Harvard 
Industries để ký thoả thuận với Diversified 
hay không? Trong trường hợp Gray có 
quyền đại diện thì Harvard Industries sẽ 
bị ràng buộc bởi thoả thuận đã ký giữa 
Gray và Safron. Khi đã bị ràng buộc, việc 
Kruske từ chối thực hiện thoả thuận sẽ bị 
coi là vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận và 
sẽ phải bồi thường cho Diversified. Ngược 
lại, nếu Gray không có đủ quyền đại diện 
thì Harvard Industries sẽ không chịu sự 
ràng buộc của thoả thuận.
Trong vụ án này, Toà cho rằng: 
Trong khoảng thời gian hơn 20 năm, 
Harvard Industries đã cho phép Frank 
Best, giám đốc bộ phận mua hàng, được 
phép lựa chọn bên bán cho Harvard 
Industries và xác lập giao dịch mua 
bán với tư cách đại diện cho Harvard 
Industries. Khi Gray thay thế cho Best, 
không có ai thông báo cho Diversified 
biết rằng Harvard Industries đã ban 
hành các quy định mới về quy trình mua 
hàng cũng như việc Giám đốc bộ phận 
mua hàng của Harvard đã bị hạn chế 
thẩm quyền trong việc thay mặt công 
ty xác lập giao dịch mua hàng. Bởi vậy, 
đối chiếu với hai điều kiện của đại diện 
bề ngoài, quan hệ giữa Gray và Harvard 
Industries đã cấu thành quan hệ đại diện 
bề ngoài trong giao dịch với Diversified 
và Gray hoàn toàn có đủ thẩm quyền để 
xác lập thoả thuận với Diversified. Thoả 
thuận này có giá trị ràng buộc Harvards 
Industries. Và khi Kruske từ chối thực 
hiện thoả thuận có nghĩa là Harvard 
Industries đã vi phạm thoả thuận đó. 
Từ vụ án trên, có thể thấy rằng việc 
xem xét một quan hệ có cấu thành quan 
hệ đại diện bề ngoài hay không là một câu 
chuyện phức tạp, đòi hỏi các Thẩm phán 
phải nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể 
và phải dựa vào bản chất của quan hệ trên 
cơ sở đối chiếu với hai điều kiện về đại 
diện bề ngoài như đã nêu trên.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam có lẽ 
mới chính thức thừa nhận đại diện rõ ràng 
thông qua việc quy định 2 hình thức đại 
diện là đại diện theo pháp luật và đại diện 
theo uỷ quyền. Đối với đại diện ngầm 
định, đại diện bề ngoài, pháp luật Việt 
Nam chưa chính thức thừa nhận. Thiết 
nghĩ, các nhà làm luật Việt Nam nên cân 
nhắc để có thể thiết lập các quy định nhằm 
hoàn thiện các quy định về đại diện trong 
hệ thống pháp luật Việt Nam./.

File đính kèm:

  • pdfhoc_thuyet_ve_dai_dien_cua_hoa_ky_khai_niem_va_cac_hinh_thuc.pdf